In books lies the soul of the whole Past Time: the articulate audible voice of the Past, when the body and material substance of it has altogether vanished like a dream.

Thomas Carlyle

 
 
 
 
 
Tác giả: Jules Verne
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1727 / 73
Cập nhật: 2017-09-21 01:06:11 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
II - Nhanh Như Bay
rích nhật ký của Amédée Florence
NGÀY 25 THÁNG BA. Đã gần ba ngày rồi, chúng tôi đang ở... Ở đâu cơ chứ? Đến ngày thứ ba, chúng tôi đi nằm, người mệt lử và đang ngủ say như chết thì bị tiếng động cực mạnh dựng dậy lúc trời sắp sáng.
Khi chúng tôi chưa kịp hoàn hồn, một bọn người đã nhảy xổ vào chúng tôi. Chúng quật chúng tôi ngã xuống đất, trói nghiến lại và chụp mấy cái bao lên đầu chúng tôi. Giọng của trung úy Lacour cục cằn:
— Bọn bay xong chưa? – Lát sau lại thô lỗ hơn: – Đứa nào ngọ nguậy, tao bắn vỡ sọ...Thôi đi!
Có người nào đó trả lời gã trung úy nhanh nhảu:
— Wir können nicht hier heruntersteigen. Es sind zu viel Baume.[4]
[4] Chúng tôi không thể xuống được. Ở đây có quá nhiều cây lớn.
Lúc ấy tôi không hiểu gì cả, song điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là câu nói tiếng Đức vọng đến chỗ chúng tôi từ một nơi xa, tôi chắc từ trên không trung. Khi nó vừa dứt thì giọng thứ ba cất lên:
— It’s necessary to take away your prisoners until the end of the trees.[5]
[5] Phải dẫn tù binh ra bìa rừng.
Thế cơ đấy! Bây giờ lại bằng tiếng Anh.
Gã được gọi là trung úy Lacour hỏi:
— Hướng nào?
— Towards Kourkousson[6] – có tiếng người Anh trả lời.
[6] Hướng Kour Kossm.
— Bao xa? – gã trung úy lại hỏi.
— Circa venti chilometri, – giọng nói thứ tư vang lên.
Tôi biết ngay đó là những tiếng Italia và chúng có nghĩa: “gần hai mươi km”. Trung úy Lacour đáp lại:
— Được, tôi sẽ khởi hành vào lúc rạng đông.
Tiếng ù ù gia tăng, rồi nhỏ dần. Vài phút sau không còn nghe thấy nữa. Thời giờ đang trôi. Gần một tiếng đồng hồ sau, hai tên đứa nắm chân, đứa nắm vai, khiêng tôi vứt lên yên ngựa, để tôi nằm vắt ngang qua như một cái bị và ngựa lao vút đi.
Có mấy con ngựa khác đang phóng nhanh bên cạnh tôi nên tôi nghe thấy tiếng rên khe khẽ: các bạn tôi cũng bị đau như tôi. Tôi bị ngạt thở, máu dồn lên mặt. Cái đầu tội nghiệp của tôi dường như sắp vỡ tung ra. Nó bị treo lơ lửng một cách thảm hại bên hông phải của con ngựa, còn đôi chân thì va đập liên tục vào hông trái của nó.
Sau một giờ phi như điên, đoàn người ngựa đột nhiên dừng lại. Bọn chúng đỡ tôi xuống ngựa, nói đúng hơn là ném tôi xuống như ném một bọc quần áo. Vài phút trôi qua, tôi nghe loáng thoáng mấy tiếng kêu:
— Nó chết rồi!
— Không phải, nó bị ngất thôi.
— Cởi trói cho cô ta, – một giọng ra lệnh, tôi cho đó là giọng của trung úy Lacour, – và cả ông bác sĩ nữa.
Cô ta... nghĩa là cô Buxton đang bị nguy hiểm?
