To choose a good book, look in an inquisitor’s prohibited list.

John Aikin

 
 
 
 
 
Tác giả: Knut Hamsun
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Hunger
Dịch giả: Thái Bá Tân
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Liem La
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4258 / 47
Cập nhật: 2015-08-10 14:20:54 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
iá ông được thấy vợ ông ấy, - tôi tức giận nói tiếp. - Một mụ thật to béo... Ông không tin rằng vợ ông ấy béo à?
Không, tất nhiên ông già không thể phủ nhận điều ấy. Vợ một người như Happôlati cũng có thể béo lắm chứ...
Đáp lại mỗi trò khiêu khích của tôi, ông già có thái độ hết sức nhẹ nhàng và nhã nhặn. Khi nói, ông cân nhắc kĩ từng lời, như sợ nói thừa làm tôi tức giận.
- Quỷ tha ma bắt ông đi! Chắc ông nghĩ tôi đang nói nhăng nói cuội với ông chứ gì? - Tôi hét to, không tự chủ được nữa. - Chắc ông cho là trên đời này chẳng có thằng quái nào tên là Happôlati hả? Đây là lần đầu trong đời tôi gặp một lão già bướng bỉnh và đáng ghét như ông! Có chuyện gì xảy ra vậy? Biết đâu ông lại chẳng nghĩ rằng tôi là một thằng ăn mày, quần áo đẹp nhưng trong túi thì đến điếu thuốc cũng chẳng có? Tôi không quen bị hiểu nhầm như thế, và xin báo ông biết rằng tôi, ôi lạy Chúa, tôi sẽ không tha thứ cho bất kì ai ai dám đối xử với tôi như thế!
Ông già đã đứng dậy. Ông há miệng, lặng lẽ nghe tôi nói liền một mạch, sau đó vớ lấy cái gói bọc báo từ ghế lên rồi bỏ đi, hầu như chạy nhanh trên con đường nhỏ bằng những bước chân ngắn, già lão của mình.
Còn tôi vẫn ngồi yên nhìn theo và thấy lưng ông ta mỗi lúc một còng thêm. Không biết vì sao, nhưng tôi có cảm giác như trong đời tôi chưa hề thấy một chiếc lưng nào bần tiện, trơ tráo như thế, và tôi hoàn toàn không thấy xấu hổ khi thầm nguyền rủa theo ông ta như vậy...
Mặt trời sắp lặn, lá cây khẽ xào xạc, các bà già đẩy xe nôi ngồi cạnh bờ rào đã chuẩn bị cho cháu về nhà. Tôi cảm thấy thanh thản và bàng quan. Sự hồi hộp trước đấy đang lắng dần. Tôi mệt mỏi, chân tay rã rời, và buồn ngủ. Mặc dù hôm ấy tôi ăn quá nhiều bánh mì, nhưng hầu như không để lại hậu quả gì. Tôi khoan khoái ngả người xuống lưng ghế, nhắm mắt lại, càng buồn ngủ hơn. Tôi khụt khịt mũi mấy cái, sắp thiếp đi thì người gác công viên đi lại, để tay lên vai tôi, nói:
- Ở đây không được ngủ.
- Vâng, tất nhiên, - tôi đáp và lập tức đứng bật dậy.
Nhưng cũng liền lúc ấy tôi ý thức thấy tôi đang ở trong tình thế tuyệt vọng. Cần phải làm một việc gì đó, quyết định một điều gì đó! Tôi đã thất bại trong việc kiếm cho mình một chỗ làm. Các thư người ta giới thiệu tôi thì quá cũ, ở đấy có chữ kí của những người ít ai biết đến, thành ra chẳng thể trông đợi nhiều ở chúng.
Thêm vào đó, bị từ chối quá nhiều, tôi đã để mất lòng tin vào chính bản thân mình. Trong khi đó tôi vẫn nợ tiền nhà và phải kiếm bằng được số tiền này đâu đó. Những cái còn lại tạm thời có thể để nguyên như cũ.
Tình cờ, tôi cầm giấy bút và viết vào mỗi góc tờ giấy con số "1848". Giá gì tôi có được một ý nghĩ, một cảm hứng hay để mách cho tôi các câu từ tôi muốn viết! Đã có lúc, vâng, trước kia đã có lúc tôi viết liền một mạch không chút khó khăn cả một bài báo dài và hay!
