Let us always meet each other with smile, for the smile is the beginning of love.

Mother Teresa

 
 
 
 
 
Tác giả: Andrew Davidson
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lý Mai An
Upload bìa: Lý Mai An
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1041 / 5
Cập nhật: 2015-11-21 15:31:55 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 16
ì không sống ở thời Trung cổ nên tôi cần phải nghiên cứu rất nhiều trong suốt quá trình viết cuốn sách này để kiểm tra những gì cô nói, hoặc những gì tôi nhớ là cô đã nói, có trái ngược với sự thật không. Điều thú vị ở đây là tất cả những sự kiện cô tuyên bố là sự thật có thể đã diễn ra đúng như những gì cô miêu tả, nếu cô không nói về những sự kiện xảy ra từ thời cổ xưa ấy bằng ngôi thứ nhất.
Dù vẫn phải chịu sự điều khiển của nhà thờ, Engelthal là một thể chế dân chủ với các nữ tu viện trưởng đều được bầu bằng cách bỏ phiếu. Tất cả những hoạt động thường nhật đã được viết rõ trong cuốn Thể chế Giáo hội. Những miêu tả của Marianne Engel về kiến trúc, các bài kinh cầu, các cuốn sách được nghiên cứu, và nghi lễ khi ăn đều chính xác. Christina Ebner đã ở trong tu viện đó và bà đã viết Cuốn sách về các xơ tại Engelthal và Khải huyền. Friedrich Sunder là một giáo sĩ địa phương, làm lễ xưng tội cho các nữ tu, và ông cũng đã viết cuốn Ân điển-cuộc đời. Có một cuốn sách tên là Cuộc đời nữ tu Gertrud tại Engelthal, được viết với sự giúp đỡ của huynh trưởng Heinrich và Cunrat Fridrich.
Mặc dù không có một ghi chép nào về việc Heinrich Seuse đến thăm Engelthal nhưng cũng chẳng có bằng chứng nào ngược lại cả. Nếu ông thực sự có đến vào đầu những năm 1320, như Marianne Engel nói, thì điều này xảy ra khi ông đang trên đường từ Straburg đến Koln để tầm sư Meister Eckhart học đạo. Thế nên ai dám nói là ông đã không đến thăm tu viện từng được coi là trung tâm trọng yếu nhất của Chủ nghĩa Thần bí Đức?
Thế nhưng. Dù có xây dựng quãng đời của cô hay nghiên cứu các hình tượng tôn giáo Đức hoàn hảo đến đâu chăng nữa, Marianne Engel hoặc vẫn bị tâm thần phân liệt, hoặc bị khủng hoảng thần kinh, hoặc cả hai. Tôi không thể quên được điều này. Sáng tạo và điều hành những vũ trụ tưởng tượng là biểu hiện của những bệnh nhân này: không chỉ những gì họ làm, mà còn về họ là ai nữa. Và đã có vài dị biệt trong câu chuyện của Marianne Engel; ví dụ, chẳng có ghi chép nào về một cô xơ tên là Marianne Engel trong bất cứ tài liệu hiện có nào tại Engelthal, cũng như chẳng có gì đề cập đến Die Gertrud Bibel, và tôi đã cố dùng những thiếu sót này để bắt Marianne Engel thừa nhận câu chuyện của cô không có thật.
"Anh siêng học quá nhỉ?" cô nói. "Đừng lo, việc anh không thể tìm được thông tin về tôi hay về cuốn Die Gertrud Bibel cũng có lý do cả thôi. Sẽ đến lúc chúng ta nói về chuyện đó, tôi hứa đấy."
Những người hát mừng Giáng sinh an lành ghé qua để hát về những đêm tĩnh lặng, đêm thánh. Một cô Noel Sally Ann đã mang bánh quy và sách đến. Các đồ trang trí treo khắp hành lang.
Cảm giác mong đợi mùa Giáng sinh mới lạ lùng làm sao. Thường thì tôi luôn ghét Giáng sinh; nó luôn để lại trong miệng tôi dư vị của một cái bánh hoa quả mốc. (Tôi nói điều này không có ý ám chỉ một bà cô già người Nhật nào đâu.) Suốt thời thơ ấu, những Giáng sinh của tôi luôn gắn liền với việc nhà Grace đốt hết tiền mua quà cho tôi vào ma túy tổng hợp; đến lúc trưởng thành, Giáng sinh có nghĩa là vui vẻ với một người phụ nữ đội mũ phớt đỏ.
Tôi vẫn tập tành, vẫn trải qua các ca trị liệu định kỳ, nhưng sự kiện hấp dẫn nhất là cuộc gặp gỡ với những người phụ nữ quan trọng trong đời tôi: Nan, Sayuri và Marianne Engel. Tôi không biết gì về lịch điều trị, và lạ lùng thay, chẳng ai muốn nói cho tôi biết cả. Trong trái tim bé nhỏ luôn coi mình là cái rốn vũ trụ, tôi tưởng tượng đó sẽ là một bữa tiệc đầy bất ngờ. Tôi đã không thể sai lầm hơn.
Sayuri đến đầu tiên. Tôi đã nói từ trước là cô dường như lúc nào cũng vác cơ thể bé nhỏ của mình theo sau một nụ cười rạng rỡ, nhưng vào ngày hôm ấy, chỉ có cái cơ thể bé nhỏ của cô là có mặt thôi. Khi tôi hỏi liệu mọi việc có ổn không, cô trả lời ổn một cách chẳng mấy thuyết phục. Thay vì tiếp tục chủ đề, tôi hỏi xem cô đã mua quà của tôi cho Gregor chưa. Cô bảo rồi và ít nhất, tôi có thể tin cô. Tôi đang định hỏi thêm vài câu nữa thì Marianne Engel và Nan bước vào phòng như những con ngựa tranh nhau phi về đích. Marianne Engel nhìn thẳng vào tôi và nói luôn: "Khi ra khỏi đây, anh sẽ về với tôi."
"Không nhanh thế chứ," Nan nghiêm giọng nói, trước khi chuyển sự chú ý sang tôi. "Như anh cũng biết, anh sẽ được ra viện trong vài tháng tới..."
"... và sau đó anh sẽ đến sống ở nhà tôi." Sự mất kiên nhẫn trong giọng Marianne Engel đã để lộ ra rằng cô nghĩ cuộc nói chuyện này chẳng cần thiết tí nào.
"Bình tĩnh." Nan giơ tay lên trước khi ném cho Marianne Engel một cái nhìn tức tối. "Đó không phải quyết định của cô."
"Anh ấy chẳng có nơi nào khác để đi cả."
Nan phản đòn. "Tôi đã sắp xếp một chỗ ở Phoenix Hall rồi."
"Anh ấy không muốn đến sống ở đó." Điều này thì rất đúng, tôi không muốn, nhưng bác sĩ Edwards từ lâu đã khuyên tôi đến đó vì nơi ấy có những nhân viên được đào tạo với tay nghề cao, những chương trình giới thiệu việc làm và nguồn cung ứng y tế dồi dào. Thêm nữa, ở đó còn có các tư vấn viên, không kể đến các bệnh nhân bỏng khác cũng cùng phải đối mặt với những vấn đề như tôi.
"Tôi có làm việc với những bệnh nhân ở Phoenix," Sayuri nói, "thế nên nếu anh đến đó, chúng ta vẫn có thể tiếp tục những bài tập vận động cho anh."
"Tôi sẽ thuê cô," Marianne Engel nói. "Tiền không thành vấn đề. Cô có thể làm việc đó ở nhà tôi."
Lời gợi ý này làm Sayuri nhìn bác sĩ Edwards với vẻ mặt khó xử. "Tôi không biết quy định của bệnh viện về vấn đề này thế nào."
Nan trả lời rằng bên cạnh vấn đề quy định, Phoenix Hall có cả một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, tất cả đều rất sẵn sàng làm hết sức mình. Marianne Engel đáp lại rằng cô sẽ cung cấp cho tôi tất cả những gì tôi cần. "Nếu cô Mizumoto quá bận rộn, chúng tôi sẽ thuê người khác. Nhưng chúng tôi mong có được cô ấy, vì chúng tôi thích cô ấy."
Cô xoay người nhìn thẳng vào tôi, và cuối cùng cũng chịu hỏi xem tôi muốn gì. "Anh có muốn đến chỗ Phoenix Hall này không?"
"Không."
"Anh có muốn đến nhà tôi không?"
"Có."
Marianne Engel lại hướng sự chú ý của mình về phía bác sĩ Edwards. "Đấy. Thảo luận xong."
Nói tôi cần thời gian để suy nghĩ thì nghe có vẻ thận trọng. Sau rốt, tôi đã chọn Marianne Engel chứ không phải các bác sĩ đã giúp tôi hồi phục trong suốt bao tháng trời. Câu trả lời vội vã của tôi, nói một cách nhẹ nhàng nhất, rất phi logic.
Tuy nhiên, nếu có một điều gì đó mà tôi có thể chắc chắn, thì đó là việc tất cả mọi người trong căn phòng ấy đều một lòng mong những điều tốt đẹp nhất cho tôi. Tôi không biết rằng Marianne Engel và Nan đã tranh luận về việc sắp xếp chỗ ở cho tôi hàng tuần liền; vì tôi hầu như ngày nào cũng thấy cả hai người bọn họ nên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ cùng nhau giấu chuyện để giảm thiểu căng thẳng cho tôi.
"Vẫn còn nhiều thời gian trước khi đưa ra quyết định chính thức," Nan nói, ám chỉ cuộc đối thoại này đã đến hồi kết thúc. Chẳng ai không cảm nhận được sức nặng của từ chính thức mà bà nói ra cả.
Có rất nhiều mối quan ngại khá thực tế mà tôi không thể lờ đi khi tính đến chuyện sống với Marianne Engel. Một trong những vấn đề đó là, dù cô nói mình có nhiều tiền, cô có lẽ cũng không thể chu cấp cho tôi được.
Cưu mang một người bị bỏng là chuyện hết sức tốn kém. Ngoài phí tổn điều trị của tôi - tiền trả cho Sayuri, tiền thuốc, thiết bị tập luyện - thì còn có cả chi phí sinh hoạt nữa. Thức ăn. Quần áo. Giải trí. Vật dụng cá nhân. Cô sẽ phải trả phí tổn cho cuộc sống của tôi, vừa là một bệnh nhân, vừa là một người đàn ông. Mặc dù những chương trình hay tổ chức từ thiện của chính phủ có thể đóng góp phần nào cho việc chăm sóc nhưng tôi rất nghi ngờ việc Marianne Engel lại chịu hỏi xin sự trợ giúp của họ; tính cách của cô luôn như thế, tôi đoán chắc là sự kiêu hãnh, các thủ tục giấy tờ và các vấn đề riêng tư sẽ làm cô chẳng buồn ngó ngàng đến chuyện đó. Cô tuyên bố mình có đủ khả năng tài chính để nuôi sống tôi, nhưng tôi rất khó lòng chấp nhận điều đó là sự thật được - một tập tiền một trăm đô nhét đầy trong chiếc giày không đủ để thuyết phục tôi tin vào của cải của cô. Liệu chỗ tiền này có phải chỉ là một điều huyễn hoặc như hầu hết các góc cạnh khác trong cuộc sống của cô không? Liệu tôi có phải tin rằng cô đã dành dụm tiền của trong suốt bảy trăm năm hay không?
Việc đến sống với cô không chỉ gặp vấn đề về tài chính, mà còn có cả vấn đề đạo đức nữa. Vì lời đề nghị của cô xuất phát từ niềm tin "trái tim cuối cùng" của cô là dành cho tôi, tôi rõ ràng đang lợi dụng, đang lừa dối một phụ nữ rối loạn tâm thần. Là người còn tỉnh táo, tôi không chỉ biết rõ hơn, tôi còn phải hành động theo đúng cái thực tế mà tôi biết rõ kia nữa. Và bất luận thế nào, tại sao tôi lại phải đặt mình vào tình trạng phụ thuộc một người phụ nữ đầu óc không bình thường mà tôi cũng chẳng quen thân gì cho cam? Dù tình cảnh của tôi giờ đã thay đổi và thể chất của tôi cũng yếu hơn so với trước kia, nhưng từ hồi niên thiếu tôi đã luôn sống tự lập. Thậm chí cả trước đó nữa: dù mang vai trò giám hộ, nhà Grace chỉ giỏi mỗi việc quản lý bộ sưu tập ma túy của họ mà thôi. Trên thực tế, tôi đã phải tự chăm sóc bản thân ngay từ khi sáu tuổi.
Vậy là tôi sai lầm trong việc chấp nhận lời đề nghị của Marianne Engel, và Nan đã đúng. Tôi sẽ thay đổi quyết định nóng vội của mình và cuối cùng cũng đến Phoenix Hall thôi.
Chiều đó khi Gregor đến để đưa quà của Sayuri, ông ta chúc mừng quyết định chuyển đến sống cùng Marianne Engel của tôi. Khi tôi thông báo với ông ta mình đã thay đổi quyết định, ông ta giật nẩy người nói rằng tôi đã đưa ra quyết định đúng đắn duy nhất rồi. "Tôi nghĩ sự tiến bộ của anh dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Edwards thật đáng ngạc nhiên. Tôi rất ngưỡng mộ bà ấy."
Tôi biết quá rõ Gregor để có thể nói được khi nào thì ông ta không nói hết những gì mình nghĩ. Đây là một trong những lúc đó. "Nhưng...?"
Gregor nhìn trái, rồi lại nhìn phải, để chắc chắn không có ai xung quanh. "Nhưng mà thậm chí khỉ cũng còn có thể rơi khỏi cây mà."
Tôi chả hiểu câu này có ý nghĩa gì cả, thế là Gregor giải thích: Thậm chí cả các chuyên gia cũng có thể mắc sai lầm. "Dù tiến sĩ Edwards là bác sĩ điều trị cho anh, và là một người tài giỏi,thích tôi cũng không nghĩ rằng anh nên đánh giá thấp ảnh hưởng của Marianne Engel tới sự hồi phục của mình. Cô ấy đến đây hằng ngày, cô ấy giúp anh tập luyện, và hiển nhiên là cô ấy rất quan tâm đến anh. Chúa mới hiểu tại sao. Nhưng tôi sẽ không nói cho anh bất cứ chuyện gì mà anh không biết đâu."
ÔNG TA NGHĨ CÔ BẠN GÁI HÂM DỞ CỦA NGƯƠI THỰC SỰ CÓ TÌNH CẢM VỚI NGƯƠI ĐẤY.
Câm miệng lại, đồ khốn. Tôi chỉnh Gregor. "Cô ấy có hơi ảo tưởng."
"Cứ việc phủ nhận điều đó," ông ta nói, "nhưng rõ là cô ấy thích anh."
THẬT DỄ THƯƠNG.
Tôi không định tiếp tục tranh luận về vấn đề đó. Tôi không có hứng. "Thế ông sẽ làm gì?"
"Là tôi thì tôi cũng sẽ lo lắng về việc sống với Marianne Engel," ông ta nói, "nhưng anh cũng có phải tay khá khẩm đâu cơ chứ. Nếu hai người có thể chịu nổi nhau, tôi nghĩ anh nên làm thế."
"Dù cô ấy thích tôi - tôi không nói rằng cô ấy thích tôi đâu nhé - tôi không thực sự hiểu rõ cảm giác của mình với cô ấy." Tôi ngừng lại. "Tôi không biết."