Tôi cảm thấy bọn chúng đang lôi tôi ra khỏi bao và tháo chiếc khăn bịt mặt làm tôi ngạt thở. Chắc mấy tên đao phủ tưởng rằng chúng đang cởi trói cho bác sĩ Châtonnay? Vâng, có thể thật, – bởi vì chúng đang lo cho cái thân thảm hại của tôi. Thấy bị nhầm, tên trưởng toán trung úy Lacour – đúng như tôi đã nghĩ, nói:
— Không phải ông ấy. Kiếm người khác.
Lúc đó có người gọi hắn. Giờ thì tôi đã biết được tên thật của hắn: đại úy Edward Rufus. Cứ cho là đại úy đi vì dù hắn có là ông tướng thì điều đó cũng sẽ không làm cho hắn tốt hơn cơ mà. Trong lúc bọn chúng nói chuyện với nhau, đại úy Rufus không chú ý đến tôi. Tôi thừa cơ hít thở cật lực. Nếu chậm chút nữa tôi đã bị chết ngạt. Gã đại úy quay lại nhìn tôi, ra lệnh gì đó. Tôi bị lục soát ngay tức khắc. Chúng tước đi vũ khí và lấy đi tiền bạc của tôi, nhưng bỏ lại cuốn nhật ký. Quân súc sinh không coi những bài báo ký tên Amédée Florence là thứ có giá trị. Lạy Chúa, sao chúng con lại phải giao thiệp với một lũ ngốc ơi là ngốc.
Tuy nhiên bọn người dốt nát ấy cũng mở dây trói tay chân cho tôi và tôi có thể đi lại được.
Điều đầu tiên thu hút sự chú ý của tôi đó là mười... mười cái gì nhỉ?...máy...mười. Hừm!...vật...hệ thống... mười vật thể gì vậy, khỉ quá, tôi không biết công dụng của chúng. Chúng không giống bất cứ thứ gì mà tôi đã nhìn thấy từ trước tới nay. Bạn hãy hình dung ra một bệ máy lớn, đặt trên hai tấm trượt to, cong ở hai đầu. Trên bệ là cái tháp kim loại, có hình mắt cáo, cao từ bốn đến năm mét. Nóc tháp có chong chóng và hai... (Hừ! Lại bắt đầu không thể chọn được từ thích hợp). Hai...tay... hai... tấm...không phải, tôi nghĩ ra từ đó rồi – hai cánh bằng kim loại sáng loáng, dài khoảng sáu mét. Mười cỗ máy xếp thành một hàng. Chúng có thể làm gì nhỉ.
Tôi thấy khá nhiều người đang đứng quanh tôi. Trước hết là cựu trung úy Lacour, người vừa được phong lên thành đại úy Rufus, kế đó là hai viên hạ sĩ từng trong đội hộ tống thứ hai của chúng tôi, hai mươi tên xạ thủ da đen và cuối cùng là mười gã da trắng có bộ mặt của kẻ chết rồi. Tôi chưa thấy bọn này bao giờ. Các bạn của tôi đang ở giữa bọn chúng. Tôi đưa mắt nhẩm tính. Cô Buxton nằm sõng sượt trên nền đất. Bác sĩ Châtonnay và Malik xúm quanh cô. Malik khóc sướt mướt. Tôi không thấy Tongané đâu cả. Chẳng lẽ anh đã bị giết chết lúc xảy ra cuộc tấn công bất ngờ? Có thể lắm chứ và do vậy mà Malik khóc chăng? Tôi thương tiếc anh Tongané dũng cảm và trung thành.
Tôi đứng dậy đi về chỗ cô Buxton, không ai cấm cản tôi. Chân bị tê nên tôi đi rất chậm. Đại úy Rufus vượt lên trước tôi.
— Sức khỏe của tiểu thư Mornas ra sao? – hắn hỏi ông bác sĩ.
A. Thì ra cựu trung úy Lacour chỉ biết cô bạn của chúng tôi dưới cái tên giả của cô ấy.
— Đỡ hơn, – ông bác sĩ nói. – Cô ấy đã mở mắt.
— Có thể đi tiếp được chưa? – Gã được gọi là đại úy hỏi.