Tôi ngồi yên trên ghế và vẫn viết lên giấy con số "1848", viết dọc, viết ngang, viết trăm nghìn kiểu khác nhau, viết để chờ nguồn cảm hứng xuất hiện. Một vài mẩu suy nghĩ lởn vởn trong đầu tôi; cảnh hoàng hôn chỉ làm tôi thêm buồn chán. Mùa thu đã đến và bắt đầu trói chặt vạn vật bằng giấc ngủ... Tôi tự thấy mình như con sâu nhỏ đang chết dần giữa một thế giới sắp chìm trong giấc ngủ. Giật mình vì một nỗi sợ không giải thích nổi, tôi chợt đứng bật dậy và bước nhanh những bước dài theo lối đi nhỏ. "Không! - Tôi kêu to, tay nắm chặt thành nắm đấm. - Không thể kéo dài mãi thế này được!" Rồi tôi lại ngồi xuống cầm bút và quyết định bằng bất kì giá nào cũng phải viết bài báo tôi muốn viết. Tôi không được phép buông tay. Số tiền nợ thuê nhà lởn vởn trước mắt.
Chậm chạp, rất chậm chạp, các ý nghĩ của tôi bắt đầu trở nên đâu vào đấy. Tôi cố tập trung chú ý, thận trọng cân nhắc từng từ và đã viết xong mấy trang mào đầu. Những trang này có thể làm phần mở đầu cho bất kì bài báo nào - về ghi chép dọc đường hay về điểm tình hình thời sự - tuỳ tôi lựa chọn.
Sau đó tôi vắt óc nghĩ nội dung cho bài báo đang viết; tôi muốn tìm ai đó, cái gì đó đáng viết, nhưng tìm mãi mà chẳng thấy gì. Vì cố mãi không thành, suy nghĩ của tôi lại bắt đầu lẫn lộn. Bộ não từ chối không chịu làm việc, còn đầu thì mỗi lúc một trống rỗng, và lần nữa, tôi không cảm thấy sức nặng của nó trên vai. Hình như cả người tôi cũng trống rỗng, trống rỗng từ đầu đến chân.
- Trời ơi! - Tôi kêu lên tuyệt vọng, sau đó còn nhắc lại mấy lần như thế, không đủ sức nói thêm gì nữa.
Gió thổi mạnh trong bụi cây, trời trở xấu. Tôi ngồi thêm một lúc, lơ đãng nhìn tờ giấy, rồi gấp nó lại, thong thả cho vào túi. Lạnh, thế mà bây giờ tôi chẳng còn áo gilê. Tôi cài cúc áo khoác đến tận cổ rồi cho hai tay vào túi. Sau đó tôi đứng dậy, bỏ đi.
Ước gì lần này tôi gặp may, chỉ duy nhất một lần này thôi! Bà chủ nhà đã hai lần nhìn tôi với vẻ muốn đòi nợ, còn tôi thì buộc phải bối rối cúi chào rồi tìm cách nhanh chóng đi ngang. Tôi không thể chịu đựng thêm thế này được. Khi bà ta nhìn tôi lần nữa như vậy, tôi sẽ thú thật hết mọi chuyện và trả phòng lại, vì dù sao tiếp tục mãi thế này là không thể được.
Tới cổng công viên, tôi lại nhìn thấy ông già bé nhỏ trước đấy đã hoảng sợ bỏ chạy vì thấy tôi tức giận. Chiếc gói bí hiểm đã được mở tung, nằm cạnh ông ta trên ghế - hoá ra đó chỉ là một gói thức ăn tạp nham mà bây giờ ông ta đang ăn. Tôi muốn lại gần để xin lỗi về thái độ khiếm nhã của mình, nhưng không thể làm được điều đó, vì trông cách ông ta ăn thật bần tiện. Mười ngón tay già nua nhăn nheo như mười chiếc móng gớm ghiếc vồ lấy những miếng bánh mì cặp thịt đầy mỡ. Tôi cảm thấy muốn buồn nôn, nên đã lẳng lặng đi qua. Ông già không nhận ra tôi. Đôi mắt ông ta lướt qua tôi, nhưng nét mặt không một chút thay đổi.
Tôi đi tiếp.
Theo thói quen, tôi dừng lại trước một bảng báo công cộng, đọc các quảng cáo thuê người làm. Tôi mừng rỡ khi tìm thấy một chỗ rất thích hợp với mình: một nhà kinh doanh ở Grenlansleret cần thuê một người biết tính toán giỏi để làm việc mỗi lần hai giờ vào buổi tối; tiền công theo thoả thuận. Tôi ghi địa chỉ và thầm cảm ơn Chúa. Tôi sẵn sàng nhận bất kì loại tiền công nào, dù ít ỏi nhất. Đối với tôi, năm mươi ere cũng đủ, thậm chí cả bốn mươi. Điều kiện nào tôi cũng chấp nhận.
Trở về nhà, tôi thấy trên bàn có một mẩu giấy. Bà chủ nhà yêu cầu tôi hoặc thanh toán tiền nhà trước, hoặc phải giải phóng phòng càng sớm càng tốt. Bà ta yêu cầu tôi đừng giận, vì bà ta không còn cách nào khác. Chúc ông mọi điều tốt lành - bà Gunnersen.
