You know you've read a good book when you turn the last page and feel a little as if you have lost a friend.

Paul Sweeney

 
 
 
 
 
Thể loại: Ngôn Tình
Nguyên tác: The Cat Who Went To Heaven
Dịch giả: Hoàng Thạch Quân
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 17
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1266 / 21
Cập nhật: 2017-05-20 08:49:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
9
gày hôm sau chàng họa sĩ lần nữa lại tự giam mình trong căn phòng nhìn ra những bụi tú cầu. Ngồi trên chiếc chiếu quen thuộc, chàng quyết định trên đầu con bạch mã phải là một con thiên nga đang bay. Chàng suy nghĩ về vẻ đẹp của loài thiên nga và tiếng vỗ cánh mạnh mẽ của chúng, và việc chúng bay theo con thiên nga đầu đàn trong những chuyến bay hùng dũng trên những cung đường trên không. Chàng ngẫm nghĩ về việc chúng trôi nổi trên mặt nước nhẹ nhàng như những bông sen trắng.
Rồi chàng nhớ đến một câu chuyện về tuổi thơ của hoàng tử Siddhartha, người sẽ trở thành Đức Phật trong tương lai. Hoàng tử đang đi dạo trong khu vườn cảnh mà vua cha ban cho, đưa mắt ngắm nhìn đàn thiên nga bay qua trên đầu hướng về dãy Hy Mã Lạp Sơn. Bất thình lình cậu nghe tiếng rít của một mũi tên, và một vật gì đó nhanh hơn và tàn bạo hơn bất cứ một loài chim nào lướt ngang qua không trung, làm một con thiên nga bị thương rơi xuống dưới chân cậu bé. Hoàng tử trẻ tuổi chạy đến chỗ con chim lớn và rút mũi tên ra. Cậu gí đầu mũi tên nhọn vào cánh tay mình để biết nỗi đau trúng tên mà con chim đang chịu đựng. Trong khi cậu bé đang băng bó vết thương cho con chim, một vài người hầu của một người anh họ của hoàng tử chạy đến tuyên bố nó là chiến lợi phẩm của họ.
Siddhartha lặng lẽ trả lời: “Anh họ ta chỉ tìm cách hủy diệt con thiên nga trong khi ta tìm cách cứu sống nó vì vậy nó thuộc về ta. Hãy để quần thần của nhà vua quyết định cho hai chúng ta.”
Thế là cuộc tranh chấp giữa hai hoàng tử được đưa ra trước quần thần phân xử và con thiên nga được trao cho cậu bé sau này trở thành Đức Phật.
Sau khi đã nghiền ngẫm về vẻ đẹp huyền ảo của loài thiên nga, chàng họa sĩ nhúng cây cọ vẽ vào nước suối, quẹt mực, và vẽ hình một con thiên nga.
Ngay khi con thiên nga vừa được vẽ xong thì May bước ra khỏi bóng chàng họa sĩ và xem bức hình một hồi lâu. Rồi nó lịch sự quay sang nhìn chàng họa sĩ.
“Cứ như thể đang có gió thổi dưới đôi cánh của nó vậy, thưa cậu chủ,” dường như nó muốn nói. Nhưng trong phong cách của cô mèo có một sự ám chỉ nào đó, như nó muốn nói rằng chàng họa sĩ nên dùng thời gian của mình cho một việc nào khác hơn là vẽ hình con chim.
Chàng họa sĩ dùng cơm, và đi thẩn thơ trong vài phút trong khu vườn nhỏ để sự mơn trớn của mặt trời và âm thanh của gió giúp đầu óc chàng lấy lại sự tỉnh táo. Chàng quay trở lại phòng làm việc của mình cạnh những bụi tú cầu và một lần nữa lại chuẩn bị suy ngẫm thì bà giúp việc xuất hiện ở cửa phòng và cúi người chào thật thấp.