— Không thể sớm hơn một giờ nữa, – bác sĩ Châtonnay tuyên bố dứt khoát. – Và nếu như ông không định giết chết hết tất cả chúng tôi thì tôi xin khuyên ông đừng đối xử vô nhân đạo như vừa rồi.
Đại úy Rufus không trả lời, bỏ đi. Tôi bước lại gần hơn và thấy cô Buxton đã hồi tỉnh. Chúng tôi tụ tập quanh cô.
— Các bạn hãy tha thứ cho tôi! – Cô Buxton bỗng nói với chúng tôi và những giọt lệ to tướng trào ra khỏi mắt cô. – Chính tôi đã lôi kéo các bạn vào cuộc phiêu lưu khủng khiếp này. Giả sử không có tôi chắc các bạn đang bình yên vô sự.
Biết là chúng tôi phản đối, nhưng cô Buxton vẫn cứ tiếp tục kết tội bản thân mình và xin chúng tôi thứ lỗi. Tôi lái câu chuyện sang một hướng khác: vì bọn người ở đây chỉ biết cô Buxton là tiểu thư Mornas nên tốt hơn cả là cô nên giữ danh tự đó lại. Ý kiến này được mọi người ủng hộ và cuộc trò chuyện của chúng tôi chấm dứt đột ngột ở đây. Chúng tôi đã đi đến thỏa thuận đúng lúc. Theo mệnh lệnh ngắn gọn của gã đại úy, bọn chúng vồ lấy chúng tôi. Có tới ba tên chuyên lo cho cái thân khốn khổ của tôi. Tôi lại bị trói và cái bao đáng ghét lại ngăn cách tôi với thế giới bên ngoài.
Chúng đặt tôi lên một chỗ bằng phẳng và rất cứng. Mấy phút sau, tôi nghe như có tiếng vỗ cánh mạnh và chỗ tôi nằm rung lên nhè nhẹ. Việc này chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, sau đó đột nhiên tôi bị tiếng ù ù làm cho đinh tai váng óc, rồi thì gió tạt vào người tôi mỗi lúc một thêm mạnh. Đồng thời, tôi có cảm giác... biết nói sao đây?...cảm giác bay lên.
Tôi bỗng cảm thấy một cánh tay của mình cử động được. Dây trói không kỹ đã tuột và vô tình hai cánh tay rời nhau ra.
Lúc đầu tôi nằm yên nghe ngóng. Hai người một người Anh và một người da đen – đang nói chuyện rất to. Tôi thận trọng tháo sợi dây, từ từ duỗi thẳng hai tay. Xong. Giờ phải nhìn cho được.
Tôi biết cách làm việc ấy. Tôi có một con dao trong túi...Không, không phải thứ dao lớn đâu, mà chỉ là dao nhíp nhỏ, bọn cướp đã không để ý đến nó, tôi không thể biến nó thành vũ khí tự vệ, nhưng có thể dùng nó để khoét một lỗ nhỏ ở chiếc bao đang che mắt tôi, làm tôi nghẹt thở.
Sau mười lăm phút kiên trì, tôi đã làm xong việc đó.
Tôi nâng tay phải lên ngang mặt, rạch chiếc bao...
Lạy Chúa, con đang nhìn thấy cái gì thế này! Tôi cố nén để không bật ra tiếng kêu kinh ngạc. Tôi nhìn xuống đất, thấy nó ở rất xa, phải đến năm trăm mét chứ không chơi. Tôi bắt đầu hiểu ra. Tôi đang ở trên máy bay và nó mang tôi đi trên không với vận tốc của một tàu tốc hành, mà có thể còn nhanh hơn nữa.
Khi tim tôi lấy lại nhịp đập bình thường, tôi nhìn mọi vật kỹ hơn. Dưới tôi, mặt đất chạy về phía sau đến chóng cả mặt. Tốc độ của chúng tôi là bao nhiêu? Một trăm, hai trăm km/giờ? Hay hơn? Dẫu bao nhiêu đi nữa thì ở dưới cũng chỉ toàn là sa mạc, cát sỏi và lơ thơ mấy cụm cây cọ còi cọc. Xứ gì mà xơ xác đến thế!