Tôi viết thư gửi Crixti, nhà kinh doanh kia, 31, Grenlansleret, dán phong bì rồi ném vào thùng thư ở góc phố. Sau đó tôi lên phòng, ngồi xuống ghế xích đu và bắt đầu suy nghĩ. Bên ngoài trời mỗi lúc một tối dần. Sự mệt mỏi đè nặng lên người tôi.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy sớm. Khi tôi mở mắt, trời hãy còn tối và chỉ một chốc sau tôi mới nghe phía dưới chuông đồng hồ điểm năm tiếng. Tôi muốn ngủ tiếp, nhưng không được, thậm chí cả mơ màng cũng không, vì hàng ngàn ý nghĩ đã chui vào đầu tôi.
Bỗng nhiên tôi nghĩ ra mấy câu rất hay, thích hợp cho một bài kí hay một bài văn châm biếm. Đó là một dịp may hiếm có xưa nay tôi ít gặp. Tôi nằm yên thầm nhắc lại những câu ấy và thấy chúng thật tuyệt. Sau đó các câu khác xuất hiện. Tôi tỉnh hẳn, ngồi dậy vớ bút giấy trên chiếc bàn kê sát giường. Như thể có mạch nước ngầm phun mạnh trong tôi, câu chữ nối đuôi nhau xuất hiện rồi trải dài trên trang giấy. Một cốt truyện được hình thành, các tình tiết thay đổi, các câu đối thoại và các sự kiện đan quyện lại với nhau. Tôi thấy mình thật hạnh phúc. Như một thằng điên, tôi luôn tay viết hết trang. ý nghĩ kéo đến nhanh và nhiều tới mức tôi không kịp viết, dù đã cố gắng hết sức. Tôi như chìm trong biển ý nghĩ ấy, ngây ngất vì đề tài đang viết, và mỗi câu từ được chép lên giấy cứ như tự chúng xuất hiện.
Trạng thái kì diệu ấy kéo dài lâu, rất lâu, và cuối cùng, khi tôi ngừng viết đặt bút xuống, trên đầu gối tôi đã có mười lăm hoặc thậm chí hai mươi trang giấy kín đặc chữ. Nếu những trang giấy này quả thật có ít giá trị nào đó, nghĩa là tôi đã được cứu thoát! Tôi đứng bật dậy khỏi giường và bắt đầu mặc quần áo. Trời mỗi lúc một sáng hơn, hầu như đã có thể đọc được tin quảng cáo của người coi đèn biển trên tờ báo dán bên cửa ra vào. Bên cửa sổ thì đã sáng đến mức ngồi viết lúc này trở thành một việc đầy thích thú. Và tôi lập tức ngồi chép lại sạch sẽ những gì đã viết.
Trí tưởng tượng của tôi được chắp cánh bởi một màn dày gồm ánh sáng và các màu sắc. Liên tiếp ngạc nhiên vì các thành công của mình, tôi tự nhủ rằng chưa bao giờ tôi được đọc cái gì hay thế này. Hạnh phúc làm tôi ngây ngất, niềm vui làm tôi rạo rực. Nâng tập giấy trên tay, tôi thầm đoán chúng ít nhất cũng đáng giá năm curon. Sẽ chẳng có ai trả ít hơn năm curon, ngược lại, có thể nói một cách mạnh dạn rằng, nếu tính đến nội dung, thậm chí mười curon cũng còn quá ít. Tôi không có ý định bán rẻ một bản thảo đặc biệt như thế này. Theo tôi biết, tác phẩm tốt bây giờ không phải dễ tìm lắm. Và rồi tôi quyết định sẽ đòi mười curon.
Trong phòng sáng hẳn, tôi nhìn về phía cửa ra vào, và đã có thể đọc một cách dễ dàng những dòng chữ mảnh như những bộ xương người, thông báo rằng "ở cửa hàng ông Anđerxơn, cửa bên phải, khách hàng có thể mua được những tấm vải liệm tốt nhất". Thêm vào đó, chuông đồng hồ phía dưới điểm bảy giờ từ lâu.
Tôi rời cửa sổ đến đứng chính giữa phòng. Nếu cân nhắc kĩ mọi khía cạnh, việc bà Gunnersen đuổi tôi ra khỏi phòng lúc này không có gì đáng ngại, thậm chí còn tốt nữa là khác. Căn phòng này không phù hợp với tôi chút nào; rèm che cửa sổ là những tấm vải xanh quá giản dị, còn tường thì có quá ít đinh, muốn treo quần áo cũng chẳng biết treo vào đâu. Còn chiếc ghế xích đu trong góc thực ra chỉ là cái mô phỏng đáng thương hại của một chiếc ghế xích đu thực sự, một vật đáng buồn cười, không hơn. Thêm vào đó, nó lại quá thấp đối với một người lớn như tôi, và quá chật, đến nỗi mỗi lần muốn đứng dậy, phải vất vả lắm tôi mới kéo người ra nổi, khó như rút chân ra khỏi chiếc ủng chật vậy. Tóm lại, căn phòng này không thích hợp cho công việc trí óc, và tôi chẳng muốn ở lại đây thêm ngày nào nữa. Không, không bao giờ! Tôi chịu đựng, im lặng và tự giam mình trong cái hang này chừng ấy đủ lắm rồi.