"Cậu sẽ làm mình kiệt sức đến phát ốm mất,” bà lão nói một cách lễ phép nhưng cương quyết. “Cậu chủ đã là Phật và thánh thần và ngựa, và là con voi phi thường ấy, và là ốc sên và thiên nga và - có trời mới biết là gì nữa, tất cả chỉ trong vòng vài ngày! Không có thân xác phàm tục nào có thể chịu đựng được việc này! Vầng trán của cậu nhiều nếp nhăn như một ông già và cặp mắt cậu cháy rực như hai chiếc đèn cầy. Người hàng xóm của chúng ta vừa mới sai người hầu mời cậu sang uống trà và lão đã trả lời là cậu sẽ có mặt bên ấy ngay lập tức."
Sau khi bày tỏ ý kiến của mình một cách dứt khoát, bà lão đứng nghiêng người về trước, hai tay đặt trên hai đầu gối, thể hiện sự nhún nhuờng.
“Ta có thể tranh cãi với bức tượng Địa Tạng Bồ tát bằng đá bên đường, nhưng tranh cãi với một phụ nữ chỉ là phí công sức!" chàng họa sĩ kêu lên. Rồi chàng lấy một ít bạc từ chiếc túi của vị sư và đưa cho bà lão.
“Bác hãy đi chợ mua cho mình mộc ít vải đẹp để may áo mới,” chàng nói. “Đã lâu lắm rồi bác chưa có một bộ quần áo nào tươm tất."
“Nghìn lần cám ơn cậu chủ” bà giúp việc hài lòng kêu lớn, “và lão sẽ nhốt May lại trong giỏ trong khi chúng ta ra khỏi nhà. Cứ nhìn nó đứng ngắm bức tranh thì cậu sẽ tưởng rằng bức tranh là đường, được vẽ trên kem. Lão e là ta không thể để nó ở nhà một mình với bức tranh.”
Thế nên đến tân sáng hôm sau chàng họa sĩ mới được tĩnh tâm suy tưởng về bản chất của loài trâu. Chàng nghĩ chúng thật xấu xí làm sao, với cặp sừng cong lên như hai mặt trăng nặng nề đè trên trán. Chàng nghĩ chúng thật khỏe mạnh làm sao, ấy vậy mà chúng vẫn sẵn sàng làm việc quần quật suốt ngày cho chủ nhân. Chàng nghĩ đến việc chúng trở nên dũng mãnh như thế nào khi bị hổ báo tấn công, ấy vậy mà lũ trẻ trong làng cưỡi trên lưng chúng an toàn như chim đậu trên cành cây.
Chính Đức Phật không hề xem thường loài trâu, vì nếu không ngài đã không chọn hình hài của chúng để đầu thai vào. Có nhiều câu chuyện về tiền kiếp của Phật trong hình hài của một con trâu, nhưng câu chuyện mà chàng họa sĩ nhớ rõ nhất kể về một con trâu thánh thiện thuộc về một người đàn ông nghèo. Một ngày nọ con trâu nói vói chủ nhân của nó bằng tiếng người, “Thưa ông chủ, tôi thấy ông túng quá. Vì thế tôi sẵn sàng làm một việc để giúp ông. Ông hãy đi gặp dân làng và nói với họ rằng ông có một con vật có thể kéo được một trăm chiếc xe chất đầy đá. Họ sẽ cá cược rằng điều đó là không thể và ông sẽ thắng được một số tiền lớn.”
Nhưng khi dân làng cột các chiếc xe ngựa lại với nhau và chất đầy đá nặng lên, và rồi con trâu được ách vào chiếc xe ngựa đầu tiên, người chủ trâu cư xử như một kẻ đánh trâu thông thường, tay khua cây gậy và miệng thì chửi bới con vật để chứng tỏ uy quyền của mình trước mặt những người khác. Con trâu không nhúc nhích, dù chỉ là một phân.