Tuy nhiên, tôi đã hình dung ra nó quá bi thảm. Những cây cọ thấp bé kia vẫn có màu xanh và giữa những bãi cát sỏi, cỏ vẫn mọc rất nhiều. Có lẽ, trái với các truyền thuyết, ở đây thỉnh thoảng trời có mưa chăng?
Chốc chốc tôi lại nhìn thấy mấy chiếc máy, giống cái đang chở tôi, lao đi trong không trung như những đàn chim. Dù tình cảnh của tôi ngặt nghèo, tôi vẫn rất phấn khởi.
Nhờ ở trên cao nhìn xuống, mắt tôi bao quát được cả một vùng rộng lớn.
Địa hình bắt đầu thay đổi. Sau một giờ bay, tôi nhìn thấy có nhiều cây cọ, đồng cỏ, vườn tược. Kìa, một ốc đảo, nhỏ thôi vì đường kính của nó không quá năm mươi mét. Nó biến đi ngay. Nhưng trong tầm nhìn của chúng tôi đã hiện ra một cái khác, rồi cái thứ ba và chúng tôi ào ào lướt qua trên các ốc đảo đó như giông bão.
Mỗi ốc đảo chỉ có một ngôi nhà. Từ đó có một người nghe thấy tiếng động cơ máy bay của chúng tôi chạy ra. Tôi không nhìn thấy những người khác. Chẳng lẽ, mấy ốc đảo ấy mỗi cái chỉ có một người sống hay sao?
Lại một điều bí ẩn nữa hiện ra trước mắt tôi. Từ ốc đảo thứ nhất, máy bay của chúng tôi bay trên một dãy cột, cách xa nhau đều đặn tới mức tôi cảm thấy như có những sợi dây kim loại nối chúng lại với nhau. Tôi không nằm mơ đấy chứ? Giữa sa mạc mà cũng có các trạm điện báo, điện thoại ư?
Chúng tôi bay qua ốc đảo thứ ba, thứ tư – và khi ấy ở phía trước còn một cái nhà, to hơn nhiều. Tôi nhìn thấy cây cối: không phải chỉ có cọ mà còn có carite, bombac, baobap, phượng. Tôi thấy những cánh đồng canh tác tuyệt đẹp, những người da đen đang làm việc ở đấy. Xa xa hiện ra những bức tường thành, chúng tôi đang hướng đến chúng. Thế rồi chúng tôi đã tới cái thành phố bí ẩn đó. Chú chim sắt thần kỳ của chúng tôi bắt đầu sà xuống. Chúng tôi ở ngay trên thành phố. Thành phố có kích thước trung bình, nhưng kỳ diệu biết bao! Tôi nhận thấy các đường phố của nó được bố trí theo một quy hoạch rất chặt chẽ... Máy bay hạ xuống nhanh hơn. Tôi có cảm tưởng là chúng tôi đang rơi như một hòn đá. Tiếng vù vù của chong chóng im bặt, máy bay của chúng tôi đã tiếp đất.
Có người đang kéo cái bao trùm đầu của tôi ra. Tôi vừa kịp quấn lại dây trói quanh đôi tay. Bọn chúng cởi trói ở chân cho tôi và tôi đã có thể co duỗi đôi chân thoải mái.
— Đứng dậy! – Kẻ nào đó hách dịch ra lệnh, tôi không nhìn thấy hắn. Tôi miễn cưỡng làm theo. Sau một vài lần gắng gượng không kết quả, tôi đã đứng dậy được và đảo mắt nhìn quanh.
Bức tranh thật ảm đạm. Trước mặt tôi là một bức tường cao, kín mít, phía đối diện – cũng vậy.
Các bạn tù của tôi đều có mặt đông đủ, tiếc thay trừ Tongané và Malik, sáng nay cô vừa mới còn bên chúng tôi. Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy?
Chúng nắm vai từng người trong bọn tôi đẩy đi. Chúng tôi sững sờ, bối rối...
Hỡi ôi! Lát sau chúng tôi đã ở trong tù.
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac - Jules Verne Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac