There is a wonder in reading Braille that the sighted will never know: to touch words and have them touch you back.

Jim Fiebig

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Electronic Warfare - From The Battle Of Tsushima To The Falklands And Lebanon
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1605 / 46
Cập nhật: 2016-06-18 07:56:43 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21: Cuộc Xung Đột Falklands
ào đêm 01 sang ngày 02 Tháng 4 năm 1982, cách vài km tới Port Stanley – thủ phủ của quần đảo Falkland, chín mươi lính Thủy quân lục chiến, chuyển từ tàu khu trục Argentina “Santisima Trinidad” sang tàu đổ bộ, hướng vào bờ biển. Sau khi đổ bộ, quân biệt kích được chia thành hai nhóm: nhóm đầu tiên, số lượng ba mươi người, tiến đến dinh Thống đốc Anh tại Port Stanley và nhóm kia, quân số sáu mươi người, đồng thời với nhóm đầu tiên, tiến đến doanh trại Thủy quân lục chiến Hoàng gia. Đó là giai đoạn đầu tiên của “Chiến dịch Tom” – chiến dịch quân sự chiếm đóng quần đảo Falkland hoặc theo tiếng Argentina – Islas Malvinas (quần đảo Malvinat).
Tại dinh Thống đốc, ba mươi người của nhóm đầu tiên dưới sự chỉ huy của một Trung úy, gặp phải sự kháng cự mạnh của Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh. Chỉ huy của họ bị giết chết, nhưng người Argentina có ưu thế áp đảo về hỏa lực, và Thống đốc nhận ra rằng ông ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc ra lệnh cho Thủy quân lục chiến đầu hàng.
Trong khi đó, các lực lượng xâm lược chính của người Argentina đã đổ bộ lên đảo từ các hộ tống hạm “Granville” và “Drummond”, tàu ngầm, một số tàu chiến khác và các máy bay vận tải quân sự C-130 Hercules và Fokker. Họ nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự và kéo cờ Argentina lên trên quần đảo đang tranh chấp.
o O o
Ba ngày sau, từ Portsmouth, để đưa Quần đảo Falkland trở về với Vương quốc Anh – lực lượng viễn chinh Anh xuất quân thực hiện “Operation Corporation”. Trong khi đó, những nỗ lực tuyệt vọng đã được tiến hành nhằm giải quyết vấn đề bằng các khả năng ngoại giao. Gần một tháng không có gì xảy ra, còn tại thời gian này lực lượng viễn chinh Anh đang tiến đến quần đảo Falkland. Tốc độ di chuyển của họ dường như cho thấy ý định của người Anh giải quyết xung đột bằng biện pháp ngoại giao nhiều hơn là biện pháp quân sự nghiêm túc. Cả thế giới theo dõi sự chậm chạp lỗi thời này với sự tò mò và hoài nghi lớn.
Trong khi đó, để theo dõi các sự kiện ở Nam Đại Tây Dương, Liên Xô bắt đầu đưa vào không gian các vệ tinh gián điệp. Ngoài ra, họ điều đến đấy một số máy bay Tu-95 và các tàu gián điệp thông thường cải trang thành các tàu đánh cá để theo dõi liên tục lực lượng viễn chinh Anh. Máy bay lớn nhất của Hải quân Liên Xô – Tu-95 được sản xuất dưới dạng nhiều phiên bản. Một trong số đó – Tu-95RT, sử dụng để trinh sát và giám sát trên biển. Thường để theo dõi tình hình Nam Đại Tây Dương, họ hoạt động từ các căn cứ không quân do quân đội Cuba kiểm soát ở Angola. Ngoài ra, Tu-95 có thể tiến hành cả nhiệm vụ SIGINT.
Các vệ tinh đầu tiên của Liên Xô được đưa vào không gian ngày 31 tháng 3 – hai ngày trước khi người Argentina đổ bộ. Đó là: “Kosmos-1345” và “Kosmos-1346”, nhiệm vụ chính của chúng tương ứng là, đánh chặn bức xạ radar (ELINT), và nghe lén cùng ghi lại thông tin trao đổi của các phương tiện liên lạc vô tuyến (COMINT). Ngày 02 tháng 4 vệ tinh trinh sát hình ảnh “Kosmos-1347” được phóng vào không gian. Nó phải ném xuống các bao thu hồi chứa các cuộn phim đã chụp mỗi lần bay qua một địa điểm cụ thể trên lãnh thổ Liên Xô. Từ 16 đến 23 tháng 4, để thay thế các tài nguyên đã cạn kiệt và tiếp tục quan sát, các vệ tinh khác được phóng lên hàng loạt, các “Kosmos” – 1350, 1351, 1352, 1353. Và ngày 29 tháng 4 vệ tinh chuyên dụng quan sát đại dương “Kosmos-1355” được phóng lên.
o O o
Sau đó, Nga đã đưa vào không gian hàng loạt các vệ tinh “Vũ trụ” khác (-1356, 1357, 1364, 1366, 1367, 1369, v,v) với mục đích duy nhất là giám sát tình hình ở quần đảo Falkland. Một số các vệ tinh này có thể xác định tọa độ của tất cả các tàu ở Nam Đại Tây Dương và chụp ảnh, các ảnh đó ngay lập tức được chuyển về các trạm mặt đất của Nga để phân tích.
Người Mỹ cũng theo dõi tiến trình các sự kiện tại các cảng Argentina nhờ vệ tinh và trên thực tế, họ đã cảnh báo người Anh nguy cơ người Argentina sắp đổ bộ lên quần đảo Falklands. Tuy nhiên, quan sát của họ không giới hạn chỉ ở Nam Đại Tây Dương. Theo các nguồn tin không chính thức, người Mỹ sử dụng một lượng lớn phương tiện của Cơ quan An ninh Quốc gia của họ (NSA). NSA có vệ tinh thông tin liên lạc riêng của nó (COMSAT), có các trạm mặt đất được trang bị rất tốt để đánh chặn và các trung tâm giải mã, trang bị các máy tính mạnh nhất, được IBM phát triển chuyên dụng riêng. NSA đã sử dụng các phương tiện này để chặn thu thông tin trao đổi của các khí tài liên lạc vô tuyến Argentina và phá mã, do đó cho phép họ cung cấp cho người Anh thông tin có giá trị liên quan đến việc triển khai quân đội Argentina trên quần đảo Falklands và sự di chuyển của các tàu Argentina.
Người ta không biết liệu người Nga có kịp thời phá mã hoạt động của Hải quân Hoàng gia Anh hay không. Tuy nhiên, thực tế là các tàu chiến Anh đã giảm số lượng các chương trình phát sóng của mình xuống mức tối thiểu, khi các vệ tinh của Nga bay qua đầu họ.
o O o
Chủ nhật, ngày 2 tháng 5, từ Nam Đại Tây Dương xa xôi lan đến một tin tức bất ngờ, tàu ngầm hạt nhân Anh “Conqueror” phóng ngư lôi vào tàu tuần dương Argentina “General Belgrano” ngoài khơi bờ biển Patagonia. “General Belgrano” là một tàu cũ của người Mỹ, tham gia Chiến tranh Thế giới II, có lượng rẽ nước 13.645 tấn, lớp “Brooklyn” – tuần dương hạm “Phoenix”. Chiếc tàu tuần dương đi về phía quân đoàn viễn chinh, nhưng vẫn còn ở bên ngoài vùng cấm 200 dặm, mà phía Anh thông báo không được đi vào. Trên tàu không có vũ khí chống tàu ngầm (ASW – ПЛО), nhưng nó được hộ tống bởi hai tàu ASW trọng tải nhỏ hơn, tuy nhiên chúng thiếu vũ khí chống tàu ngầm hiện đại. Như các tàu Argentina khác tham gia vào cuộc đổ bộ “General Belgrano” sử dụng radar và liên lạc vô tuyến của mình khá cẩu thả, có lẽ chúng không biết rằng tất cả các bức xạ điện từ của chúng đã bị người Mỹ đánh chặn, họ cho phép đồng minh NATO của nó – Vương quốc Anh, tiếp cận tất cả các thông tin này.
Tàu ngầm hạt nhân của Anh có động cơ đẩy chạy bằng năng lượng hạt nhân, nó đi nhanh không khó khăn gì trong tư thế ngầm, tiến tới con tàu Argentina già cỗi và chiếm vị trí thuận lợi để phóng ngư lôi. Tuy nhiên, trước khi phóng ngư lôi, chỉ huy tàu ngầm trung tá hải quân Christopher Rexford Brown quyết định một cách đúng mực hỏi ý kiến London qua radio. Thủ tướng Anh, bà Margaret Thatcher, nói với ông ta rằng, các tàu chiến Argentina là mối đe dọa hiển nhiên đối với các lực lượng viễn chinh đang sắp tới, bà ra lệnh cho thuyền trưởng tàu ngầm phóng ngư lôi vào tàu đối phương.
Lúc 16:00, trái ngư lôi đầu tiên bắn trúng đuôi chiếc tàu tuần dương bên dưới đường mớn nước, nơi đặt phòng máy. Ngay lập tức nguồn cấp điện trên tàu bị mất, con tàu chìm vào bóng tối hoàn toàn. Ba giây sau, một trái ngư lôi khác trúng phần mũi tàu. Lúc 16:07, con tàu bị trọng thương nghiêng mạnh đến nỗi sau 15 phút thuyền trưởng Bonzo ra lệnh rời tàu. Biển động, hai tàu hộ tống sợ sẽ bị đánh chìm nên nhanh chóng rút lui. Các hoạt động cứu hộ rất khó khăn. Khoảng 400 thủy thủ người Argentina đã thiệt mạng trong trận đánh gây tranh cãi và chỉ trích rộng rãi này, sự cần thiết hành động của nó bị đặt dấu hỏi. Ngày 02 tháng 5, lúc 17:00, tàu tuần dương bị chìm với một lá cờ còn đang vẫy.
Xét từ quan điểm tác chiến, không có gì đáng ngạc nhiên khi tàu tuần dương “General Belgrano” bị đánh chìm. Sườn phía nam “gọng kìm” Hải quân Argentina, có mục đích bao vây lực lượng viễn chinh Anh và buộc họ phải tham chiến, đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng cho Hải quân Hoàng gia và quân đổ bộ Anh, bất kể nó có đi vào hay không đi vào khu vực cấm, mà tuyên bố vùng cấm rõ ràng đã hạn chế các hoạt động tấn công của người Anh. Điều thú vị là Tư lệnh Hải quân Argentina khu vực Nam Đại Tây Dương khẳng định (theo kênh truyền hình BBC năm 1984), rằng vụ đánh chìm tàu tuần dương “General Belgrano” bên ngoài khu cấm là hợp pháp và cần thiết xét trong điều kiện của các hoạt động quân sự, và rằng nếu là ông ta cũng sẽ làm tương tự.
Điều đáng kinh ngạc trong trường đoạn này chỉ là sự dễ dàng khi “Conqueror” đánh chìm tàu tuần dương. Vì nó không có đủ hộ tống và vũ khí chống ngầm, trên thực tế, nó không thể tránh khỏi việc sẽ bị đánh chìm. Tuy nhiên, “Conqueror” bám sát tàu tuần dương nhiều giờ, và hơn thế, đã đánh chìm nó bằng các trái ngư lôi thủy âm Mk8 thời Thế chiến II vì viên chỉ huy tàu ngầm không tin tưởng ngư lôi Mk24 Tigerfish điều khiển bằng dây dẫn. Mặc dù loại sau đã áp dụng các công nghệ hiện đại, độ tin cậy tổng thể của nó còn chưa đủ. Nếu “General Belgrano” có thể bị bắn chìm tương đối dễ dàng như bằng loại ngư lôi phát triển cách đây đã 40 năm và được phóng ở cự ly tương đối gần như thế, tự nhiên sẽ xuất hiện câu hỏi, khi đó các tàu chiến phải làm gì để chống lại mối nguy hiểm chết người của các trái ngư lôi tự dẫn hiện đại, được sử dụng trên cự ly lớn bởi các tàu ngầm hạt nhân tốc độ cao.
Thậm chí chống lại các ngư lôi hiện đại, vẫn có thể sử dụng đối kháng với một số hy vọng thành công. Tất nhiên, đó phải là đối kháng âm thanh dưới nước, vì sóng điện từ không thể truyền trong nước một cách hiệu quả như âm thanh. Phương pháp cổ điển để tránh ngư lôi âm thanh, phát minh trong quá trình Thế chiến II, dựa trên việc đánh lạc hướng âm. Máy phát tiếng ồn, mà tàu kéo theo phát ra tiếng ồn cũng giống như con tàu, nhưng mạnh hơn nhiều, và ngư lôi, như vậy, khóa vào mục tiêu giả mà không phải con tàu.
Đương nhiên, các hệ thống sử dụng ngày nay khác với các hệ thống trong Thế chiến II. Tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực này đã dẫn đến việc tạo ra các hệ thống kiểm soát bằng máy tính và hoàn toàn tự động để đánh lừa hoặc phá hủy ngư lôi, ví dụ như các ngư lôi chống thủy lôi. Vì ngư lôi hiện đại, bao gồm cả loại điều khiển bằng dây, trang bị hệ thống tự dẫn âm thanh trong phân đoạn cuối của cuộc tấn công, đã tìm ra các phương pháp âm thanh ECW và phản ECW, chúng vẫn thường xuyên được cải tiến. Cũng như trong lĩnh vực sóng điện từ, trong lĩnh vực ECW âm thanh, mỗi bên sẽ cố gắng vòng tránh địch thủ.
Các tàu Argentina không thể đem so sánh với tàu ngầm hạt nhân Anh về bất cứ cái gì và vụ đánh chìm “General Belgrano” cho thấy rõ ràng ai thống trị biển cả!
Vấn đề đấu tranh đối kháng chống các tàu ngầm hạt nhân thì các hạm đội hải quân lớn nhất trên thế giới đều đã va chạm, trong đó người Mỹ và người Nga ở mức độ lớn nhất. Những nỗ lực rất lớn đã được tiêu tốn vào việc tạo ra một chuỗi các cảm biến âm thanh dưới nước điều khiển bằng máy tính, có thể phát hiện tàu ngầm từ lâu trước khi chúng ra đến tuyến tấn công.
Rất nhanh chóng, người Argentina báo thù cho ARA “General Belgrano” của mình. Ngày 04 Tháng 5 năm 1982, một máy bay tuần tra ven biển PV2 Neptune của Argentina phát hiện binh đoàn viễn chinh Anh ở cự ly khoảng 110 km về phía đông quần đảo Falkland, hiện gồm một tàu nhỏ và một tàu lớn. Đó là tàu sân bay Hải quân Hoàng gia HMS “Hermes” và tàu khu trục đề án 42 HMS “Sheffield”, chiếc sau được sử dụng như một trạm radar tuần tiễu và ở cách tàu lớn khoảng 32 km. Hai máy bay tấn công Super Etandard, cả hai trang bị tên lửa AM-39 Exocet ngay lập tức, theo lệnh Bộ Chỉ huy tối cao của Argentina cất cánh tấn công các tàu trên.
Để tránh bị phát hiện bởi radar các máy bay Anh, chúng bay thấp, ép xuống đỉnh sóng. Chiếc P2V Neptune, sau khi phát hiện binh đoàn đặc nhiệm hải quân Anh, đã dẫn đường cho các máy bay Super Etandard tới mục tiêu và chỉ huy chúng lấy độ cao gấp để đảm bảo radar của máy bay cường kích khóa được mục tiêu. Ở cự ly khoảng 40 km cách nơi các tàu chiến Anh bị phát hiện, cả hai chiếc Super Etandard nhanh chóng đạt độ cao 150 mét, chúng bật radar trên máy bay trong một thời gian ngắn đủ để xác định vị trí hai mục tiêu và bằng cách đó lập trình cho máy tính của tên lửa Exocet rồi hạ xuống độ cao thấp ban đầu. Điều kiện thời tiết trong ngày hôm ấy khá xấu, sương mù hạn chế tầm nhìn chỉ đến 400 mét. Ở cự ly khoảng 36 km, cả hai máy bay phóng tên lửa rồi ngoặt lại – trở về phi trường, sau khi đã “nhìn thấy” mục tiêu chỉ qua radar trên máy bay. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian ngắn ngủi có bức xạ radar của máy bay Super Etandard, một tàu chiến Anh trong khu vực đã phát hiện bức xạ của chúng. Việc chặn thu này ngay lập tức được thông báo đến tất cả các tàu của lực lượng viễn chinh, bao gồm cả HMS “Sheffield”. HMS “Hermes” – tàu chỉ huy hệ thống PK của binh đoàn viễn chinh đặc nhiệm có lẽ đã xác định bức xạ bị chặn thu là của máy bay đánh chặn Mirage III của Argentina hoặc máy bay cường kích chiến thuật, nhưng không phải Super Etandard. Sai lầm trong đánh giá trên, chắc chắn đồng nghĩa với thời gian đã bị bỏ lỡ và mối nguy hiểm bị lượng định thấp một cách trầm trọng. Ngoài thực tế đó, thì hai chiếc máy bay đã bay ngược về, dường như cho thấy chúng quyết định tránh tấn công. Hơn nữa người Anh tính rằng, người Argentina chưa sẵn sàng sử dụng Exocet từ Super Etandard. Với tất cả những lý do trên, người Anh không coi trọng đúng mức bức xạ radar chặn thu được.
Chính vào thời điểm này, “Sheffield” (tàu khu trục đề án 42 được trang bị thiết bị đầu cuối hệ thống thông tin vệ tinh Scot Skynet) truyền và nhận thông tin qua vệ tinh – tiến hành một chiến dịch đòi hỏi tất cả các thiết bị bức xạ năng lượng điện từ phải tắt để tránh ảnh hưởng nhiễu tới hệ thống thông tin vệ tinh: đó có thể là lý do quan trọng nhất tại sao radar trên tàu không kịp thời phát hiện máy bay địch. Hơn nữa, hệ thống ESM của “Sheffield” cũng không phát hiện thấy bức xạ radar đầu tự dẫn tên lửa. Thật kỳ lạ vì đầu tự dẫn tên lửa sẽ bật lên ở cự ly khoảng 10 km cách mục tiêu (giả định rằng thiết bị ESM trên tàu bị tắt cùng vì lý do trên, xem tạp chí Defense Electronics, tháng 11 năm 1983. “Falklands.” Nhưng việc con tàu, hoạt động như một picket radar đồng thời ngắt cả radar và thiết bị ESM là không đủ thuyết phục).
Mặt khác, trong khu vực này môi trường điện từ đã rất bão hòa, làm việc ở đây có các phương tiện liên lạc vô tuyến điện, hệ thống nhận dạng quốc tịch và radar của các tàu chiến Anh và vô số tàu buôn đi đến quần đảo Falkland phục vụ hậu cần cho quân đoàn viễn chinh.
o O o
Trong khi đó, hai TLCH không bị phát hiện, bay tới tàu trên cao độ sát đỉnh sóng ở tốc độ cận âm, khép dần khoảng cách từ mục tiêu tới chúng trong khoảng hai phút. Chỉ bốn giây trước khi tiếp đich, người quan sát trên cầu điều hướng hành trình của “Sheffield” mới nhìn thấy một trong những quả đạn tên lửa. Thời gian này chỉ đủ để thuyền trưởng ra lệnh cho thủy thủ đoàn ẩn nấp. Tên lửa chạm thân “Sheffield”, ở khoảng 1,8 mét so với đường mớn nước và đánh trúng Cabin điều khiển hoạt động tàu. Quả tên lửa kia rơi xuống biển, có thể là do hỏng hóc trong hệ thống dẫn đường, hoặc có lẽ vì một lý do khác. Tên lửa sau khi bắn trúng “Sheffield” đã gây ra một đám cháy lớn, giết chết hai mươi người và làm bị thương hai mươi bốn người. Nhiên liệu còn sót lại chưa đốt hết của quả đạn bốc cháy, lửa bùng thành ngọn đuốc khổng lồ. Các đường dây cáp điện – hệ thống thần kinh của con tàu, cũng bốc cháy và hệ thống thông gió cưỡng bức của con tàu làm cho đám cháy lan ra khắp tàu. Ở vị trí trúng đạn, kim loại thân tàu chuyển từ nóng đỏ sang sáng trắng, thủy thủ đoàn di chuyển rất khó khăn và ngộp thở vì làn khói dày đặc bao phủ toàn bộ tàu. Tuy nhiên, trong vòng bốn giờ, các thủy thủ đã chiến đấu tuyệt vọng với hỏa hoạn, cố gắng cứu con tàu, đến khi ngọn lửa len lỏi đến chỗ các tên lửa và nơi chứa nhiên liệu, thuyền trưởng ra lệnh rời tàu.
Nhưng “Sheffield” chưa nổ và chìm ngay. Tàu được cứu kéo với hy vọng đưa về Anh quốc; sau sáu ngày kéo, do thương tích nặng nề và bị đốt cháy, cuối cùng, vào ngày 10 tháng 5, tàu bị chìm trong một cơn bão lớn. Người ta cho rằng tên lửa Exocet có thể không làm nó nổ tung, nhưng phần dưới vỏ tàu “Sheffield” đã bị hư hại nhiều bởi vụ nổ và cháy.
“Sheffield” là tàu đầu đàn trong số 12 tàu khu trục đề án 42 được đặt hàng. Đề án này bị chỉ trích mạnh mẽ vì thiếu cả vũ khí phòng thủ lẫn tấn công. Tàu có lượng dãn nước 4100 – 4700 tấn, trang bị vũ khí đầy đủ theo biên chế bao gồm một đôi ống phóng tên lửa phòng không Sea Dart, một pháo hạm cỡ nòng 4,5 dium, hai pháo 20 mm Erlicon, sáu ống phóng ngư lôi chống tàu ngầm và một máy bay trực thăng chống tàu ngầm Lynx. Các tàu chiến hiện đại được bảo vệ chống lại TLCH bằng vũ khí hay trang bị “mềm” (ECW), hoặc bằng sát thương “cứng” (bằng vũ khí chống tên lửa, ví dụ, British SAM Sea Wolf hoặc pháo cực nhanh. (Vũ khí thế hệ mới kiểu này như Seaguard, Goalkeeper, Phalanx và v.v có tốc độ bắn rất nhanh – đến 4000 phát bắn mỗi phút. Đạn của chúng thuộc kiểu “động học” cải tiến đặc biệt đảm bảo sự phá hủy quả tên lửa chỉ bằng một viên đạn).
Liên quan đến sát thương “cứng”, thì tổ hợp SAM Sea Dart trên tàu khu trục “Sheffield” có thể đánh chặn tên lửa, nhưng cự ly ngắn hơn Exocet. Ngoài ra, người Anh chẳng hề có máy bay AWACS, vì họ từ chối bố trí chúng trên tàu sân bay, do đó bất kỳ cảnh báo bị tấn công nào cũng giới hạn bởi các phát hiện trên tuyến quét quan sát trực tiếp của radar trên tàu chiến. Thực tế, “Sheffield” hoạt động như một phương tiện chiến tranh điện tử. Điều này có nghĩa rằng máy bay Super Etandard có thể phóng tên lửa của nó ngoài cự ly diệt mục tiêu của SAM Sea Dart – tình thế thuận lợi như vậy gọi là khả năng “ứng dụng từ xa” (“standoff”). (Chỉ vài tuần trước đó, máy bay Hải quân Argentina mới bắt đầu ráo riết tập luyện cách sử dụng kết hợp Super Etandard – Exocet. Vì mục đích này, đã sử dụng các thiết kế và sản phẩm của người Anh loại tàu khu trục đề án 42 “Hercules” và “Santisima Trinidad”).
o O o
Kết luận rút ra là, có thể bay đến đủ gần các tàu khu trục đề án 42, mà “Sheffield” thuộc về lớp đó, và phóng tên lửa Exocet ở độ cao thấp để tránh bị radar phát hiện. Tên lửa có thể phóng ngoài vùng tiêu diệt của SAM Sea Dart, và ngay sau khi phóng, Super Etandard không làm gì khác ngoài việc quay về. Trong trường hợp này, máy bay không gặp nguy cơ bị bắn trúng, còn tên lửa của nó, để tấn công, sẽ hạ độ cao đến sát mực nước biển. “Sheffield” không có hệ thống đối kháng chống mục tiêu bay thấp, vũ khí trang bị của nó được phát triển trước khi ra đời các tên lửa có khả năng như vậy trong trang bị vũ khí của các hạm đội trên thế giới và, ngoài ra, Anh quốc không chuẩn bị chiến tranh với các nước có vũ khí NATO. Chỉ duy nhất phương tiện phòng thủ “cứng” khả dĩ, mà “Sheffield” có thể viện đến là các loạt bắn của pháo 20-mm, nhưng nó hoàn toàn không hiệu quả khi chống lại mục tiêu nhỏ cỡ như Exocet.
Tín hiệu được đưa tới các máy thu định hướng, nằm trong khối đặt ngay bên dưới ăng-ten và từ đó đến bộ xử lý từ xa (RPU – Remote Processing Unit). Ăng-ten đa hướng liên lạc với các máy thu tần số, cũng nằm trong RPU. Các khối này xử lý tần số và phương vị mỗi tín hiệu dưới dạng số nhị phân và chuyển chúng đến bàn điều khiển của thao tác viên. Màn hình hiển thị tình hình chiến thuật ở trung tâm điều khiển sẽ hiển thị tất cả các tín hiệu thu được trong một hoặc một số dải tần trên hệ tọa độ trực giao tần số-phương vị đúng. Việc phân tích sâu hơn các tín hiệu bằng máy phân tích tự động có thể được khởi xướng bởi thao tác viên, và các thông số lập tức được hiển thị trên màn hình hiển thị văn bản, nằm dưới màn hình hiển thị tình hình chiến thuật. Hệ thống cảnh báo tự động sẽ đảm bảo lưu trữ các thông số của một số tín hiệu của các mối đe dọa và cảnh báo tự động khi chặn thu được một trong những tín hiệu đó. Bộ phân tích xung thủ công bên trái màn hình hiển thị tình hình chiến thuật, cho phép thao tác viên nghiên cứu tín hiệu chi tiết hơn và làm việc với các dạng tín hiệu mới chưa biết.
Phân tích vũ khí hủy diệt “mềm” của “Sheffield”, khi không có tài liệu chính thức liên quan đến yếu tố nhạy cảm quốc phòng này, đòi hỏi khảo sát kỹ cấu trúc thượng tầng con tàu, cột tháp chính và ăng-ten, tất cả đều nhìn thấy rõ trên những bức ảnh. Trên bức ảnh con tàu trúng tên lửa Exocet của Argentina (xem hình trong phụ lục) ta thấy trên cột chính các ăng ten trang bị của hệ thống ESM UAA-1Abbey Hill – máy thu ESM nổi tiếng, sản phẩm của công ty Anh MEL Equipment Co., thiết bị đã được tiếp nhận trang bị cho Hải quân Hoàng gia Anh vào năm 1973.
UAA-1 là máy thu đánh chặn bức xạ radar và hệ thống tầm phương, thiết kế để lắp đặt trên các tàu mặt nước hoạt động trong điều kiện sử dụng bão hòa radar. Phát triển vào cuối những năm 60 và bị hạn chế bởi trình độ công nghệ thời đó, nó được thiết kế để thực hiện hai chức năng cơ bản:
– phát hiện xa ngoài đường chân trời các tín hiệu bức xạ điển hình của radar, hiện thân cho các mối đe dọa chủ yếu với con tàu.
– giám sát phổ điện từ, đánh chặn, phân tích và nhận dạng các tín hiệu bức xạ điển hình của radar trong dải tần 1-8 GHz và đồng thời xác định phương vị của chúng.
