I find television to be very educating. Every time somebody turns on the set, I go in the other room and read a book.

Groucho Marx

 
 
 
 
 
Tác giả: Ma Văn Kháng
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 40
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 256 / 20
Cập nhật: 2020-06-05 12:47:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6
ây như khói từ các khe núi phả ra phủ màn huyền bí. Khí trời lạnh tỏa vào tận chân tóc người. Đường độc đạo len lỏi một vệt xám nhờ qua lưng núi này sang lưng núi khác. Người đi, giữa sương khói âm thầm, trong im vắng, một bước chân một lo ngại, hoang mang.
Vương quốc thâm nghiêm của tri châu La Văn Đờ thật khéo chọn nơi đất hiểm để dựng nghiệp. Ở đây, núi dựng thành, vực sâu cắt xẻ, cõi bờ, giang sơn cách biệt riêng một chốn.
Qua một khe hẹp, một bọn trai trẻ trang phục đủ sắc lính Tàu, Tây, Nhật xồ ra chặn lối, hạch sách, xét hỏi, đường bắt đầu thoai thoải đổ dốc. Rồi như có cánh cửa mở, một thung lũng phẳng lỳ, tròn như chiếc nong hiện ra loang loang đủ các sắc màu hoa thuốc phiện. Thuốc phiện ở đây rõ là tốt hơn bên Pa Kha. Đất cao, khi giời giá lạnh và dân H'Mông vốn giỏi canh tác thứ cây này. Cây thuốc to, mập. Cuống hoa to bằng chiếc đũa. Hoa mỗi đóa xòa rộng gần bằng bàn tay người. Và đứng ở giữa thung lũng thuốc phiện này, ngẩng lên, người từ xa lại một lần nữa ngơ ngác, bàng hoàng. Những bản H'Mông trắng phếch mái lá như những chuồng chim treo lơ lửng trong sương, nổi hình trên vách đá xám. Những bản H'Mông trên lưng chừng núi giống cái đai thùng vây quanh thung lũng thuốc phiện, thấp thoáng bóng những cây đào trơ cành khô khốc, xanh xám và không một bóng người.
Trấn Pha Linh nằm trên một ngọn đồi thấp, áp dông núi đá, nhìn xuống thung lũng thuốc phiện, nhìn lên là các làng H'Mông đông đúc trên các sườn núi.
Trấn Pha Linh, thoạt nhìn thì tẻ quá. Chỉ có hai dãy nhà ở hai bên con đường dài khoảng năm chục mét. Dẫy nhà áp núi phần lớn lợp ngói, mái trên chồng mái dưới, trông như cái minh tinh. Ngói là loại ngói Tầu úp lòng máng. Tường đá, xây trát bằng vôi trộn mật, xù xì nhưng chắc chắn. Trước mỗi căn nhà vững chãi ấy là hàng rào xương rồng, loại cây xương rồng dại, cành chắp, gai dài nhỏ như kim châm, hình thù quái gở, nở một thứ hoa cánh dày như múi mít. Dãy phố bên kia gần suối thuần mái cỏ. Cỏ dày hai gang, ép rẹp, mủn mục đen sì, loang lổ một lớp rêu đỏ màu quyết trầu; trên mái mọc ngùn ngụt những khóm dương sỉ, và cỏ dại. Tường nhà là đất nện, mặt tường chi chít dấu bàn tay in màu vôi trắng. Đó là cách đuổi ma: năm nay trước khi vua ra, có thể ma dữ sẽ về hại.
Trấn Pha Linh thường ngày buồn hiu hắt, mấy hôm nay bỗng sầm uất, đông vui khác thường. Đó là vì dân H'Mông, từ những làng xa, mãi bên châu lỵ Pa Kha, châu Mường Cang, và ở tận bên miền Tây, đang ùn ùn kéo về. Người về cùng tiếng ngựa hí dòng dòng, tiếng xe cút kít bánh gỗ lăn ót ét, chen lẫn tiếng lợn rống, dê be, trẻ con khóc, họa mi hót, khèn kêu, sáo thổi. Và lũ chó sở tại được dịp tha hồ sủa ngậu.
Bỏ lại nhà cửa, xóm làng, dồn về đây như chảy hội, như hành hương, đám người này về đại thể có thể chia thành hai loại. Loại thứ nhất, phần lớn là dân H'Mông bên châu Pa Kha, vượt núi Can Chư Sủ và sông Chảy sang đây vì tâm trí đang trong cơn mê mẩn: Vua, phua thay, người trị vì thiên hạ, đấng tối cao, quyền năng như thánh thần, người mưu cầu hạnh phúc cho người H'Mông sắp xuất hiện ở Pha Linh! Vua H'Mông! Người chỉ phất tay là lau thành mía, giậm chân là cỏ thành lúa, thành ngô. Ôi! Viễn cảnh ấm no, sung sướng thế thì sá gì mà chẳng bỏ lại tất cả gia sản, gia súc, mùa màng để tới đây ngóng chờ phúc lạc!
Số thứ hai đông hơn, phần nhiều là dân H'Mông ở các châu Mường Cang và ở các châu bên miền Tây. Người H'Mông vốn chẳng cư trú ở một địa vực chung. Ở lẻ, họ phải chịu đủ nỗi cơ cực của kẻ cô đơn lép vế. Ở Mường Cang, họ vừa đói khổ vừa bị thổ ty Nông Vĩnh Yêng khinh rẻ chèn ép. Những vụ đâm chém giết chóc lẫn nhau giữa bộ tộc này với bộ tộc kia từ trong lịch sử vẫn còn sờ sờ ra đó. Pha Linh là xã lớn, thuần H'Mông. Lại nghe nói quan tri châu La Văn Đờ tốt bụng, ăn ở hào phóng, thương yêu người H'Mông, từ đầu năm đã bỏ lệ nộp khờ cù, khờ chi *. Vậy thì lá hãy rụng về cội!
Giữa hai đám ấy, nổi lên một bọn trai trẻ cuồng tín, hung bạo, từ lâu âm ỉ cháy ngầm cái dục vong bá chiếm quyền hành để đè đầu cưỡi cổ những bộ tộc khác, được dịp này, nhảy như châu chấu tới Pha Linh. Tới đây là chúng hò hét, lớn tiếng kêu gào xây dựng một nước H'Mông hùng cường, có vua H'Mông anh minh đứng đầu thiên hạ.
Ảo vọng thiết tha trộn lẫn với cuồng si, mê muội. Phố xá lập tức rơi vào cảnh lộn xộn chưa từng. Vài ngày sau đã có mấy vụ chửi nhau, đánh nhau vì trộm cắp, và tranh gái. Được dịp, các quán ăn mọc như nấm. Lèng phân bày từng mẹt lớn. Hơn hai chục chảo thắng cố bốc khói cả ngày lẫn đêm đáp ứng nhu cầu ẩm thực càng lúc càng tăng, vì tình cảnh sảy nhà ra thất nghiệp và nếp sống phóng dật.
Càng rỗi rãi người càng chen chúc ở các quán ăn. Ở đây ruồi bay vù vù từng đám lớn. Ở đây, các chủ quán hớn hở chuyên ra hết hũ rượu này đến hũ rượu khác, miệng không ngớt câu chuyện đãi khách: Phải đấy, các ông các bà, các anh các chị chuyển đến đây ở là đúng lý rồi! Đất này là đất người H'Mông ta. Trước sau thì vua H'Mông cũng ra để cứu giúp dân ta chứ. Đã trông thấy quan lớn La Văn Đờ chưa? To béo, phương phi như Tây, nói được tiếng Tây, vừa ở bên Vân Nam về đấy! Quan vừa làm ma khô cho mẹ xong. Ôi chao! To lắm. Hiếu thảo đúng lý lối người H'Mông ta. Đã biết quan tri châu tính tình thế nào chưa? Rộng rãi, bặt thiệp, không để bụng thù ghét ai. Xưa, quan công sứ Tây cũng vì nể. Súng ống nhiều lắm nhé. Quan giàu vô kể và có cổ phần trong công ty thuốc phiện Việt Điền đấy. Thật là rạng rỡ người H'Mông ta! Các sảo quán * bên dưới quan cũng tài lắm. Châu Quán Lồ một mắt mà con chim bay, giơ súng, định bắn cái đầu trúng cái đầu, định bắn cái cánh trúng cái cánh. Còn Châu Quán Si em Châu Quán Lồ, rồi sảo quán Thèn Sèn Phà... thì mỗi người một vẻ. Ôi chà! Pha Linh thật kinh đô người H'Mông ta rồi!
Tất nhiên, cũng có chủ quán lúc bình thường chỉ xoay quanh chuyện buôn bán, làm ăn. Thấy người hiền lành mới khe khẽ rỉ tai: Sao lại dọn về đây? Chưa biết La Văn Đờ ư? Khôn khéo lắm. Này nhé: Nhật Bản đến, chạy sang Vân Nam, nhưng lại cho Châu Quán Lồ, tức Lồ Plóa ở lại làm y dũng hương đoàn. Nhật sắp thua, lập tức sai Lồ quay súng bắn Nhật, đón quân Tàu vào. Phăng- ki sắp về rồi. La Văn Đờ thờ Pháp đấy! Còn đánh nhau to đấy. Chết thôi, ông Đờ vừa ra lệnh thu mỗi nhà năm lạng thuốc phiện, năm đồng Đông Dương để mua súng đấy. Mỗi nhà phải hai bó đuốc, hai quả tạc đạn nữa... Sửa soạn đánh nhau rồi! Đánh ai? Chả biết được. Nhưng chắc là đánh người Kinh đấy thôi.
Ngày qua, những phấn chấn ngây thơ vô tội của đám đông dân H'Mông mong ước có được một cuộc sống ấm no, yên lành xẹp dần, xẹp dần. Hy vọng thì còn ở xa. Mà cái đói thì đã xồng xộc tới. Bắp hết. Vòng bạc bán đoạn. Rồi nhẫn vàng, bán nốt. Rồi lác đác có người bán ngựa, bán trâu. Rồi trẻ con ốm đau, đi ỉa chảy cả loạt. Trộm cắp sinh ra từ đói khổ. Người mất quả bí, người mất con gà. Tiếng chửi nhau lẫn với tiếng cúng ma đã lác đác rồi lầm rầm nổi lên ngày qua ngày. Ngày qua ngày, cả ngàn con mắt người cứ ngóng về tòa nhà quan tri châu hiếu nghĩa, nhân đức, hào phóng, phấp phỏng đón đợi và cầu xin.
Thì đây, người của quan châu La Văn Đờ đã xuất hiện. Bé nhỏ, trên lưng một con ngựa đen, tới giữa phố, người này nhổm lên, quay bốn phía, nói to:
— Pê H'Mông * nghe đây! Ngài La Văn Đờ rất vui lòng tiếp nhận những người cùng da cùng thịt với ngài. Bây giờ, đàn bà con gái, ông già bà cả thì về các làng quanh đây làm ăn làm mặc. Một tháng nữa mới phải đóng thuốc phiện và tiền, như dân sở tại. Còn các trai tráng, tính từ mười tám tới bốn mươi, thì được quan tri châu cho làm lính. Đó là ân nghĩa! Đó cũng là lệnh trên! Ai không theo sẽ bị xử phạt...
Không tách riêng một nơi như dương cơ của các bậc quan phụ mẫu khác, tòa nhà của La Văn Đờ, tri châu đất Pha Linh dựng ngay ở giữa thị trấn, nhìn bên ngoài như ở lẫn với dân chúng sở tại.
Đó là một căn nhà gác hai tầng, khung gỗ, lợp ngói, từ đường cái vào, phải leo chừng hơn chục bậc đá mới lên tới nơi. Hòa đồng vào cảnh quan, tòa nhà không có cái vẻ đồ sộ, phô trương. Nó chỉ nhỉnh hơn nhà mấy người buôn bán giầu có ở phố chút ít. Kiểu cách cũng vậy: nhà hai mái, mái trên uốn hơi vểnh, đo đỏ lớp ngói cổ xếp vẩy tê tê. Vẻ riêng của chốn công đường chỉ hiện hình ở hàng cột hiên tròn, to, sơn đỏ chóe và hai cái đèn lồng bọc lụa đỏ, chữ vàng kim tuyến,buông tua phơ phất ở ngoài hành lang.
Nhìn căn nhà có thể nghĩ: quyền thế của ông Đờ chỉ bằng một góc của tri châu Hoàng Văn Chao bên Pa Kha. Nhưng, nghĩ thế là lầm. Tri châu La Văn Đờ là một thủ lĩnh hùng mạnh bậc nhất ở miền biên giới xa xôi này.
Dòng họ La đến đất Pha Linh này tính tới nay đã tám, chín đời. Thoạt đầu, nó cũng chỉ là một hạt đậu, như bao dòng họ khác. Mãi tới năm 1925, La Văn Sầu, bố Đờ, mới được giữ chức lý trưởng Pha Linh — dạo đó Pha Linh mới chỉ là một xã. Bố chết, Đờ nối nghiệp cha. Trẻ tuổi, xông xáo, gian hiểm, nhưng Đờ vẫn không được người Pháp trọng dụng. Và đó là một sai lầm nghiêm trọng của người Pháp vào những năm ấy. Họ không đánh giá đúng vai trò, ý nghĩa tính cách H'Mông. Họ cho rằng Đờ đơn độc, Đờ chỉ có uy tín trong một dúm người H'Mông ở Pha Linh. Không được thăng châu uý, nhưng Đờ không hề tỏ ra bực dọc. Đờ lặng lẽ xây đắp cơ nghiệp. Đã học hết lớp ba trường tiểu học Pháp Việt ở tỉnh lỵ, là một thanh niên H'Mông thông minh, nhạy cảm, lắm mưu kế và thâm hiểm, Đờ âm thầm cải tổ bộ máy hành chính, lề lối cai trị và thúc đẩy Pha Linh tiến theo một con đường khác hẳn cha ông. Bỏ các lệ nộp khờ cù, khờ chi, cống vật, công không. Sống không cách bức với dân chúng. Mở mang quy mô trồng thuốc phiện. Thu mua thuốc phiện, bán lại cho công ty Việt Điền. Chiêu hiền, đãi sỹ, tập hợp dưới trướng mình cả một lớp thanh niên H'Mông tài năng, giàu nghị lực và hung tợn. Che giấu những thủ đoạn bóc lột không kém triệt để bằng ảo tưởng xây dựng quốc gia H'Mông. Ngấm ngầm chìa tay ra với các thế lực bên ngoài, v.v..., v.v...
Cho đến một ngày kia, do tiếp xúc với thực tế, và nhờ những công trình nghiên cứu về dân tộc H'Mông sặc mùi thực dân, người Pháp bắt đầu tỉnh ngộ thì thế lực của La Văn Đờ đã lớn lắm rồi. Tình báo Tưởng, tình báo Mỹ vội vàng chú ý tới Đờ. Công sứ Ét-các-lát lập tức đề nghị quan Toàn quyền thăng Đờ từ lý trưởng lên tri châu, ngang hàng với các thổ ty ở các châu khác, vốn cắm rễ đã lâu ở các vùng đất sở tại.
Đờ mới từ Vân Nam vội vã trở về Pha Linh. Con người có tham vọng lớn ấy bắt tay ngay vào công việc với một thái độ hết sức tự tin và kín đáo.
Tự tin và kín đáo. Cứ trông vẻ ngoài cũng thấy. To béo, cao lớn, bệ vệ. Hơn bốn mươi, dáng đứng khỏe như một cây pơ-mu lão đại. Mặt tròn, cổ rụt, mắt một mí, thâm trầm, bí hiểm. Cằm béo núc, hơi sệ, nhẵn thín không một sợi râu. Dáng người Đờ như sinh ra là để làm việc lớn.
Bấy giờ là non trưa.
Trong căn buồng trên gác vẫn dành cho các cuộc hội họp quan trọng, đang có cuộc bàn luận sôi nổi giữa các sảo quán hầu cận tin cậy của Đờ. Quanh cái bàn bát giác bằng trúc là Thèn Sèn Phà, Lèng Sì Trà, Châu Quán Si, bộ phận quan trọng trong bộ tham mưu về quân sự, chính trị của Đờ. Họ đang cãi nhau về cách xử tử một tên do thám của thổ ty Nông Vĩnh Yêng mới sa lưới phiên chợ trước. Sảo quán Lèng Sì Trà thích kiểu thắt cổ. Thèn Sèn Phà ưa lối cắt da trán tên tội phạm, lột xuống che mắt rồi bắn. Châu Quán Si đòi cho ngựa kéo.
Hút xong ba điếu thuốc phiện do cô vợ ba người Hoa mới đem từ Vân Nam về tiêm cho, Đờ mới đứng dậy, chậm rãi bước sang căn buồng đang om sòm tiếng cãi cọ.
Nhóm tùy tùng thấy chủ tướng sang, quay cổ lại. Đờ xua tay, điệu bộ rất tây, rồi đứng dịch ra cạnh khuôn cửa sổ. Trong bộ quần áo lanh may đúng kiểu H'Mông, ống quần rộng, Đờ trông giống một pho tượng, oai nghiêm, đường bệ. Nghênh đôi tai nhỏ như hai cái nấm lắng nghe và tay mân mê cái cằm nhẵn, Đờ đứng đó, im lìm mà thẩm lẩm nghĩ ngợi và quyết đoán.
Tiếp nhận được uy lực toát ra từ pho tượng nọ, bọn sảo quán lập tức ngừng cuộc cãi vã.
— Cứ nói chuyện tiếp với nhau đi mà, các sảo quán!
— Na nủ! Nếu bây giờ Việt Minh lên đây?
— À, ra là vậy!
Ra là vậy đấy! Đầu năm nay, phái đoàn quân sự của Pháp đã thành lập ở Côn Minh. Tháng Tư năm nay, Sanh-tơ-ni đã tới cầm đầu phái đoàn này. Năm nghìn lính của họ từ Lào Cai chạy Nhật sang hiện do các tướng Sa-ba-chi-ê và A-lét-xăng-đri chỉ huy. Họ đóng quân ở Mã Pờ, Mông Tự, Vân Sơn. Vân Sơn còn có phái bộ Mỹ... Những ý nghĩ lặn rất sâu, chỉ đôi lúc hiện ra ở cái chau mày, ở cái nhằn môi, ở tiếng thở hắt ra rất khẽ, và ở cặp mắt chốc chốc lại sáng lên quả quyết, tinh khôn của Đờ đã được đám thủ túc tiếp nhận và lập tức họ cùng im bặt; ngước nhìn chủ tướng, họ thành kính đợi chờ.
— Tôi nói, các sảo quán nghe rồi làm nhé!
Đợi cho các sảo quán im lặng chờ đợi một lát nữa, Đờ mới bước gần lại, chậm rãi từ tốn, mỗi câu mỗi chữ nhả ra như một nét chạm sắc bén:
— Giờ là lúc tốt nhất để ta lập nên nước H'Mông thịnh vượng. Một na nủ H'Mông trong têchơ * H'Mông.
— Chà!
— Đúng thế!
— Một tê chơ H'Mông! Một na nủ H'Mông! Hôm qua gặp người của hố pẩu Giàng Lầu ở bên Pa Kha sang hỏi, tôi có nói vậy.
— Trời!
— Một tê chơ H'Mông, một na nủ H'Mông! Tôi nói lại.
— Một đất nước H'Mông! Một quan lớn H'Mông! Hay quá!
— Nước H'Mông Tam Miêu ngày xưa đây rồi! Sao La tả quán * nói hay thế!
Đợi cho tiếng reo của các sảo quán hạ xuống, chìm trong ngẩn ngơ vui sướng, Đờ mới gõ ngón tay vào tay ghế, nhắc các sảo quán bàn việc tổ chức các đơn vị nghĩa binh. Và khi các sảo quán lại ồn ào trao đổi thì Đờ lại ngồi im, lặng lẽ dáng tượng tạc.
“Phải! Hoàng Văn Chao chỉ có một số dõng cũ, Nông Vĩnh Yêng khá hơn. Nó có nhiều sếp cũ, nhiều choảng pin. Lại có mấy phe cướp quy thuận. Con rể nó là Xì Xám Mần ở quân đoàn của tướng Long Vân. Nếu ta có hai trăm quân, thì chúng chỉ là chuột nhắt! Nhưng Việt Minh? Việt Minh có bao nhiêu quân?”.