Người chủ trâu vốn đã nghèo lại càng nghèo hơn nữa sau chuyện này. Nhưng một tối nọ con trâu lần nữa lại lên tiếng nói với ông ta:
“Tại sao ông đe dọa tôi? Tại sao ông chửi rủa tôi? Hãy đi gặp những người dân làng và đánh cuộc với họ lần nữa, lần này hãy đánh cuộc gấp đôi số tiền lần trước. Nhưng hãy đối xử tốt với tôi.”
Tương tự như lần trước, những chiếc xe chất đầy đá được nối lại với nhau, và lần nữa những người dân làng tụ họp lại và che miệng cười khúc khích. Nhưng lần này người đàn ông nghèo tắm rửa cho con trâu, và cho nó ăn lúa non ngon và đặt một vòng hoa quanh cổ nó. Khi con vật được thắng vào cỗ xe đầu tiên trong số một trăm chiếc, người chủ vuốt ve con trâu và thúc giục nó:
“Đi nào, con vật xinh đẹp của ta! Kéo đi! Kéo đi! Báu vật của ta!” và con trâu lấy hết sức để kéo, nó gồng tất cả các thớ thịt lên cho đến khi toàn thân nó như muốn nổ tung, và rồi chậm chạp nhưng chắc chắn, một trăm chiếc xe di chuyển về phía trước.
Giờ đây khi chàng họa sĩ đã hiểu được sự trung thực và lòng tự trọng của loài trâu, chàng nhúng cây cọ vẽ vào nuớc suối, quẹt mực và vẽ hình một con trâu.
Ngaỵ khi con trâu đuợc vẽ xong thì May buớc ra khỏi bóng chàng họa sĩ và xem xét bức hình với dáng vẻ của một người đang cố gắng che giấu một sự không hài lòng nào đó. Rồi nó quay sang nhìn chàng họa sĩ.
“Đúng là một con trâu thật sự!” dường như nó muốn nói, nhưng có một cái gì đó ở con trâu khiến cô mèo buồn cười, có thể là vì con trâu quá ít lông. Đột nhiên, cô ả bật cười rúc rích. Nhưng nó nhanh chóng đưa một móng chân trắng nhỏ xíu của mình lên miệng và giả vờ hắt xì liền tù tì một mạch.
Có thể là chàng họa sĩ hơi bực mình với thái độ của May, vì có thể chính chàng cũng không nhận ra rằng chàng đã quen chờ đợi nhận được lời khen của cô mèo rồi. Nhưng cũng rất có thế hoàn toàn chỉ là sự tình cờ khiến loài vật chàng suy nghĩ kế tiếp lại là loài chó.
Chàng nghĩ về chúng khi còn là những con cún con, trông như những quả cầu lông chơi đùa trong tuyết, với đôi mắt đen tròn và chiếc mõm đen ướt. Chàng nghĩ về chúng khi đã truởng thành, sốt sắng chạy theo sau chủ nhân của mình hay ngồi canh giữ những nông trại vắng vẻ. Chàng gần như có thể cảm nhận được chiếc lưỡi ấm áp của chúng liếm vào tay, hay nhìn thấy chúng chạy nhảy và lăn tròn trên đất để được chàng chú ý.
‘Thật là loài vật trung thành!” chàng nghĩ, và cố gắng nhớ đến một câu chuyện nào đó về Đức Phật tái sinh trong hình hài của một con chó. Nhưng hoặc là chàng đã quên mất, hoặc chẳng có câu chuyện nào như thế. Vì vậy chàng gọi bà giúp việc.
Bà lão buớc vào phòng và cúi thật thấp chào cậu chủ của mình.
“Bác ngồi xuống đi,” chàng họa nói, “và kể cho cháu nghe bất kỳ câu chuyện nào về loài chó mà bác tình cờ nhớ được."
Bà lão lôi ra một chiếc khăn tay và lau trán. Rồi bà ngồi xuống và cúi chào.