"Nếu anh không chấp nhận lời đề nghị của cô ấy, anh sẽ là thằng ngu nhất trần đời," Gregor nói, "ngoài việc là một kẻ nói dối trắng trợn nữa."
Khi cứ nằm lì trên một cái giường trong bệnh viện, bạn sẽ bắt đầu có cả một danh mục trong đầu về tất cả những tiếp xúc giữa người với người. Tôi chạm vào mu bàn tay của Gregor, lần đầu tiên chúng tôi chạm vào nhau, và nói, "Cám ơn ông vì đã mang quà của Sayuri đến."
MỘT KHOẢNH KHẮC CẢM ĐỘNG...
Tôi nhấn chuông gọi ý tá mang thêm morphine.
... GIỮA NHỮNG KẺ THUA CUỘC.
Sáng Giáng sinh, Marianne Engel xuất hiện trong phòng tôi với một túi quà và một chiếc va li màu bạc rồi nhét ngay xuống gầm giường tôi. Chúng tôi ở bên nhau vài giờ, nói chuyện như thường lệ về mọi thứ hoặc những chuyện không đầu không cuối, trong khi cô đút cho tôi quýt và bánh hạnh nhân. Như mọi khi, cô đi ra ngoài vài lần để hút thuốc lá, nhưng tôi nhận thấy có những lúc khi quay lại người cô không hề ám khói thuốc. Khi tôi hỏi có phải cô đang làm việc gì khác không, cô lắc đầu bảo không. Tuy thế, nụ cười đã tố giác cô.
Vào đầu giờ chiều, Sayuri và Gregor đến, theo sau là Connie, mới vừa hết ca. Bác sĩ Edwards không bao giờ làm việc vào Giáng sinh, còn Maddy và Beth đều đã xin nghỉ để dành thời gian cho gia đình. Khi thấy không còn ai đến nữa, Marianne Engel lôi túi quà ra khỏi góc phòng và chúng tôi bắt đầu trao quà cho nhau.
Mấy cô y tá đã mua cho tôi vài cuốn sách về các chủ đề hiện đang cuốn hút tôi, ví dụ như kiến trúc nội thất của các tu viện Đức thời Trung cổ cùng những tác phẩm của Heinrich Seuse và Meister Eckhart.
"Mua quà cho anh chẳng dễ chút nào. Tôi đã phải đi ba hiệu sách khác nhau đấy," Connie nói. Ngay khi nhận ra điều này có vẻ nghe giống một lời phàn nàn, cô vội thêm vào, "Không phải tôi khó chịu gì đâu, thật đấy!"
Gregor tặng tôi một bộ dụng cụ văn phòng phẩm, vì tôi đã tiết lộ với ông ta mấy tuần gần đây mình đang viết lách, còn Sayuri tặng tôi mấy que kem vị oải hương mà tôi đã rất vui sướng đem ra chia cho tất cả mọi người. Marianne Engel có vẻ thích món quà này nhất và thấy rất buồn cười khi kem làm lưỡi cô tím ngắt.
Tôi tặng mấy cô y tá những chiếc đĩa nhạc của các ca sĩ họ yêu thích. Món này có vẻ không cá tính cho lắm, nhưng tôi thật sự không biết cuộc sống ngoài bệnh viện của họ như thế nào. Về phần Sayuri, tôi trao cho cô món quà tôi đã nhờ Gregor chọn hộ: một đôi vé đi xem lễ hội phim của Akira Kurosawa sắp tới.
"Tôi đã nảy ra ý tưởng này khi bác sĩ Hnatiuk kể tôi nghe. Ông ấy thích Kurosawa, cô biết đấy."
Marianne Engel nhìn tôi, nhướng mày tỏ ý buộc tội vì tôi chẳng tinh tế gì cả.
Tiếp theo là món quà của tôi cho Gregor, được Sayuri chọn: phiếu giảm giá bữa tối cho hai người tại một nhà hàng Nga với cái tên cực kỳ nhạt nhẽo là Rasputin. Tôi hỏi Sayuri rằng cô đã ăn thức ăn đúng kiểu Nga bao giờ chưa, và cô bảo là chưa. Tới lượt tôi nhướng mày nhìn về phía Gregor. Khi họ cám ơn tôi về những món quà, tôi càu nhàu rằng "Giáng sinh sẽ chẳng là Giáng sinh nếu thiếu đi những món quà ấy." Không ai có vẻ hiểu tôi đang nói về cái gì, chỉ để chứng minh rằng sẽ có thêm nhiều người cần đọc sách của Louisa May Alcott.
Tiếp, đến lượt Marianne Engel tặng quà. Các cô y tá được tặng thẻ spa, Connie nhét ngay thẻ vào chỗ đĩa CD. Sayuri được tặng một ngôi chùa Phật bằng thủy tinh nâu tinh xảo trong khi Gregor được tặng một cặp chân nến làm bằng sắt uốn. Họ đều rất ấn tượng về chất lượng của những món đồ thủ công này, và Marianne Engel khoe rằng những món quà đó đều là tác phẩm của hai người bạn cô.