Để cho các chức năng này vận hành được, điều cần thiết là phải biết các đặc tính cụ thể của các radar nguy hiểm tiềm tàng: tần số, độ dài xung, tần số lặp lại xung, v.v.. xác định được khi phân tích tự động hoặc thủ công, được ghi lại trong block thiết bị thường gọi là “thư viện”. Bức xạ đe dọa có mức ưu tiên cao hơn, chẳng hạn như radar của tên lửa, được ghi lại trong mục đặt tên là “cảnh báo” để nhận dạng tự động và cảnh báo phòng ngừa. Bất cứ khi nào trong một tình huống chiến đấu thực, khi chặn được các bức xạ radar như vậy thì ngay lập tức tự động vang lên âm thanh cảnh báo về sự xuất hiện mối đe dọa có mức ưu tiên cao nhất. Việc nhận dạng các tín hiệu radar nguy hiểm tiềm tàng được thực hiện bằng cách so sánh các thông số tín hiệu một cách tự động với “kiến thức” có được trong “thư viện”. Việc cảnh báo hoàn toàn tự động được thực thi nếu phát hiện bất kỳ tín hiệu nào đã lập trình. Chức năng giám sát đảm bảo hiển thị trên màn hình trắc thủ tất cả các bức xạ có trong thinh không. Các trắc thủ-thao tác viên có thể nhanh chóng phân tích và nhận dạng các bức xạ nguy hiểm, cũng như khởi tạo việc bám sát phương vị các tín hiệu được lựa chọn.
Trong trường hợp của “Sheffield”, hệ thống Abbey Hill đã không thi hành được chức năng nào kể trên. Nó không đưa ra được bất kỳ cảnh báo nào, có thể do sự hiện diện của nhiễu điện từ, hoặc có lẽ vì các thông số radar tên lửa Exocet chưa được liệt kê trong mục “cảnh báo”, tức là chưa được lập trình như mối đe dọa có mức ưu tiên cao nhất (RWR của hầu hết các tàu NATO đều được lập trình với radar Liên Xô. Hơn nữa, thiết bị Abbey Hill có những khả năng rất hạn chế khi làm việc với các mục tiêu được lập trình sẵn. Cũng cần lưu ý rằng phiên bản tên lửa Exocet – phiên bản diện-đối-diện MM-38 được trang bị cho nhiều tàu hải quân Argentina). Bản thân bức xạ cũng không được phân tích bởi vì các thao tác viên-trắc thủ không có thời gian thực hiện các hành động cần thiết.
Ngoài ra, “Sheffield” được trang bị hai máy phóng PRLO Corvus (hay Protean), nhưng chúng không được sử dụng đơn giản chỉ vì không có tên lửa hoặc máy bay nào, mà chúng cần phải hành động chống lại, được phát hiện và các dữ liệu cần thiết không được trao cho chúng một cách kịp thời. Để sử dụng hiệu quả, PRLO – phương tiện ECW thụ động, cần được phóng đúng thời điểm, đúng hướng, đúng số lượng để sao cho “dụ” được radar đầu tự dẫn lệch xa khỏi hướng con tàu.
Như hầu hết các tàu của Hải quân Hoàng gia, “Sheffield” có lẽ cũng trang bị các các phương tiện đối kháng điện tử chủ động: máy phát nhiễu mô phỏng Bexley 669 để bảo vệ chuyên chống tên lửa, máy gây nhiễu tạp 667/668 để gây nhiễu radar giám sát của tàu và các máy bay địch. Ban đầu, cả hai khí tài này được thiết kế để đối kháng với các tên lửa của Liên Xô T-15U “Termit-U” và các tên lửa khác thuộc thế hệ này. Bởi vì theo nguyên nhân, như đã nói ở trên, các thiết bị gây nhiễu đó đã không được bật.
Nhưng có lẽ nghiêm trọng nhất là việc thiếu RWR hồng ngoại trên tàu và một máy phát nhiễu bất định phương hiện đại hơn, vì một hệ thống như vậy phải là tuyến phòng vệ cuối cùng của “Sheffield”, khi tất cả các hệ thống khác tỏ ra bất lực.
o O o
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng việc phát triển phương tiện đối kháng điện tử có khả năng chống lại các tên lửa tương tự Exocet sản xuất ở phương Tây, chưa kể đến thế hệ mới như Otomat, Harpoon, v.v, không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Exocet, mặc dù được chấp nhận trang bị từ năm 1973, có một số phương pháp phản đối kháng điện tử khác nhau và phức tạp, làm cho nó có khả năng ổn định chống ECW, bao gồm cả gấy nhiễu đánh lạc hướng. Đó là – loại tên lửa “bắn và quên” – một thuật ngữ có nghĩa là sau khi bắn tên lửa, máy bay-vật mang có thể thoát ly ngay lập tức, do đó giảm nguy cơ bị phát hiện và tiêu diệt. Radar Agave trên máy bay (Agave – là một radar nhẹ, đơn xung, lắp đặt trên máy bay Pháp Super Etandard và Jaguar. Nó đảm bảo tìm kiếm và bám sát trong chế độ không-đối-không và không-đối-diện, truyền dữ liệu về cự ly và dẫn đường vào radar đầu tự dẫn tên lửa. Đầu tự dẫn tên lửa có radar làm việc trong phạm vi 8-10 GHz) chỉ phải phát hiện mục tiêu và ngay sau đó dữ liệu về cự ly và hướng của mục tiêu được tự động nhập vào hệ thống máy tính dẫn đường của tên lửa. Vì vậy, tất cả những việc còn lại đối với phi công, đó là phóng tên lửa và quay về nhà, anh ta thậm chí không cần phải nhìn thấy mục tiêu. Sau khi phóng ra, phân đoạn đầu của Exocet là bay dưới sự điều khiển của hệ dẫn đường quán tính rất ổn định trước ECW, máy đo cao vô tuyến của nó sẽ duy trì độ cao 10 mét. Cách mục tiêu khoảng 10 km, radar nhỏ ADAC trong phần mũi tên lửa sẽ được bật lên, nó sẽ phát hiện và khóa mục tiêu, dẫn tên lửa lao vào mục tiêu. ADAC – radar bám sát đơn xung hoạt động trong dải X-band (8,5-12,5 GHz) và ổn định trước ECW. Phương pháp đơn xung không phải điều mới, nó đã được sử dụng trong tổ hợp tên lửa phòng không “Osa” của Liên Xô, cũng như trong các tổ hợp TLPK hiện đại hơn S-300 và “Buk”.
Hơn nữa, Exocet có cả các phương pháp phức tạp khác bảo vệ chống nhiễu tạp và nhiễu đánh lạc hướng. Một trong các phương pháp phản-ECW như vậy được biết đến là tái tạo tần số, cho phép radar tái tạo lại tần số hoạt động khi bị chế áp. Phương pháp khác, được gọi là “tự dẫn vào nguồn nhiễu” (“Home-On-Jam”) tự động dẫn tên lửa đến nguồn phát nhiễu, và phương pháp thứ ba, được gọi là “cạnh trước” (“LeadingEdge”), là phương pháp siêu-phức tạp và tối mật. Vì vậy, không dễ dàng tạo ra thiết bị có khả năng đánh lừa hoặc can thiệp vào loại tên lửa này.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa giải pháp cho vấn đề trên là không có. Rõ ràng khi bùng nổ đột ngột cuộc chiến tranh Falklands, một số tàu của Anh, trong đó có “Sheffield”, đang ở trong tình trạng thiếu trang thiết bị EW hiện đại, có khả năng đối kháng lại các tên lửa có kỹ thuật tiên tiến hơn của phương Tây như Exocet. Lý do chính, vì thế mà các con tàu như “Sheffield” không được trang bị đúng đắn, là lý do kinh tế thuần túy. Sự cắt giảm ngân sách quốc phòng Anh buộc Hải quân Hoàng gia phải trì hoãn việc tái trang bị cho lớp tàu mà “Sheffield” thuộc về nó. Tuy nhiên, mặc dù tất cả các sự cắt giảm đó, Hải quân Hoàng gia vẫn cần phải thay thế hệ thống ESM Abbey Hill sang hệ thống ESM Cutlass mới; các phương tiện ECM chủ động đã già cỗi cũng đang trong quá trình thay thế sang các máy phát nhiễu mô phỏng Ramses 670 và máy gây nhiễu tạp Millpost.
o O o
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, dữ liệu ghi trong trong bộ nhớ của các hệ thống ECW đầu tiên trên các tàu chiến khối NATO là tham số của các TLCH Liên Xô, có lẽ vì vậy chúng không hiệu quả trước các tên lửa tinh vi hơn của phương Tây. Ngoài ra, yếu tố thời gian có giá trị tối quan trọng khi đề cập đến ECW; đối kháng điện tử phải được áp dụng lập tức và tự động ngay khi có dấu hiệu nguy hiểm đầu tiên, điều ấy đã không xảy ra trong trường hợp của “Sheffield”, khi mà máy bay Argentina và tên lửa được phát hiện quá muộn.
Để kết luận, phải nói rằng thiết bị Abbey Hill của “Sheffield”, nếu nó thực sự có khả năng làm việc, có thể không nhận dạng và phân tích tức thì bức xạ điện từ của radar trên máy bay Super Etendard và trên tên lửa Exocet, hoặc vì nhiễu, hoặc vì năng lực hạn chế của nó.