“Trong làng của tôi, thưa cậu chủ,” bà bắt đầu, “mọi người kể rằng ngày xưa đã từng có một ngôi chùa đổ nát. Sau khi những vị sư rời bỏ ngôi chùa, ma quỷ và yêu tinh đã đến trú ngụ ở đó. Hàng năm chúng đòi dân làng phải cống nạp cho chúng một cô gái đồng trinh, nếu không chúng dọa sẽ hủy diệt tất cả mọi người. Vì vậy hàng năm cứ đến một ngày nhất định, một cô gái lại được bỏ vào trong một chiếc giỏ và mang đến để trong sân chùa. Sau đó người ta chẳng bao giờ gặp lại cô gái. Năm đó lá thăm rơi trúng vào một cô gái nhỏ bé có chú chó tên Shippeitaro. Tất cả dân làng đều mặc đồ trắng để để tang cho cô bé. Suốt ngày hôm đó tiếng khóc than vang trên khắp nẻo đường làng. Nhưng trước khi trời tối có một người lạ bước vào làng. Anh ta là một người lính đi lang thang. Đêm hôm trước anh ta đã ngủ trong ngôi chùa bỏ hoang.”
"Ngôi chùa của bọn ma quái?” chàng họa sĩ hỏi.
“Phải, thưa cậu chủ,” bà lão nói, “chính ngôi chùa ấy. Nửa đêm người lính bị đánh thức bởi một tiếng ồn lớn. Một giọng phía trên đầu anh ta đang nói, ‘Nhưng đừng bao giờ để Shippeitaro biết – Shippeitaro sẽ làm hỏng hết mọi chuyện.'”
Khi người lính kể xong câu chuyện của mình, Shippeitaro trở nên hết sức kích động. Nó chạy đến chỗ chiếc giỏ, vẫy đuôi, và đưa móng cào cào vào thành giỏ.
“Hãy đưa nó đến chỗ ngôi chùa thay thế cho cô chủ của nó,” người lính nói, và Shippeitaro tự nguyện nhảy vào trong chiếc giỏ và đuợc khiêng đến sân chùa trong bóng đêm đang dần buông xuống. Đến nơi, những người khiêng giỏ vội vã rời khỏi ngôi chùa, nhưng người lính thì kiếm chỗ ẩn nấp và chờ đợi.
“Vào nửa đêm anh ta nghe thấy những tiếng tru khủng khiếp nhất tiến đến gần, chúng đủ để làm cho một người yếu bóng vía phải sợ chết khiếp. Anh ta hé mắt nhìn ra và thấy một lũ ma quái đang cạy nắp giỏ. Nhưng thay vì là một cô gái đang khiếp sợ thì Shippeitaro nhảy ra và nhảy chồm vào cổ họng tên thủ lĩnh. Những con yêu tinh còn lại bỏ chạy và kể từ đó dân làng chẳng bao giờ còn thấy hay nghe nói đến chúng nữa.
“Như vậy con chó Shippeitaro anh hùng đã cứu mạng không những cho cô chủ của nó mà cho cả dân làng.”
Chàng họa sĩ cám ơn bà lão đã kể chuyện. May đã tìm được một chiếc chiếu để ngồi và nãy giờ chăm chú lắng nghe câu chuyện như cậu chủ của nó.
“Những con yêu tinh này hình dạng con gì?" chàng họa sĩ hỏi.
“Con mèo,” bà giúp việc trả lời, gần như là thì thào, hy vọng May không nghe thấy. Nhưng May đã nghe bà nói. Nó đưa mắt buồn bã nhìn bà lão, rồi đứng dậy và bước ra khỏi phòng.
Sau khi suy nghĩ về sự trung thành của loài chó, chàng họa sĩ nhúng cây cọ vẽ vào nước suối, quẹt mực, và vẽ hình một con chó.
Suốt cả ngày hôm đó May không quay lại phòng để nhìn bức tranh.
Con Mèo Trời Con Mèo Trời - Elizabeth Coatsworth Con Mèo Trời