Về phần Marianne Engel và tôi, chúng tôi đều quyết định sẽ trao quà cho nhau sau đó, một cách bí mật. Và có lẽ tôi là người duy nhất để ý thấy, nhưng có vẻ như Sayuri và Gregor cũng có một ước định tương tự.
Một lát sau, Gregor nói, "Chúng ta đã sẵn sàng đi tiếp chưa nhỉ?" Tất cả mọi người nhìn Marianne Engel, cô gật đầu. Giáng sinh thực sự là mùa của những điều kỳ diệu, khi cán bộ y tế lại trông chờ vào sự hướng dẫn của một người tâm thần phân liệt. Sayuri đặt tôi ngồi vào xe lăn còn Gregor đẩy tôi đi dọc hành lang, và khi tôi hỏi rằng chúng tôi đang đi đâu, chẳng ai chịu trả lời thẳng cả. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng chúng tôi đang hướng tới quán cà phê. Có lẽ ở đó có vài dịch vụ Giáng sinh, một ông già Noel làm thuê hoặc vài người tình nguyện hát thánh ca, mặc dù việc chưa từng nghe gì về những thứ đó làm tôi thấy hơi kỳ quái. Sau hàng tháng trời ru rú trong bệnh viện, giờ tôi chú ý tới từng sự việc nhỏ nhất.
Khi những cánh cửa của quán cà phê trượt ra, tôi choáng ngợp bởi mùi vị của tất cả những món ăn trên thế giới. Bên bức tường xa xa, một nhóm phục vụ tình nguyện đang bận dọn một dãy bàn ngồn ngộn thức ăn. Ba mươi hay bốn mươi người đang đi lại quanh phòng, dưới những dải biểu ngữ đỏ treo lơ lửng trên trần, và vài người trong số họ ra hiệu về phía chúng tôi. Lúc đầu, tôi tưởng họ đều đang chỉ về tôi nhưng khi những tình nguyện viên vẫy tay với Marianne Engel, tôi nhận ra rằng cô mới là trung tâm chú ý, chứ không phải tôi. Các bệnh nhân bắt đầu thong thả đi về phía chúng tôi; một người đàn ông ho sù sụ, một phụ nữ tóc xoăn với hai cánh tay băng bó, một cậu bé dễ thương có một chân tập tễnh. Phía cuối phái đoàn là một cô nhóc đầu trọc, tay cầm chùm bóng bay, thêm cả một đoàn người nhà theo sau cổ vũ.
Tất cả mọi người đều cám ơn Marianne Engel vì những gì cô đã làm; lúc này thì tôi vẫn chưa biết đó là việc gì. Sau khi Gregor đẩy tôi ra phía mấy bàn thực phẩm và giúp tôi ra khỏi xe lăn, ông ta giải thích rằng cô đã chủ trì kiêm chủ chi cả bữa tiệc. Việc này, xét theo sự thiếu thận trọng thường ngày của cô, không phải nhiệm vụ nhỏ nhặt gì. Thậm chí cả khi đã thấy những bữa ăn ngoại cỡ mà cô mang vào phòng tôi, tôi cũng hầu như không thể đoán được sẽ còn những gì nữa.
Gà tây, thịt lợn hun khói, ngỗng nướng, gà, bánh bao nhân thịt, cà ri dê, lợn rừng, thịt hươu, thịt băm, cá chép (cá chép á? ai ăn cá chép?), cá tuyết đại dương, cá ê fin, cá tuyết hầm, sò, thịt nguội, một tá đủ loại xúc xích, trứng rán, xúp đuôi bò, cháo thịt, cháo hành, nhiều pho mát hơn cả chỗ sữa bạn vắt được từ vú bò, đậu phộng, đậu đỏ, hành, dưa chuột muối, củ cải Thụy Điển, cà rốt, khoai tây, khoai lang, khoai lang ngọt hơn, khoai lang ngọt nhất, bắp cải, cà rốt, củ cải vàng, bí, bí đỏ, cơm gạo basmati, cơm gạo trắng, cơm gạo lứt, cơm gạo hoang, cơm gạo trồng, món khai vị kiểu Ý, thịt nhồi, bánh mì trộn, bánh vòng, bánh sữa, bánh pho mát, salad xanh, salad Caesar, salad đậu, salad trộn mì ống, salad trộn thạch, salad rắc kem và táo, mì spaghetti, mì fettuccini, mì macaroni, mì rigatoni, mì cannelloni, mì tortellini, mì guglielmo marconi (chỉ để kiểm tra xem bạn có đang đọc không ấy mà(23) ), chuối, táo, cam, dứa, dâu, việt quất, hạt trộn, bánh thịt băm, bánh pudding Giáng sinh, bánh mì Giáng sinh, bánh quy sữa dừa, bánh hồ đào, sô cô la, sô cô la khúc cây, sô cô la hình con ếch, đậu đa vị Betty Bott, kẹo mềm, đường, gia vị, tất cả mọi thứ ngon miệng, bánh lễ Hiển linh, bánh hoa quả, bánh gừng hình người, bánh Giáng sinh kiểu Ý Torte Vigilia di Natale, những món ngon lành cành đào, rượu nam việt quất, rượu trứng, sữa, nước nho, nước táo, nước cam, đồ uống không cồn, cà phê, trà, bạn-nói-nước-cá-chùa tôi-nói-nước-cà-chua, nước khoáng đóng chai.
Tất cả mọi người trong bệnh viện hẳn đã chất đầy đĩa của họ một, hai, ba lần rồi, và Marianne Engel quyến rũ mỗi vị khách bằng vẻ duyên dáng và lập dị của mình. Chẳng hại gì khi cô khoác lên người bộ đồ yêu tinh và trông cực kỳ dễ thương. Nhạc nổi lên, mọi người vui vẻ nói chuyện với nhau, tất cả đắm chìm trong không khí lễ hội. Những bệnh nhân bình thường chẳng bao giờ thèm gặp nhau giờ đang bù khú chuyện trò, có lẽ là đang so đo bệnh tật. Tiếng ho bị nhòa đi bởi tiếng cười, và những tiếng reo thích thú của lũ trẻ, mỗi em đều được nhận một món quà dưới gốc cây thông Noel bằng nhựa. Hiển nhiên Marianne Engel không được phép mang cây thông thật vào nhưng một cây thông giả đã quá đủ rồi. Nếu hoa có thể giết người, cứ tưởng tượng xem một cây họ tùng bách có thể làm gì.
Trong buổi chiều ấy, tôi đã trở thành ngôi sao của bệnh viện khi người ta xì xào bàn tán rằng bạn tôi là người tổ chức tất cả mọi thứ. Một người đàn ông đi đến nói chuyện với tôi, nở nụ cười rạng rỡ đến nỗi tôi bị sốc khi nghe ông nói rằng người vợ suốt sáu mươi năm chung sống của mình vừa mới qua đời. Khi tôi nói rất tiếc khi biết chuyện đó, ông lắc đầu và đập mạnh tay lên vai tôi. "Đừng uổng công thương cảm tôi, cậu nhóc. Tôi cũng khá ổn rồi, tôi nói cậu nghe điều này nhé. Cậu vớ được một người phụ nữ như thế thì đừng hỏi xem mình đã làm gì để xứng đáng với điều đó. Hãy chỉ hy vọng rằng cô ấy sẽ không tự nhiên tỉnh trí lại mà thay đổi ý định thôi."
Trong suốt bữa tiệc, một cảm giác thanh thản lạ lùng trào dâng trong tôi. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, Marianne Engel đã thể hiện một thứ tình cảm cuồng nhiệt mê muội với tôi đến nỗi tôi nghĩ rằng nó sẽ biến mất đột ngột như khi đến vậy. Mọi mối quan hệ cuối cùng rồi cũng đổ vỡ, lẽ tự nhiên là thế. Chúng ta chẳng thấy gương tày liếp hàng ngàn lần rồi còn gì, thậm chí cả với những cặp chắc chắn "sẽ cùng nhau vượt qua tất cả."
Tôi từng biết một người phụ nữ cứ thích tưởng tượng ra Tình yêu trong lốt một con chó to khỏe, một con chó sẽ luôn chạy theo bắt cái que mỗi khi nó được ném đi rồi trở về vẫy tai đầy sung sướng. Trung thành tuyệt đối, hoàn toàn vô điều kiện. Và tôi đã cười vào mặt cô, thậm chí cả tôi cũng biết tình yêu không phải như thế. Tình yêu là một thứ gì đó rất mỏng manh luôn cần được nâng niu bảo vệ. Tình yêu không mạnh mẽ và tình yêu cũng không cứng cỏi. Tình yêu có thể vỡ nát chỉ bởi vài từ ngữ nặng nề, hoặc bị ném đi không thương tiếc bởi những hành động bất cẩn. Tình yêu không giống một con chó trung thành chút nào; tình yêu giống một con vượn cáo chuột hơn.
Phải, đó chính xác là tình yêu: một loại động vật có vú nhỏ bé, dễ bị kích động với đôi mắt luôn mở to sợ hãi. Đối với những người không hình dung nổi một con vượn cáo chuột, hãy thử tưởng tượng ra hình ảnh thu nhỏ của danh hài Don Knotts hoặc Steve Buscemi đang mặc áo lông thú. Tưởng tượng ra một con vật dễ thương hết mức sau khi bị bóp mạnh đến nỗi tất cả ruột gan đều dồn lên trên cái đầu ngoại cỡ và mắt thì lòi hết cả ra. Con vượn cáo trông yếu ớt đến nỗi bạn không thể không lo ngại rằng một con dã thú có thể bất thình lình xông tới vồ nó đi mất.
Tình yêu của Marianne Engel dành cho tôi dường như được xây dựng dựa trên một nền tảng mong manh đến nỗi tôi nghĩ nó sẽ sụp đổ ngay giây phút chúng tôi bước qua cánh cửa bệnh viện. Làm sao tình yêu dựa trên một quá khứ giả tưởng có thể tồn tại trong tương lai thực chứ? Không thể nào. Thứ tình yêu đó đáng bị vồ lấy và nghiền nát trong bộ hàm của cuộc sống thực tại.
Đó là nỗi sợ của tôi, nhưng ngày Giáng sinh đã chỉ ra cho tôi thấy rằng tình yêu của Marianne Engle không hề yếu đuối. Nó mạnh mẽ, vững chãi và vĩ đại. Tôi tưởng nó chỉ có thể lấp đầy căn phòng trong khoa điều trị bỏng của tôi, nhưng nó đã bao trùm cả bệnh viện. Quan trọng hơn, tình yêu của cô không chỉ dành riêng cho tôi; nó được hào phóng chia sẻ với cả người lạ - những người cô không nghĩ là bạn từ thế kỷ mười bốn của mình.
Cả cuộc đời tôi đã phải nghe biết bao câu chuyện dớ dẩn về tình yêu: rằng anh càng cho nhiều, anh càng nhận được lắm. Điều này đối với tôi không hơn một sự vi phạm các nguyên tắc toán học cơ bản. Nhưng nhìn Marianne Engel phóng khoáng chia sẻ tình yêu của cô đã làm thức tỉnh trong tôi những cảm xúc lãng mạn kỳ cục nhất: sự đối lập của ghen tuông.
Tôi thấy ấm lòng khi nhận ra tình yêu là bản chất tự nhiên của tâm hồn cô chứ không phải một phút lầm lạc do ảo tưởng. Tình yêu của cô không phải con vượn cáo chuột, một loài động vật được đặt tên như thế vì những nhà thám hiểm Bồ Đào Nha khi đến Madagascar đã thấy những đôi mắt to sáng lấp lánh ló ra từ rừng rậm khi họ đang ngồi quanh đống lửa trại. Tin rằng những đôi mắt đó thuộc về linh hồn những người đồng hành đã khuất, họ đặt cho loài động vật cái tên Latin "lemur," nghĩa là "linh hồn của người chết."
Khi cái đùi gà tây cuối cùng đã yên vị trong dạ dày thực khách, Marianne Engel cảm ơn và trao cho những người phục vụ những chiếc phong bì có ghi "chỉ là chút tiền công cho việc làm thêm ngày lễ." Vừa đẩy tôi về phòng, cô vừa nói rằng đây là lễ Giáng sinh tuyệt vời nhất của cô. Tôi bảo cô đó đúng là một lời tuyên bố ra trò, nếu cho là cô đã trải qua tới bảy trăm lễ Giáng sinh thật.
Sau khi giúp tôi lên giường, Marianne Engel ngồi phịch xuống đầy thỏa mãn. Tôi nói rằng bữa tiệc đã tốn của cô một khoản kha khá; cô phẩy tay phản đối và lôi chiếc va li bạc từ dưới gầm giường của tôi lên. "Mở ra đi."
Chiếc va li chật cứng những cọc tiền năm mươi và một trăm đô la. Trong quãng đời đóng phim khiêu dâm và nghiện ngập, tôi thỉnh thoảng cũng thấy những túi đầy tiền, nhưng chẳng cái nào giống thế này cả. Tôi nhẩm tính trong đầu, cố gắng ước lượng. Rất khó khăn trong việc tính toán - tôi vẫn còn đang quá sửng sốt vì sự tồn tại của chỗ tiền đó - thế là Marianne Engel liền giải vây giùm tôi. "Hai trăm nghìn đô la."
Hai trăm nghìn đô la. Cô để cái va li cả ngày dưới gầm giường. Bất cứ ai cũng có thể xách đi. Tôi bảo cô là đồ ngốc; cô cười đáp rằng thậm chí cả thánh cũng có lúc sai lầm. Và thực sự thì, cô hỏi, ai có thể lục tìm một va li tiền dưới gầm giường trong ngày lễ Giáng sinh chứ?
"Anh nghĩ tôi không cưu mang nổi anh," cô nói cứ như thể cô chẳng thể sai về điều đó được. Cô không sai thật. Khi tôi gật đầu, cô liền thêm, "Tôi sẵn sàng nhận quà của mình rồi đây."
Trong suốt mấy tuần qua tôi đã cố nặn ra hàng tá phiên bản khác nhau cho cùng một bài phát biểu ngắn ngủn, như một cậu học sinh trung học đang bàn mưu tính kế mời cô bạn gái của mình tới buổi vũ hội, nhưng khi phút giây trọng đại đến, tôi chỉ cảm thấy bất an. Rụt rè. Xấu hổ. Tôi muốn tỏ ra thật khéo léo, nhưng y như cậu học sinh trung học đó, tôi cứ câm như hến. Quá muộn để trốn chạy, và tôi biết rằng món quà của mình - có ba thứ - là quá riêng tư. Quá ngu ngốc. Hàng giờ lao động của tôi đã thành vô ích: ảo tưởng kiêu hãnh nào đã thuyết phục tôi chuẩn bị những món quà ấy chứ? Cô sẽ nghĩ chúng thật trẻ con; cô sẽ nghĩ tôi quá sấn sổ, hoặc còn e dè. Tôi mong sét sẽ đánh xuống phòng tôi, xuyên qua chiếc tủ đầu giường nơi những món quà nhỏ ngốc nghếch của tôi được giấu trong ngăn kéo.
Tôi đã viết ba bài thơ cho cô. Con rắn ký sinh trong xương sống cười chế nhạo những nỗ lực quá ngạo mạn của tôi.
Cả cuộc đời, tôi đã từng làm thơ, nhưng tôi chưa bao giờ cho ai xem. Tôi giấu những gì mình viết, và giấu cả bản thân trong những trang viết mà tôi đã giấu - chỉ một con người không đủ sức đối diện với thế giới thực mới tạo ra một thế giới ảo để trốn tránh. Thỉnh thoảng khi tôi nhận ra mình không thể thôi viết lách dù rất muốn, cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi, như thể có một người đàn ông khác đang đứng quá gần mình ở nhà vệ sinh công cộng vậy.
Thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy có gì đó cực kỳ thiếu nam tính trong việc viết lách, và thơ ca là thứ tồi tệ nhất. Khi bị chìm đắm trong những ảo giác do cocaine tạo ra, tôi luôn đốt hết những tập thơ của mình và nhìn những trang giấy cháy rụi hết tập này đến tập khác, nhìn ngọn lửa khạc tàn tro xám xịt vào không trung. Khi những con chữ đã thành tro than của tôi cuộn lên Thiên đường, tôi cảm thấy rất hài lòng vì biết rằng nội tâm mình lại được an toàn: đội ngũ các nhà khoa học pháp y giỏi nhất của FBI cũng không thể ráp nối những cảm xúc của tôi lại nữa. Vẻ đẹp của việc giữ cảm xúc thật nhất của mình trong những trang viết nằm ở chỗ tôi có thể đốt nó đi ngay lúc nào mình muốn.
Tán tỉnh để đưa một phụ nữ lên giường là một chuyện an toàn, vì những lời nói của tôi sẽ biến mất cùng lúc với hơi thở thoát ra; viết một bài thơ tặng một người phụ nữ là chế cho cô ấy thứ vũ khí mà sau này cô sẽ dùng để tấn công mình. Đem tặng những bài viết của mình có nghĩa là nó sẽ được phơi bày mãi mãi trước cả vũ trụ, sẵn sàng quay lại trả thù mình bất cứ lúc nào.
Vì thế tôi đã gạt nó ra khỏi đầu. Hôm nay là Giáng sinh, tôi đang bị kẹt trong chiếc giường xương, tôi nợ Marianne Engel một món quà, và tôi không có món quà thay thế nào cả. Tôi chỉ có những nét nguệch ngoạc trẻ con làm bẩn cả sự trong sáng của tờ giấy trắng mà thôi. Từ ngữ của tôi là những chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại trước khi người ta phát hiện ra hòn đá Rosetta, từ ngữ của tôi là những anh lính bị thương tập tễnh trở về nhà, không còn chút đạn dược, từ một trận chiến thất bại; từ ngữ của tôi là những con cá hấp hối, quẫy đạp điên cuồng khi cái lưới được đổ ra và cá chất trên boong tàu như một ngọn núi trơn nhẫy cố vươn thành thảo nguyên.
Từ ngữ của tôi trước đây, và bây giờ, không xứng đáng được đem tặng cho Marianne Engel.
Nhưng tôi không có sự lựa chọn nào khác, thế là tôi với tay ra chỗ ngăn kéo và - ĐỒ THUA CUỘC - dồn hết lòng can đảm giả tạo yếu ớt của mình. Tôi lôi ba tờ giấy ra, nhắm tịt mắt lại, và chìa mấy bài thơ về phía Marianne Engel, mong chúng đừng mủn ra trên tay tôi.
"Đọc cho tôi nghe đi," cô nói.
Tôi bảo rằng mình không thể. Đây là những bài thơ, và giọng tôi là sản phẩm của một cuộc thương lượng thất bại thảm hại nơi ngã tư đường(24). Một con chó Địa ngục dữ tợn đã xé toác cổ họng tôi và để lại phía sau một chiếc ghi ta vỡ vụn với những dây đàn hoen gỉ. Giọng của tôi đã - đang - cực kỳ không phù hợp cho thơ với ca rồi.
"Đọc cho tôi nghe đi,".
Giờ đã rất nhiều năm trôi qua. Bạn đang cầm cuốn sách này trong tay, vì thế hiển nhiên tôi đã vượt qua được nỗi sợ không dám cho người khác đọc những gì mình viết ra. Nhưng ba bài thơ tôi viết cho Marianne Engel vào ngày Giáng sinh đó sẽ không được ghi lại trong câu chuyện này. Bạn đã có đủ bằng chứng buộc tội tôi rồi.
Khi tôi đọc xong, cô trườn lên giường. "Thật là tuyệt vời. Rất cám ơn anh. Giờ tôi sẽ kể anh nghe chúng ta đã gặp nhau như thế nào nhé."
Chú thích
(23) Guglielmo Marconi là tên một nhà vật lý nổi tiếng người Ý.
(24)Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng vào đêm trăng sáng, nếu bạn mang đàn ghi ta ra ngã tư đường, vừa đánh vừa cầu mong ác quỷ đến thì ác quỷ sẽ xuất hiện thật và cho bạn khả năng chơi được bất cứ loại nhạc cụ nào, làm được bất cứ việc gì trên thế giới này. Nhưng để đổi lại, bạn phải trao linh hồn vĩnh hằng của mình cho nó.
Cô Nàng Mang Trái Tim Đá Cô Nàng Mang Trái Tim Đá - Andrew Davidson Cô Nàng Mang Trái Tim Đá