Đang ngây ngất vì niềm vui và hi vọng, vẫn chưa hết hào hứng nghĩ về tác phẩm tuyệt vời của mình mà tôi chốc chốc lại rút từ trong túi ra đọc lại, tôi quyết định không bỏ phí thời gian vô ích, và liền bắt tay vào thu xếp đồ đạc. Tôi lấy chiếc túi vải - trong đó có một đôi cổ áo sạch được gói trong một chiếc khăn mùi soa màu đỏ - và tờ báo nhàu nát tôi vẫn dùng để bọc chiếc bánh mì mang về nhà. Tôi đem tờ báo ấy gói chiếc chăn mỏng và mang theo tất cả số giấy viết còn lại. Sau đó tôi cẩn thận xem xét mọi ngóc ngách trong phòng để biết chắc không quên gì. Rồi tôi đến gần cửa sổ, nhìn ra ngoài. Buổi sáng hôm ấy trời u ám và ẩm ướt. Cạnh chiếc lò rèn bị cháy không có người nào, còn sợi dây thừng đẫm nước ngoài sân thì được kéo căng từ tường này sang tường khác. Tất cả những cái ấy tôi đã nhìn thấy từ trước, vì vậy tôi vội rời cửa sổ, cắp chiếc chăn dưới nách, cúi chào tờ báo có tin quảng cáo của người coi đèn biển và ông chủ hiệu bán vải liệm, rồi tôi đưa tay mở cửa.
Bất chợt, tôi nhớ tới bà chủ nhà. Cần phải báo cho bà ta biết việc tôi ra đi, kể cả việc tôi là một người tử tế. Ngoài ra, tôi còn muốn cảm ơn bà vì mấy ngày tôi sử dụng căn phòng quá thời hạn. Cái ý thức rằng bây giờ tôi đã được cứu thoát lớn đến mức trong thư để lại, tôi hứa trong một ngày gần đây sẽ mang đến cho bà ta năm curon. Tôi muốn bà ta biết rằng người thuê nhà của bà ta là một người cao thượng thế nào!
Tôi đặt bức thư lên bàn.
Đến bên cửa, tôi đứng lại nhìn vào phòng lần nữa. Cảm giác đang được trở lại với cuộc sống hạnh phúc làm tôi sung sướng. Tôi rất biết ơn Chúa và cả toàn thế giới. Tôi quỳ xuống bên giường nói to những lời cảm ơn Ngài đã ban cho tôi cái hạnh phúc vĩ đại sáng nay. Tôi biết, vâng, tôi biết rằng cơn đột hứng kì diệu tôi vừa trải qua và đưa lên trang giấy là một phép lạ thực sự của Chúa, là sự trả lời của Ngài trước tiếng kêu cứu của tôi hôm qua. "Lạy ơn Chúa! Lạy ơn Chúa!" - Tôi kêu to và oà lên khóc, ngây ngất vì chính những lời nói của mình. Chốc chốc tôi phải im lặng lắng tai nghe xem có ai từ dưới đi lên không. Cuối cùng, tôi đứng dậy, lặng lẽ đi xuống theo chiếc cầu thang dài rồi tới cửa chính mà không bị ai nhìn thấy.
Đường phố ướt đẫm vì cơn mưa ngắn lúc rạng sáng. Bầu trời trên thành phố nặng nề và thấp; mây dày che kín mặt trời. Bây giờ là mấy giờ nhỉ? Theo thói quen, tôi đi tới Toà thị chính và thấy đồng hồ ở đấy chỉ tám giờ rưỡi. Nghĩa là tôi phải đi dạo lang thang những hai giờ nữa, vì rõ ràng là không nên đến toà soạn trước mười giờ, thậm chí mười một giờ. Rỗi rãi tôi sẽ đi khắp các phố và suy nghĩ cách nào có thể kiếm được cái gì đó cho vào bụng. Nói chung, tôi không sợ tối nay phải ôm bụng đói đi ngủ. Những ngày đói khát như thế, lạy Chúa, đã qua rồi! Mọi cái đã chấm dứt như một giấc mơ hãi hùng. Từ nay cuộc sống của tôi sẽ khác, khác hẳn!
Đói Đói - Knut Hamsun Đói