Ngày 07 Tháng Năm, Anh quốc chuyển sang phong tỏa hàng hải, sau khi thông báo rằng tất cả các tàu chiến và máy bay Argentina, hiện diện trong cự ly lớn hơn 18 km tính từ đường bờ biển Argentina sẽ được coi là thù địch và sẽ được xử lý phù hợp. Một vài ngày sau, chính phủ Argentina công bố hạn chế tương tự đối với các tàu và máy bay Anh.
Ngày 09 tháng 5, hai máy bay đa năng cất hạ cánh đường băng ngắn (STOL) BAE Sea Harrier của Anh, khi đang tuần tra phát hiện tàu đánh cá “Narval”, mà họ đã thấy ở gần lực lượng viễn chinh một tuần trước. Chắc chắn, đó là một tàu gián điệp Argentina, cả hai chiếc Sea Harrier thả vài trái bom, một trong số đó đánh trúng con tàu, làm bị thương mười bốn người và làm bị thương nặng thân tàu. “Kỳ lân biển” Narval buộc phải đầu hàng, còn thủy thủ đoàn của nó bị bắt lên trực thăng lực lượng viễn chinh. Như người Anh tuyên bố, các thiết bị điện tử và tài liệu tìm thấy trên con tàu đánh cá, chưa kể đến sự hiện diện của các sĩ quan hải quân Argentina trên tàu, cho thấy rõ ràng con tàu đang thực hiện các hoạt động tình báo. Trong cùng ngày các tàu của quân viễn chinh, được hỗ trợ bởi máy bay và trực thăng, làn đầu tiên bắn phá Quần đảo Falkland, khi cố gắng cắt đứt đường liên lạc của người Argentina và phá hủy trung tâm chỉ huy và kiểm soát của họ.
Người Nga, có lẽ đã cung cấp các dữ liệu về vị trí của của quân đội Anh cho người Argentina, chúng được thu thập bởi nhiều vệ tinh gián điệp của họ trong các quỹ đạo trên quần đảo Falkland. Ngoài nguồn này, Argentina cũng có: các máy bay phản lực bốn động cơ Boeing 707, được nâng cấp để tiến hành giám sát điện tử và giám sát hàng hải, máy bay tuần tra ven biển Lockheed P-2V Neptune, máy bay Grumman S2F Tracker và Gates Learjet 35A – tất cả được sản xuất tại Mỹ.
Người Anh cũng được sử dụng những lợi ích từ nguồn quan sát vệ tinh và hệ thống trinh sát biển. Mặc dù họ không có vệ tinh riêng, tàu của họ được trang bị các ăng-ten đặc biệt Scot Skynet, có khả năng nhận dữ liệu từ vệ tinh Big Bird của Mỹ và từ vệ tinh mới nhất KH-11. Vệ tinh sau được coi là vệ tinh hoàn hảo nhất trong tất cả các vệ tinh, vì có khả năng thu nhận và ghi lại hình ảnh của bề mặt trái đất dưới dạng kỹ thuật số và ngay lập tức chuyển tiếp chúng cho các trạm mặt đất nằm rải rác trên toàn thế giới, dưới dạng thức cho phép họ sử dụng được chúng ngay lập tức.
o O o
Dấu hiệu đầu tiên cho thấy những gì mà thiết bị quang học của KH-11 có thể làm được gần 10 năm sau nhiệm vụ đầu tiên, là hình ảnh vệ tinh được đánh giá cao do tạp chí quân sự ra hàng tuần Jane’s Defense Weekly công bố, cho thấy các con tàu Liên Xô đang được đóng tại nhà máy đóng tàu Nikolaev trên Biển Đen. Những hình ảnh chụp từ độ cao hơn 200 dặm này bị rò rỉ cho tạp chí Jane’s bởi nhà phân tích tình báo hải quân Mỹ Samuel Morison, người phải trải qua 16 năm tù vì tội cung cấp hình ảnh mật cho phương tiện truyền thông. Jane’s không bao giờ kiểm tra xem việc công bố những hình ảnh đó sẽ gây ra những thiệt hại thế nào. Bằng cách đó, họ đã nói cho Liên Xô biết rằng KH-11 có khả năng cho độ phân giải hình ảnh từ 3,9-6 inch và dải nghiêng tuyệt vời.
Trong vài ngày sau, người Nga, trong khi đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng chiến tranh điện tử và các hoạt động chiến thuật, đã phóng một vài vệ tinh lên không gian, đưa chúng vào quỹ đạo cho phép các vệ tinh bay qua trên quần đảo Falkland với gián cách thời gian khoảng hai mươi phút. Một trong số đó là “Kosmos-1372”, có nhiệm vụ giám sát các đại dương, được trang bị radar có nguồn nuôi từ thiết bị phản ứng hạt nhân, những vệ tinh khác là “Kosmos-1370” – để trinh sát hình ảnh, “Molnia” – để đảm bảo thông tin liên lạc, và “Kosmos-1371” – làm nhiệm vụ SIGINT. Sau đó, từ trên trạm không gian “Saliut-7” đã phóng ra một vệ tinh thông tin liên lạc nhỏ.
Trong khi đó, lực lượng viễn chinh Anh bắt đầu chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của TQLC lên quần đảo Falklands. Người Anh tăng cường các cuộc không kích và bắn phá các tàu của hạm đội Argentina cùng các căn cứ bờ, họ tiến hành các hoạt động trước đổ bộ sau đây:
– Bí mật tiến hành trinh sát các đảo để chọn một phân đoạn bờ biển thích hợp;
– Dùng các đội người nhái-đánh bom đặc nhiệm quét sạch tất cả các chướng ngại vật tự nhiên và nhân tạo trên đáy biển tại địa điểm chọn đổ bộ;
– Thiết lập trên đảo Đông Falkland các cảm biến tự động đặc biệt để thu nhận dữ liệu về việc triển khai và di chuyển của quân đội Argentina trên đảo;
– Tiến hành các cuộc đột kích của quân commandos trên các hòn đảo khác nhau để phá hủy các công trình và kho tàng của kẻ thù (cuộc tấn công trên đảo Pebble đặc biệt thành công, người Anh đã phá hủy mười máy bay Argentina loại Pucara và một kho đạn dược lớn);
– Thực hiện các hoạt động biệt kích phá hoại trên các vùng bờ biển khác, cách xa địa điểm đổ bộ đã chọn, nhằm gây nhầm lẫn cho người Argentina về vị trí nơi đổ bộ.
Cũng trong khi đó, người Anh và Argentina tiếp tục tăng cường lực lượng của mình, chuẩn bị cho trận chiến quyết định. Anh quốc phái thêm sáu tàu chiến, hai mươi máy bay Harrier và chiếc tàu khách sang trọng “Nữ hoàng Elizabeth II” lượng rẽ nước 67.140 tấn, chở theo 3.000 binh sĩ trên tàu. Hiểu những thiếu sót của các hệ thống điện tử một số loại tàu của mình, theo kinh nghiệm với “Sheffield”, một số lượng lớn PRLO được gửi tới để các tàu sử dụng khi bị không kích. Chiến thuật sử dụng máy bay trực thăng rải PRLO cũng đã được nghiên cứu. Sau đó, PRLO thường được sử dụng để làm mù radar giám sát hoặc để đánh lệch hướng tên lửa của kẻ địch. Để bảo vệ tốt hơn trước các cuộc tấn công từ máy bay, người Anh phát triển một phương pháp phóng PRLO từ ống khói tàu cùng với khí thải. Tuy nhiên, việc sử dụng PRLO ở Nam Đại Tây Dương không phải lúc nào cũng có hiệu quả như mong muốn, vì chúng thường bị gió bão phân tán.
Lực lượng viễn chinh Argentina có khoảng 10 000 quân được trang bị ATGM Cobra 2000 do Đức chế tạo, điều khiển bằng dây dẫn, các thiết bị nhìn đêm, SAM Roland hiện đại do Pháp-Đức hợp tác chế tạo, máy bay cường kích FMA IA-58 Pucara và Aermacchi MB 326G và MB339.
Ngày 21 tháng 5, hai giờ trước khi mặt trời mọc, người Anh bắt đầu đổ bộ nhằm lấy lại quần đảo Falkland: tàu chiến của lực lượng viễn chinh tiến vào vùng biển San Carlos, bắt đầu bắn phá các khẩu đội pháo bảo vệ bờ biển gần cảng San Carlos. Việc pháo kích kèm theo cuộc đổ bộ 2.500 quân, chủ yếu là lính thủy quân lục chiến hoàng gia và lính nhảy dù, có nhiệm vụ đánh chiếm bàn đạp để đổ bộ các lực lượng chủ yếu vào vịnh San Carlos, vịnh này được bảo vệ khỏi các cơn bão ở Nam Đại Tây Dương. Người Argentina không ngờ cuộc đổ bộ xảy ra ở đây, nên không tỏ ra đề kháng nghiêm túc. Đòn đáp trả của họ, tuy nhiên lại đến từ trên không với các máy bay CF 326, Skyhawk và Mirage, thả bom và bắn tên lửa không ngừng nghỉ xuống các tàu của Anh ở trong vịnh, năm trong số đó đã bị đánh trúng. Một trong số trên là frigate đề án 21 “Ardent”, độ choán nước 3250 tấn bị hư hỏng rất nặng và một lần nữa, trong ngọn lửa bao trùm giết chết hai mươi hai người, làm bị thương ba mươi người, con tàu vẫn tiếp tục cháy trong tình trạng không kiểm soát được, cho đến khi nó bị chìm.
Ngày 22 tháng 5, bàn đạp của người Anh nhận được tiếp viện – hơn 2.500 binh sĩ; họ được trang bị các thiết bị nhìn đêm (bộ khuếch đại ánh sáng và kính hồng ngoại), xe tăng hạng nhẹ Scorpion, xe chiến đấu bộ binh cùng với SAM Rapier, MANPADS Blowpipe, pháo hạng nhẹ 105-mm, súng cối và nhiều radar phòng không.
Các ngày 23, 24 và 25 tháng 5, người Argentina, tiến hành một loạt các cuộc không kích xuống bàn đạp của quân Anh. Hết lớp này đến lớp khác, các máy bay Skyhawk và Aermacchi, với sự hỗ trợ của máy bay tiêm kích Mirage và Dagger, liên tục ném bom cả bàn đạp của quân viễn chinh lẫn các tàu trong vịnh. Ngày 23 tháng 5, tại một trong những cuộc tấn công, frigate đề án 21 “Antelope” của Anh đang thực hiện nhiệm vụ do thám gần Falkland Sound, đã bị trúng một trái bom 2270 kg vào đúng buồng máy, nhưng không phát nổ. Trái bom phá vỡ lập tức việc quét mìn, giết chết hai sĩ quan và làm hỏng nặng phần đuôi “Antelope”.
o O o
Mặc dù chịu tổn thất rất nặng nề, phi công của các máy bay Argentina, vẫn biểu thị lòng can đảm vô song và kỹ năng tuyệt vời của mình trong việc liên tục đột kích các tàu Anh các ngày từ 24-25 Tháng Năm. Lúc 18:30, ngày 25 tháng 5, một tốp máy bay Skyhawk ném bom và đánh chìm tàu khu trục đề án 42 “Coventry”. Một nhóm các máy bay khác, bao gồm cả Super Etendard trang bị tên lửa Exocet, hướng tới một mục tiêu lớn mà họ tưởng là tàu sân bay “Hermes”, song thực ra là tàu container “Atlantic Conveyor”. Con tàu chở theo các trực thăng Wessex và Chinook cùng các phụ tùng thay thế, đã bị trúng TLCH Exocet. Nó bị thương rất nặng, và chìm ngay sau khi thủy thủ đoàn rời tàu. Mất số hàng hóa chở theo “Atlantic Conveyor” là một đòn rất nghiêm trọng giáng vào quân đoàn viễn chinh Anh. Chiến thuật của cuộc tấn công này cũng gần giống như chiến thuật được sử dụng chống lại “Sheffield”. Khi phi công của các máy bay Super Etendard “nhảy” lên độ cao 150 mét để kiểm tra tình hình trong khu vực này, trên màn hình radar của họ, có một mục tiêu lớn bao quanh bởi một số mục tiêu nhỏ hơn, hộ tống cho nó. Sau khi nhận được tín hiệu cảnh báo, các tàu hộ tống phóng ra một số lượng lớn PRLO, gây nhiễu có hiệu quả và làm lệch hướng TLCH Exocet khỏi đường bay của nó. Tuy vậy, ngẫu nhiên mà một trong những quả đạn tên lửa đang đi lạc đã khóa được đúng mục tiêu và đánh trúng “Atlantic Conveyor”, vốn là một chiếc tàu buôn hoàn toàn không có thiết bị điện tử bảo vệ riêng.
Trong vài ngày sau, kết quả của những cuộc không kích của người Argentina cũng làm hư hỏng thêm: khu trục hạm “Antrim” – lớp “County”, độ choán nước 6200 tấn; khu trục hạm đề án 22 “Broadsword”, độ choán nước 4000 tấn; frigate “Argonaut” – lớp “Linder” độ choán nước 3200 tấn được trang bị tên lửa chống hạm Exocet, cùng một số tàu đổ bộ và tàu hỗ trợ. Trong những cuộc tấn công đường không trên, lần đầu tiên SAM Sea Wolf phiên bản hải quân, trang bị trên “Broadsword” đã được sử dụng. Nó bắn trúng và tiêu diệt một máy bay Skyhawk Argentina. Một tàu khác của lực lượng viễn chinh – “Brilliant”, cũng được trang bị SAM – Sea Wolf, nhưng không loại nào trong số các tên lửa SAM giáp trận với TLCH Exocet trong suốt cuộc chiến tranh Falklands.
Chiến thuật áp dụng của các phi công Argentina tuy đơn giản, mà tinh vi. Họ đột kích lúc hoàng hôn, theo các tốp từ 4-10 máy bay các loại khác nhau. Tất cả hướng đến một mục tiêu nhằm dùng các vết mục tiêu làm “bão hòa” radar trên tàu và các phương tiện phòng không khác. Họ bay hầu như sát mực nước biển và tiến tới điểm cận bắc quần đảo, sử dụng hòn đảo và những ngọn đồi trên đảo làm vật cản tránh radar của các tàu chiến Anh. Sau đó họ đột nhiên vòng lại rồi đồng thời xuất hiện từ sau dãy núi ven biển của hòn đảo cực Bắc, tấn công tàu-mục tiêu đã chọn từ mọi hướng. Các trắc thủ radar Anh không thể đồng thời bám sát tất cả máy bay đối phương và một hoặc hai chiếc trong số đó gần như lúc nào cũng vượt qua sự đeo bám một cách thành công, ném được bom và phóng tên lửa của họ. Sau khi người Argentina áp dụng chiến thuật “bão hòa”, thiết bị ESM trên tàu cũng vô hiệu lực vì người Argentina bay với radar không mở và trong thinh không không có bức xạ điện từ để có thể bị phát hiện.
Trong khi đó, lực lượng quân đội Anh đổ bộ vào cảng San Carlos, đến lúc này đã chuẩn bị xong về hậu cần, bắt đầu chia hai ngả tiến về cảng Stanley. Một nhóm tiến đến Douglas và Tea Inlet trên địa hình rất khó khăn, trong khi nhóm kia tiến quân về Darwin và Goose Green, nằm ở phần phía nam hòn đảo.
Ngày 27 tháng 5, bắt đầu một trận chiến lớn giành quyền kiểm soát sân bay Goose Green. Quân đội Argentina được máy bay Pucara yểm trợ, còn người Anh – máy bay Harrier. Cuộc chiến kéo dài khoảng mười bốn giờ, hầu hết trong điều kiện ban đêm, đó là một lợi thế cho các lực lượng Anh được trang bị các bộ khuếch đại ánh sáng và kính hồng ngoại, do đó họ có thể sử dụng các chiến thuật chiến đấu ban đêm của NATO.
Người Argentina tỏ rõ sức kháng cự mạnh mẽ, nhưng không thể giữ nổi hai điểm dân cư quan trọng – Darwin và Goose Green, chúng đều rơi vào tay người Anh. Chẳng bao lâu người ta biết rằng, binh sĩ Anh – đều là quân tình nguyện, hơn hẳn quân Argentina, phần lớn là những người lính nghĩa vụ còn rất trẻ, thiếu nhiều kinh nghiệm. Ngoài ra, khí hậu lạnh của quần đảo Falkland có lợi cho Thủy quân lục chiến và lính dù Anh, họ đã thích nghi với cái lạnh trong các cuộc tập trận của NATO ở vùng Bắc cực, Bắc Âu.
Cả hai bên đều tổn thất nặng trong trận Goose Green. Theo báo cáo của người Anh, Argentina mất 250 người và 1.400 người khác bị bắt làm tù binh. Người Anh mất 17 người và 13 người bị thương. Việc chiếm được Goose Green cho người Anh một căn cứ để từ đó họ có thể tấn công vào Port Stanley.
Ngày 30 tháng 5, người Argentina đã thực hiện một cuộc tấn công khốc liệt nữa vào lực lượng viễn chinh Anh, thời gian đó đang tăng cường ném bom và pháo kích các căn cứ của họ tại cảng Stanley. Lực lượng viễn chinh Anh ở cách 152 km về phía đông bắc quần đảo Falkland, từ nơi đó, các máy bay Sea Harrier, cất cánh từ tàu sân bay “Hermes” và “Invincible”, bay vào tấn công cảng Stanley. Trong cuộc tấn công này của người người Argentina, tham gia có hai Super Etendard, một trong số đó mang quả đạn Exocet cuối cùng còn lại của Argentina, bốn A-4 Skyhawk cùng sáu Mirage và Dagger (phiên bản Israel của loại máy Mirage của Pháp), có nhiệm vụ đánh lạc hướng và “chiếm vị” radar trên tàu chiến Anh. Trước khi các máy bay Super Etendard tiến vào công kích, các máy bay Skyhawk và Dagger, tiếp cận từ phía đông, vượt qua phương tiện PK mặt đất của người Anh một cách thành công, thu hút về mình sự chú ý của các radar Anh và thu hút máy bay đánh chặn xuất kích từ tàu sân bay “Invincible”. Trong khi đó, máy bay Super Etendard tiến vào phóng quả đạn tên lửa chống hạm Exocet cuối cùng, mà theo các nguồn tin Argentina, đã đánh trúng tàu sân bay “Invincible”. Trong cuộc tấn công này, hai máy bay Argentina Skyhawk bị bắn rơi, và người Anh đã nhiều lần phủ nhận bất kỳ thiệt hại nào của “Invincible”.
Trong các cuộc không kích, người Argentina mất khoảng một phần ba số máy bay của mình. Không nghi ngờ gì nữa, việc thiếu khí tài EW trên hầu hết các máy bay của họ, đóng góp phần lớn vào những thương vong nặng nề đó. Các máy bay duy nhất có thiết bị như vậy là Super Etendard và Dagger, trang bị RWR, tương ứng do người Pháp và Israel cung cấp.
Tổn thất của người Anh, xét từ một mặt khác, có nguyên nhân ở việc họ lựa chọn cảng San Carlos làm nơi đổ bộ. Hiệu quả của radar phòng không của người Anh giảm đáng kể do nhiễu địa vật từ các ngọn đồi xung quanh. Cũng xứng đáng để chỉ ra rằng, tổn thất của người Anh sẽ còn cao hơn nhiều nếu tất cả các quả bom ném trúng tàu đều phát nổ. Việc nhiều trái bom không nổ có thể do thực tế là các phi công Argentina đã buộc phải bay quá thấp nên bom không có đủ thời gian để tự động mở ngòi.
Quân đội Anh tiếp tục cuộc tấn công của họ vào Port Stanley, sử dụng chiến thuật “nhảy cóc”, điểm cốt yếu nằm trong các cuộc triển khai đêm trên các cự ly nhỏ. Các cuộc triển khai được dọn trước bằng các cuộc bắn phá tuyến phòng thủ Argentina từ trên không và từ ngoài biển bằng pháo binh và súng cối, có hiệu chỉnh hỏa lực nhờ hệ thống dẫn đường hồng ngoại và quang-điện tử.
Hỏa lực được hướng dẫn và điều phối bởi ba hệ thống tương tác điện tử. Đầu tiên, là hệ thống có tên gọi FACE (Field Artillery Computing Equipment) là một máy tính-mini, tính toán dữ liệu để thực hiện xạ kích; hệ thứ hai – ALICE, tự động chuyển các dữ liệu tính toán trên tới các khẩu đội pháo binh dã chiến; và hệ thứ ba – AWDATS (Automatic Weapons Data Transmission System), đảm bảo đồng thời việc xạ kích cho hai mươi bốn khẩu đội pháo, bố trí tại các trận địa khác nhau.
Kết quả làm việc của các hệ thống điện tử trên là hỏa lực súng cối và pháo binh của người Anh cực kỳ chính xác, người Argentina bị tổn thất nặng, còn radar của họ và các hệ thống thông tin liên lạc khác thường xuyên bị đánh hỏng. Ngoài ra, người Anh có cơ quan thông tin vượt trội hẳn, dựa trên việc đánh chặn các tin điện chiến thuật của các phương tiện thông tin liên lạc và dựa trên tin tình báo của các toán trinh sát đặc biệt. Như vậy, bộ chỉ huy Anh luôn luôn biết kẻ thù ở nơi nào và đang làm gì. Tại một trong các trường hợp như vậy, ngay sau một vụ ném bom, họ chặn thu được một bức điện trong đó Chuẩn tướng Mario Benjamin Mendez bày tỏ nỗi lo sợ rằng, nếu mọi thứ vẫn diễn ra như thế này, tình hình quân Argentina có thể xấu đi nhanh chóng; chính vì thế, người Anh có ưu thế trong việc biết tình thế người Argentina khó khăn ra sao.
Ngày 06 và 07 Tháng 6, cùng với việc khởi đầu cuộc tấn công quyết định vào Port Stanley, đã ở khá gần, rất nhiều nhóm commandos được đào tạo chu đáo được ném sâu vào trong tuyến phòng thủ của người Argentina để phá hủy các công trình thông tin liên lạc và các trạm radar, qua đó làm tê liệt hệ thống thông tin liên lạc của đối phương. Và một lần nữa, trong lĩnh vực thông tin liên lạc, người Anh lại phát thông tin giả cho đối thủ thông qua việc sử dụng các phương tiện đối kháng, tuyên truyền và xâm nhập, được sự hỗ trợ rất nhiều của người dân Falklands.
Ngoài việc người Anh đọc được điện tín của người Argentina, người Argentina cũng không may mắn trong việc họ nhận được thông tin từ người Nga, thông tin của họ thường không chính xác hoặc đã lỗi thời. Mặt khác, người Argentina luôn luôn có thể nhận được thông tin chính xác liên quan đến hành động của người Anh qua việc đánh chặn thông tin vô tuyến của người Anh bằng cách chặn thu các điện tín trao đổi giữa các máy bay, tàu chiến và lực lượng mặt đất.
o O o
Ngày 08 tháng 6, Không quân Argentina tiến hành thêm một loạt trận tấn công dữ dội vào quân đội Anh và tàu chiến Anh tại cảng Stanley, buộc người Anh chậm giải phóng thủ phủ quần đảo. Trong những cuộc tấn công này, hai tàu đổ bộ – “Sir Tristan” và “Sir Galahed” đã bị máy bay Argentina đánh hư hại nặng, trong số các binh sĩ đang cố gắng đổ bộ có vô số người chết. Người Argentina được trợ giúp rất nhiều bởi đài radar di động AN/TPS-43 của công ty Westinghouse, được triển khai ở vị trí gọi là “Sapper Hill”. Đây là loại radar 3 tọa độ cỡ lớn do Mỹ sản xuất, nó là một phần của Trung tâm Chỉ huy-Thông tin-Kiểm soát (CIC), do Không lực Argentina xây dựng tại quần đảo Falkland để phối hợp các lực lượng trong hệ thống phòng không. Người Anh đã thực hiện nhiều cuộc tấn công vào trạm radar này, một lần thậm chí đã sử dụng tên lửa chống radar AGM-45 Shrike, phóng từ một máy bay ném bom tầm xa Vulcan. Tuy nhiên, tất cả các cuộc tấn công đều không thành công và radar vẫn hoạt động hiệu quả cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Ngày 11 tháng 6, trong một cuộc không kích của Argentina vào eo biển Falkland, frigate “Plymouth” độ choán nước 2.800 tấn và tàu xung kích “Fiarless” bị hư hại nặng.
Trong khi đó, quân đội Anh tiến ngày càng gần hơn đến Port Stanley, và đêm 11 tháng 6, với sự trợ giúp của trực thăng Lynx, trang bị rốc-két, họ đột ngột tấn công tuyến phòng thủ của đối phương. Binh sĩ Argentina khi đó còn ngủ, nhưng dù sao vẫn kịp tỏ rõ sự kháng cự mãnh liệt, mà một vài giờ sau biến thành một cuộc chiến giáp lá cà. Nhưng cuối cùng, họ đã buộc phải rút lui, bỏ lại đồi Two Sisters cho người Anh.
o O o
Theo một phiên bản sự kiện khác, tàu khu trục Glamorgan tránh được đạn Exocet trúng giữa thân là do sĩ quan trên cầu điều hướng hành trình phát hiện được tên lửa đang bay đến bằng mắt thường và kịp lệnh cho tàu cơ động quay dọc để giảm diện bộc lộ rộng. Các khí tài Type 992Q Target Indicator radar và 965M surveillance radar đều không phát hiện được tên lửa đang bay tới. Tên lửa không phát nổ ngay khi chạm mục tiêu cũng là điều may mắn cho HMS Glamorgan.
Trong thời gian đó, tàu chiến của lực lượng viễn chinh tiếp tục bắn phá các công trình phòng thủ và cảng Stanley. Ngày 11 tháng 6, trong một cuộc bắn phá như vậy, khu trục hạm tên lửa cỡ lớn “Glamorgan”, độ choán nước 6200 tấn, bị trúng TLCH AM-38 Exocet, phóng từ một đại đội bảo vệ bờ biển, tàu bị trúng đạn vào phần đuôi, lỗ thủng ở vị trí 2 mét trên đường mớn nước, và mặc dù tên lửa không phát nổ, mười thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng cùng mười bảy người bị thương. “Glamorgan” bị radar AN/TPS-43F phát hiện và khi tính đến độ chính xác của hệ thống và độ chính xác của bản thân TLCH Exocet, điều tỏ ra kỳ lạ là con tàu chỉ bị bắn trúng phía đuôi mà không phải ở giữa thân tàu, như trường hợp của HMS “Sheffield”, hơn nữa, vào thời điểm đó tàu đang tiếp cận bờ. Nhiều nguồn tin không chính thức của phía Anh ghi sự kiện này xảy ra do việc sử dụng tổng hợp các phương tiện ECW chủ động (có thể là do máy phát nhiễu đánh lạc hướng Bexley) và PRLO.
Tới lúc này, người Anh đã chiếm đóng tất cả các ngọn đồi xung quanh Port Stanley,và các ngày 12 và 13, tiếp tục các cuộc bắn phá liên tục, chính xác và chọn lọc vào doanh trại đồn trú quân Argentina, đã rút lui vào khu vực công trường xây dựng cảng Stanley. Ở giai đoạn kết thúc cuối cùng này của trận chiến, các phương tiện chiếu xạ laser đã được áp dụng để hỗ trợ máy bay chiến đấu trong các khu vực đô thị. Cụ thể, máy bay phản lực Harrier đã ném bom LGB vào các mục tiêu được chiếu xạ bằng chùm tia laser, sử dụng chiến thuật tương tự mà người Mỹ đã dùng tại Việt Nam.
Đòn tấn công đầu tiên là vào khu vực giữa trang trại Two Sisters và ngọn đồi Tumbledown. Máy bay Harrier GR.3 thực hiện hai vụ tấn công riêng biệt sử dụng LGB Paveway (chế tạo bởi Texas Instruments trong chiến tranh Việt Nam. Nó thuộc dòng bom LGB “thông minh” và đa dạng, tất cả đều trang bị khối dẫn đường gắn ở phần mũi bom) từ cự ly 6-7 km. Trong cả hai trường hợp, bom đều trượt mục tiêu, vì chùm laser được bật sớm. Cả hai lần, máy bay Harrier, mỗi lần mang hai quả bom đều bay đến từ phía Tây Nam ở độ cao 150 mét, ẩn đằng sau dãy núi Harriet. Sau đó, phi công, được hướng dẫn bởi một điểm tham chiếu được xác định trước trên mặt đất, giảm độ cao ném bom xuống một điểm được lập trình trước, đồng thời thông báo cho người dẫn đường yểm trợ đường không tiền duyên về thời điểm thả bom. Tiếp theo phi công cơ động thoát ly ngay, thậm chí không nhìn mục tiêu. Quân nhân hướng dẫn không yểm tiền duyên, từ vị trí thuận tiện của mình, cho phép anh ta quan sát mục tiêu mà không bị đối phương phát hiện, ngay sau khi nhận tin đã hướng chùm tia laser rọi vào mục tiêu được lựa chọn. Chiến thuật này cũng được sử dụng đối với các phi vụ ném bom sân bay ở Port Stanley, nhưng kết quả rất đáng thất vọng.
Trong trận tấn công trạm radar AN/TPS-43 nói trên của không quân Argentina, vũ khí đặc biệt cũng đã được áp dụng. Lúc bắt đầu chiến tranh, hai máy bay ném bom tầm xa B2 Vulcan, trang bị bốn tên lửa chống bức xạ AGM-45 Shrike, đi làm nhiệm vụ chế áp radar. Chúng xuất phát hoạt động từ sân bay Wideawake trên đảo Asuncion – căn cứ không quân Anh gần quần đảo Falkland nhất. Chuyến bay đến quần đảo Falkland là một kế hoạch phức hợp được lập từ trước và có vài lần tiếp nhiên liệu từ máy bay tiếp dầu Victor. Các chuyến bay của Vulcan tới quần đảo Falkland là các chuyến bay chiến đấu dài nhất từng thực hiện. Một trong các Vulcan, số sê-ri XM 597, lần đầu tiên được sử dụng để thực hiện nhiệm vụ này vào đêm ngày 28 tháng 5. Tuy nhiên, nhiệm vụ không hoàn thành do phát sinh khó khăn trong tiếp nhiên liệu từ một trong những máy bay tiếp dầu Victor. Hai ngày sau, nhiệm vụ được lặp lại, cuộc tấn công của Vulcan được phối hợp cùng với đòn không kích của các máy bay Harrier thuộc lực lượng viễn chinh, nhưng kết quả là đáng nghi ngờ. Kết quả của trận tấn công cuối cùng ngày 02 tháng 6 là không thuyết phục; chính chiếc Vulcan, số sê-ri XM 597, ở trong khu vực mục tiêu gần một giờ đồng hồ, cố gắng kích động bức xạ radar của đối phương, nhưng người Argentina tắt radar bất cứ khi nào máy bay tiếp cận để tấn công, vì thế tên lửa Shrike không thể khóa được bức xạ, mà nó cần để dẫn đường tới radar.
o O o
Tuy nhiên, tới thời gian này người Anh đã giữ chặt trong tay mình doanh trại đồn trú Argentina, và sau cuộc tấn công bất ngờ vào ngày 12 tháng 6, người Argentina chẳng thể làm gì tốt hơn việc đề nghị ký hiệp ước đình chiến để kết thúc chiến tranh.
Vào cuối chiến tranh, hai bên đã công bố báo cáo về thiệt hại mình chịu và tổn thất mình gây ra cho đối phương, nhưng những dữ liệu này không phù hợp với nhau. Người Anh khẳng định họ chỉ mất một Harrier và không hề mất Sea Harrier nào (người Anh cũng tuyên bố, họ chỉ mất 12 máy bay, trong đó 8 chiếc là Harrier và Sea Harrier). Đây là loại máy bay đã tham gia nhiều trận không chiến tại Falklands và thực tế nó tránh được bị tên lửa bắn trúng, có lẽ chính vì ưu thế của thiết bị EW của người Anh. Tất cả các máy bay Anh quốc đều trang bị RWR, máy phóng nhiễu PRLO và bẫy hồng ngoại. Phi công máy bay Harrier cho rằng họ thường tránh được SAM Roland Argentina, khi cơ động gấp tránh đạn PK ngay sau khi RWR của anh ta cảnh báo tên lửa đang đến gần. Mặc dù các máy bay Sea Harriercó thể mang theo ECW pod, máy bay Anh trang bị đầy đủ nhất các phương tiện ECW, tuy nhiên, lại chính là máy bay ném bom Vulcan. Trước khi được phái tới quần đảo Falkland, loại máy bay này được trang bị máy phát nhiễu của Mỹ AN/ALQ-101, được gỡ xuống từ máy bay BAE Bucsaneer. Đây – chắc chắn là một trong những lý do vì sao không chiếc Vulcan nào bị mất (ALQ-101 – thiết bị đầu đàn của họ các máy phát nhiễu đặt trong thùng chứa. Chúng được lắp trên các máy bay-cường kích sử dụng tại Việt Nam. Nó đã được hiện đại hóa nhiều lần, rồi tiến đến sản xuất phiên bản mới – ALQ-119, đã được bán cho nhiều quốc gia. Trong cuộc xung đột Falkland, để vô hiệu radar dẫn bắn của Argentina nó được gắn trên máy bay ném bom Vulcan).
Máy bay đa năng Harrier của Hải quân Hoàng gia được trang bị để treo các tên lửa Mỹ, loại không-đối-không AIM-9L Sidewinder, còn máy bay tấn công chiến thuật Harrier của RAF đã nhanh chóng được hiện đại hóa để mang AIM-9L Sidewinder trước khi được lực lượng viễn chinh gửi đến quần đảo Falkland. AIM-9L thuộc thế hệ thứ ba của một họ tên lửa nổi tiếng có đầu tự dẫn hồng ngoại, nằm trong trang bị của Không lực nhiều quốc gia NATO và phương Tây. Có được cơ hội “tấn công toàn góc” (ALASCA), từ đó trở đi, nó thay đổi hoàn toàn trận không chiến. Không giống như các thế hệ trước của tên lửa có đầu tự dẫn hồng ngoại, nó cũng có thể được sử dụng để tấn công trong bán cầu trước. Trong cuộc xung đột Falklands, trong số hai mươi bảy quả đạn AIM-9L được phóng đi, hai mươi bốn đạn bắn trúng các máy bay Argentina – một kết quả tự nói lên tất cả.
o O o
Khi đánh giá cuộc chiến tranh Falklands, trên quan điểm của EW, trong các trận chiến mặt đất có áp dụng nhiều đổi mới: sử dụng rộng rãi hệ thống nhìn ban đêm và chiến thuật chiến đấu ban đêm mới. Tuy nhiên, trong không trung và trên biển không thực sự có điều gì mới. Việc sử dụng radar của người Argentina trong không chiến khá hạn chế và điều này, cùng với việc quân đội Anh được trang bị để tiến hành các hoạt động tác chiến điện tử trong các chiến dịch, khác với những gì họ đã từng phải làm, có nghĩa là khả năng thực sự của hệ thống EW của họ không thể sử dụng được hết công suất. Yếu tố chính – huấn luyện: người Anh đã bắt giữ một số lượng đáng kể vũ khí Argentina để tiến hành đánh đêm và các thiết bị điện tử tinh vi, chẳng hạn như các cặp kính hồng ngoại. Và, có lẽ, nếu trong chuyện đó người Argentina cũng trội hơn người Anh, vậy thì những người lính Argentina đã được trang bị tốt hơn, nhưng được đào tạo tồi tệ hơn và có ít động lực hơn các lính chuyên nghiệp Anh. Cũng phải nói rằng một số tàu Hải quân Hoàng gia đã không được trang bị để đối phó với các mối đe dọa mới, chẳng hạn như các TLCH của phương Tây trong điều kiện thinh không bão hòa. Người Argentina trong các cuộc không kích rất ít sử dụng hệ thống EW. Xét trên mặt khác, họ nổi bật bởi cách sử dụng rất mạnh mẽ vào mục đích quân sự các phương tiện tác chiến điện tử thụ động để tiến hành nhiệm vụ ELINT và ESM, sau khi đã nhanh chóng chuyển đổi trang bị máy bay chở khách dân dụng cỡ lớn kiểu Boeing 707.
Chiến Tranh Vô Tuyến Điện Tử (Từ Eo Đối Mã Đến Liban Và Quần Đảo Falkland) Chiến Tranh Vô Tuyến Điện Tử (Từ Eo Đối Mã Đến Liban Và Quần Đảo Falkland) - Mario De Arcangelis Chiến Tranh Vô Tuyến Điện Tử (Từ Eo Đối Mã Đến Liban Và Quần Đảo Falkland)