Đờ nhíu trán. Và lần này đợi Lèng Sì Trà nói hết ý kiến của mình, Đờ mới đập khẽ tay xuống bàn, giọng chắc nịch:
— Tôi định thế này.
— Xin La tả quán cho lệnh.
— Ta chia làm ba đội. Mỗi ông ở đây chỉ huy một đội. Ông Châu Quán Lồ làm tổng chỉ huy.
— Ua la hồ!
Đờ chống tay đứng dậy. Đám sảo quán vừa reo to đã quay cả nhìn ra cửa buồng. Một ả đàn bà mặt hoa da phấn, tóc vuốt cao búi ở trên đỉnh như cái nậm rượu, áo nhiễu màu xanh óng ánh, đang bước vào, trên tay là cái khay nặng chịch một chai rượu Tầu.
— Mời các sảo quán thăng quan!
— Đù a! *
— Bà ba sao biết tính anh em H'Mông tôi thế!
— Cảm ơn bà ba nhé! Khá khá...
Căn phòng vỡ ra những tiếng cười, tiếng reo. Rượu mao đài nặng gắt, ngửi đã choáng váng, mê mê.
Thèn Sèn Phà tay nâng cốc rượu, tay che bộ ria mép đen sì, cười cười:
— Tôi cạo bộ ria này còn ai nhận được là Thèn Sèn Phà không? Há há! Châu Quán Lồ đã làm y dũng hương đoàn với người Nhật. Bao giờ cạo được cái vết đó?
Chân trái thọt, Lèng Sì Trà nhảy ra ngoài cái ghế. Vừa tập tễnh nhảy quanh bàn rượu, y vừa nghêu ngao:
— Lồ Ploá! Tù dìn din...*
— Nói láo! Đập chát cái cốc xuống bàn, Châu Quán Si đột ngột quát to.
— Há há! Hai mắt tỵ nhau, một mắt dễ nhìn mà!
Lèng Sì Trà đay đả. Châu Quán Si gằn:
— Còn anh! Chân bị dao phát ruộng chém còn đau mà cứ nhảy phứa lên bụng vợ, hèn nào không thọt! Đồ thọt!
— Mày giống Châu Quán Lồ anh trai mày, mày là con dê đực, Si ơi!
— Thằng Si rách tai hãy liệu hồn!
— Thằng Thà ăn trộm bị đòn, lưng còn sẹo kia!
— Khá... khá...
Đứng ở cái hiên trên gác, Đờ xoa cằm, tai nghe bọn sảo quán say bới xấu nhau, cười thầm. Tuổi trẻ là con ngựa. Ngựa càng hay càng lắm tật. Không sao! Có hay mới có tật.
Bây giờ, ngoài đường bỗng rộn tiếng vó ngựa.
Một con ngựa cao, nòi Mông Cổ, lông hung sẫm, mặt dữ tợn vừa phi tới trước cửa nhà tri châu. Trên lưng ngựa, lạ mắt quá, phía sau yên buộc hai thanh tre đỡ một chiếc lọng tán tròn xoe tua vàng phơ phất buông rủ. Dưới cái lọng ngồi ngay ngắn một người chột mắt, dáng chắc khỏe như súc gỗ. Người này không xuống ngựa. Và con ngựa thuộc tính chủ, cứ từng bậc đá, từng bậc đá lừng lững leo lên. Tới tận thềm nhà quan châu, người nọ mới nhấc chân khỏi bàn đạp nhảy xuống, rồi hai tay xếch hai khẩu côn ở hai bên hông, bình bịch bước lên gác.
Người nọ, chính là Châu Quán Lồ, tổng chỉ huy “nghĩa binh” mới được quan tri châu La Văn Đờ phong chức.
Lồ cao, to, bắp thịt nình nịch, ngùn ngụt sinh lực. Cái áo lanh rộng, cái quần Nhạt lưng lửng đầu gối, càng tôn cái cơ thể cường tráng, săn chắc của Lồ. Da mặt Lồ đỏ au. Cái mặt sẽ đẹp, nếu như con mắt trái không chột, sâu hoắm một kẽ nứt đỏ lòm.
Vo tròn cái mũ vải sáu múi trong tay, Lồ sải những bước dài. Tới căn buồng đầu hồi gần lối lên gác, Lồ dừng lại. Mũi nhấp nhỉnh như đánh hơi, ngó qua khe cửa, thoáng chút ngần ngừ, rồi hắn cả quyết đẩy cửa, tọt vào. Lát sau nghe thấy từ trong đó vẳng ra tiếng cô vợ ba tri châu cười khanh khách. Rồi tiếp đó, thấy Lồ vừa đẩy cửa bước ra vừa xốc lại cạp quần, con mắt lành sáng như tóe lửa.
Đập khẽ cái tẩu vào lòng bàn tay, Đờ còn đang cúi đầu ngẫm nghĩ, đã thấy Lồ đập gót đứng sững ngay trước mặt.
— Trình La tả quán!
— Kìa, sảo quán mới về. Công việc thế nào?
— Trình La tả quán. Đám dân mới bướng lắm. Tôi trói một đứa, cho ngựa kéo!
— Hừ!
— Đến đầu phố, tôi gặp hai người. Họ là Việt Minh. Họ bảo tôi về báo cho ông Châu biết.
Nghe thấy cái giọng rất vang của Lồ, Châu Quán Si, em Lồ, bỏ lũ sảo quán đang uống rượu, nhao ra:
— Anh Lồ! Gặp Việt Minh ở đâu?
— Ở đầu phố.
— Nhiều hả?
— Một đứa! Một đứa đi dẫn đường là người H'Mông ở Can Chư Sủ.
Đờ bỏ lũ sảo quán, bước theo hàng hiên, tay xoa xoa cằm. Cái quần rộng ống chốc chốc lại phủ kín đôi giày vải đen khâu tay, to bè, bèn bẹt. Ấy là lúc Đờ đứng lại. Ấy là lúc Đờ bộc lộ ra rõ nhất tính nết y. Thâm trầm, độc địa, giàu tự ái và đố kỵ.
“Na nủ H'Mông sao lại phải cúi đầu trước ai? Phải!” Đi được vài bước y lại dừng chân. “Việt Minh! Mày chỗ nào cũng tới được! Mày ghê gớm thật! Nhưng, mày nhớ nhé! Cạnh tao còn có người Pháp, người Mỹ” — Lần này bước tới đầu cầu thang thì y sững lại: “Mình tiếp họ. A Linh nghĩ thế nào? A Linh là của người Pháp hay của người Mỹ?”.
Ý nghĩ dứt mạch, Đờ bước xuống cầu thang, vào buồng cô vợ ba:
— A Linh à! Việt Minh đến, em ra tiếp họ hộ anh!
Lúc ấy ngoài đường chợt vang lên tiếng la hét và tiếng ngựa phi rầm rập.
— Hú! Hú! Nhanh nữa lên! Nhanh nữa lên!
— Hú... Lão già dẻo chân quá. Cho nó chết đi!
— Ngựa thối, chạy nhanh nữa lên! Hú hú...
Một cơn bão những tiếng la hét, reo hò, những tiếng hú tiếng cười cuồn cuộn bốc lên trước cửa nhà quan tri châu. Ấy là lúc con ngựa thực hiện lệnh trừng phạt, kéo theo sau một người đàn ông H'Mông hai tay bị trói quặt sau lưng chạy qua.
Tên lính ngồi trên mình ngựa trẻ tuổi nhơn nhơn cười như đang tham dự một trò đùa. Con ngựa đen, mắt xanh dữ tợn, thì trái lại, nó gằm ghè và chạy không đều chân, nên cứ sau một tiếng “pách” của chiếc roi da quất, lại co cẳng dấn vó nhanh thêm một nhịp, khiến người bị hành xác lại bị giật mạnh, chúi đầu về phía trước.
Cuộc hành hình càng lúc càng thu hút người xem. Bọn lính đứng chật ven đường. Chúng suỵt chó đuổi theo người bị hành tội. Chúng ném cả đá vào ông ta. Hỡi ôi! Người nọ đã sắp kiệt sức rồi thì lũ chó đuổi theo ông ta bị một ai đó ném cho mấy cồ đá, lúc ấy chúng mới chịu bỏ cuộc, buông tha. Con người khốn khổ nọ đâu còn trẻ. Ngoài năm mươi, tóc tết đuôi sam, ông ta vừa chạy theo con ngựa, vừa dùng sức cố níu cái dây buộc bụng mình với cái yên ngựa, như cố ghìm con ngựa lại. Nhưng, sức ông già sao ghìm nổi sức ngựa dữ. Chỉ được một vòng quanh phố, người nọ gần như kiệt sức. Và tới vòng thứ hai, khi con ngựa bị một cú hích, dún hai chân sau, đổi nước chạy thì cùng với tiếng rú kinh hoàng của đám người đứng xem ở bờ đường, người nọ liền ngã rập xuống đất.
Mặc! Tiếng roi quất vẫn nổ rát. Ngựa vẫn bị thúc, lồng lên từng đợt trong bụi đất bốc lên mù mù. Bụi mù mù quẩn đặc vì chân ngựa khua, vì cả cái xác người xấu số nọ nữa. Xác người nọ để lại một vệt máu thâm sì trên mặt đất. Và lũ chó thị trấn không bỏ lỡ dịp thể hiện tính chó rừng hoang dã lập tức phóng ra, tranh giành nhau những miếng thịt rơi của con người xấu số nọ rơi, bết trên đường.
Đứng trước căn nhà tri châu La Văn Đờ, chứng kiến từ đầu cuộc hành quyết man rợ nọ, mặt Pao đã đỏ ứ máu vì tức giận. Ngực Pao thắt nghẹn, nở gồ. Nước mắt Pao ứa chảy. Răng Pao nghiến ken két. Pao sắp nổ tung và khi con ngựa kéo xác người vừa tới trước mặt Pao, Pao liền xông ngay tới, nhảy lên nắm cái dây cương. Con ngựa hất đầu định dựng hai vó chồm lên, cánh tay Pao cháy nắng nổi bắp gò nó xuống. Pao gào cháy cuống họng:
— Dừng ngựa lại! Người ta chết rồi!
Tên lính ngửa người về sau. Pao thấy cái roi da ngoằng một vòng ở trên đầu. Anh loạng choạng. Bên trái trán anh đau rát. Có tiếng ai đó gọi: “Pao! Ra đây!”. Mặc! Pao cứ ghìm cổ con ngựa. Cái roi da lại vung. Pao không tránh vệt roi da. Nhưng ngay lúc ấy, anh nhận ra có đến năm sáu người đàn ông từ bên lề đường đã đổ ra vây lấy con ngựa và tên lính nọ.
Pao buông tay ghìm mõm con ngựa. Tên lính cưỡi ngựa đã nhảy xuống. Nó lách đám đông, tay lăm lăm khẩu súng. Pao né một bên. Nhìn người đứng trước mình, Pao bỗng kêu: “Anh Lử!”. Thì chính người đó đã vung tay đấm mạnh vào mặt tên lính cưỡi ngựa nọ:
— Chung cao nả!* Nó là em tao!
Pao sấn lại. Tên lính nọ ngã dưới đất đang lồm cồm bò dậy. Lử chống tay bên sườn. Trông Lử sạch sẽ, gọn gàng và oai vệ. Áo quần ka ki vàng, kiểu lính Tàu. Cái mặt nhỏ quắt vênh vênh, sắt lạnh.
— Đ.mẹ! Không sợ! Pao à, anh đã gặp La tả quán. La tả quán tốt. Cho anh bộ quần áo này. Còn nói: có thiếu thốn gì, cứ bảo.
Chính bước lại cạnh Pao. Anh vừa kịp nói với Pao: “Cẩn thận đấy, Pao!” và trìu mến nắm hai bắp tay Pao thì đằng sau anh có một tiếng người bẩm báo:
— Dạ, thưa La tri châu xin mời ngài phái viên lên tiếp kiến ạ!
Chính quay lại. Tên lính hầu lẻo khoẻo đeo một băng đạn qua vai, đi cạnh Chính.
Chính bước lên bậc đá. Chính đã tận mắt nhìn thấy những khổ đau, chết chóc của người thợ, của người dân cày. Chính đã từng chứng kiến những tội ác man rợ của lũ địa chủ, cường hào, ác bá, bọn quan lại, thực dân ở nông thôn, hầm mỏ, phố phường. Nhưng, chưa ở đâu, như ở đây, tội ác lại man rợ, mạng người bị khinh rẻ đến như thế này.
Người Chính rung lên. Chính không thể yên lặng. Chính không thể quay mặt đi. Chính không thể bắt tay cười cợt với kẻ đã hành hình người dân vô tội một cách tàn bạo như thế, dù chỉ là chốc lát, dù chỉ là với vẻ bề ngoài.
Nỗi căm phẫn của Chính càng bốc lửa khi anh nhìn thấy đứng ở bậc thềm là ả đàn bà môi đỏ choét, hai con mắt nhoi nhói như mắt rắn, trơ trẽn, đĩ thõa:
— Thưa ngài phái viên, quan nhà tôi bị mệt, không tiếp ngài được. Quan nhà tôi... rất lấy làm tiếc...
Chính lùi lại một bước. Yên lặng. Phía dưới, những người vây quanh Pao lúc nãy đang ngó lên.
— Thưa ngài phái viên — Ả đàn bà lại lúng liếng hai con mắt rắn — Quan nhà tôi sai tôi...
Chính nhìn thẳng vào ả đàn bà. Không! Chúng là kẻ có tội. Chúng phải biết điều đó. Sao chúng dám ngang nhiên làm điều phi pháp và bây giờ lại dám xúc phạm Chính?
Mặt Chính đỏ cháy màu đồng thau. Hai con mắt như xói lửa vào ả đàn bà, Chính nói, giọng gay gắt:
— Tôi cũng xin nói để bà báo lại cho ông nhà biết: tôi không thể nói chuyện với ông ấy lúc này. Tội ác mà các người gây ra thật quá ghê tởm. Các người chỉ có thể tồn tại nếu các người kịp thời dừng ngay những tội ác đó lại!
Không cần biết ả đàn bà sững sờ, hoảng hốt đang giật lùi lại vào bậc thềm, Chính quay lại gọi Pao rồi hướng xuống phía đám đông, vung cánh tay, bất ngờ:
— Thưa bà con, anh em người H'Mông! Chúng tôi là Việt Minh, là đại diện của Chính phủ Trung ương lên đây để bàn bạc việc đánh giặc giữ nước, mưu cầu đời sống yên vui, no ấm cho bản làng. Ai là người thương dân lúc này phải cùng với Chính phủ đánh Quốc dân Đảng. Hôm nay, ông La Văn Đờ từ chối tiếp chúng tôi. Việc bàn bạc sau đây có tiếp tục hay không là do ông Đờ quyết định. Nhân dịp này, tôi xin thay mặt Việt Minh tỉnh gửi lời chào thân ái đoàn kết tới toàn thể đồng bào, và gửi lời chia buồn với đồng bào bị hành tội chết thảm thương vừa rồi. Việt Minh không tán thành một hành động dã man tàn ác như thế!
Dừng lại, máu như dồn về, nóng bừng hai con mắt, tay giơ cao, chém mạnh vào không khí, giọng Chính lai dướn cao lên, vang vang:
— Sinh mệnh của bất kỳ người dân Việt Nam lương thiện, cũng phải được tôn trọng. Kẻ nào xâm phạm tới tính mạng của đồng bào, kẻ đó làm trái hiến pháp, kẻ đó là có tội!
Dưới lòng đường, người tụ lại như đông thêm. Chưa bao giờ có một lời lên án hiên ngang, dõng dạc như thế ở đất này. Trước nay chưa có ai dám đứng trên bậc thềm cao nhất kia mà kết tội quan châu và cúi xuống bày tỏ sự bênh vực, ưu ái với những kẻ khốn cùng như thế.
Hai nắm tay vung cao, giọng nói của Chính chưa bao giờ hào hùng, mạnh mẽ, rắn chắc như giọng của bản tuyên ngôn như thế:
— Thưa đồng bào! Đồng bào là người H'Mông, đồng bào cũng là người Việt Nam, trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam đã được độc lập, tự do, người Việt Nam phải được hưởng độc lập, tự do, hạnh phúc. Không một kẻ nào, dù kẻ đó là ai, có quyền đầy đọa, hành hạ, sát hại một người dân Việt Nam. Xin hẹn gặp lại đồng bào. Kính chào đồng bào!
Hai cánh tay Chính chĩa lên trời như hai cánh chim lớn. Chấm dứt cuộc nói chuyện rất đột ngột. Chính cúi xuống chào mọi người rồi quay lại bảo Pao:
— Ta đi thôi, Pao!
Hai người bước xuống bậc đá. Đám đông xê dịch, rẽ ra một lối cho họ đi, ánh mắt nhìn theo họ vừa kính nể vừa ngỡ ngàng. Trong đám đông, khe khẽ những tiếng rên thầm, rồi chợt trào lên một tiếng khóc nức nở.
“Pao ơi! Có phải chính Pao đã chứng kiến cuộc hành sát đẫm máu, thảm thương nọ. Pao đã căm uất, Pao đã tin lời tôi nói đêm qua với Pao? Không một ai có thể cứu được ta, kể cả vua H'Mông, kể cả các quan lớn H'Mông. Chính ta, ta phải cứu ta. Chỉ có những người cùng khổ giác ngộ, đoàn kết lại không phân biệt dân tộc, mới có thể giúp được nhau thoát khỏi cuộc đời lầm than, đua khổ này...”.
Ý nghĩ nọ sục sôi trong Chính khi Chính theo Pao, rập rình trên mình ngựa. Con ngựa bạch vượt lên vì cái thúc chân của Chính. Lòng chính lại như có gió thốc.
“Ta như thế có tả khuynh không? Ta có thiếu sự tỉnh táo không? Không! Với chúng, ta đã nhìn rõ tim gan. Ta cần vạch tội của chúng, chúng phải nhận tội, phải chịu quy thuộc về ta, chịu sự kiềm chế của ta. Cứng rắn và mềm dẻo đều phải đúng lúc. Chắc chắn sẽ có một số quần chúng nghèo khổ người H'Mông đồng tình với ta. Và La Văn Đờ, nếu khôn ngoan đúng như lời người ta truyền, thì thế nào hắn cũng phải tìm đến ta...”.
Con ngựa bạch vùn vụt băng dốc. Người Chính nóng hực. Bỗng, có tiếng Pao gọi:
— Anh Chính! Có ngựa đuổi theo!
Chính dừng ngựa. Hay là bọn Đờ định hành hung. Anh rút khẩu Môde ở bên sườn và bỗng tiếc vô cùng: Sao Pao không có một khẩu súng?
Pao tạt con ngựa vào chân đồi. Pao tính mưu kế gì? Nhưng hai con ngựa nâu từ phía sau đã dồn vó, ào tới. Pao thúc ngựa ra chặn, hét:
— Pê H'Mông! Chuyện gì thế?
Hai con ngựa nâu được ghìm cương dừng lại. Hai bóng người trai trẻ vừa từ lưng ngựa nhảy xuống. Hai người giống hệt nhau: mặt trái xoan, gò mũi thẳng, mắt dài, u uất. Họ không đeo súng, lưng không có đạn. Họ bước lai phía Chính. Pao giật ngựa tới:
— Pê H'Mông! Chuyện gì thế?
Hai người trai trẻ nọ không ai bảo ai, cùng lúc quỳ rạp xuống dưới chân ngựa Chính và Pao. Người nhiều tuổi hơn, độ hai mươi, ngẩng lên, môi run bần bật:
— Đa tạ... Đa tạ người có lòng tốt. Tôi là Lù A Seng, em tôi đây là Lù A Tếnh. Chúng tôi là con trai người bị Châu Quán Lồ và La Văn Đờ cho ngựa kéo hành hình. Đa tạ người có lòng tốt! Thù này chúng tôi không quên đâu. Nước sông Chẩy có cạn thì máu trả thù cũng phải đổ... Giờ chúng tôi bỏ Pha Linh, về làng đây... Hẹn gặp! Hẹn gặp!
Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe - Ma Văn Kháng Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe