Remember that great love and great achievements involve great risk.

Anonymous

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Electronic Warfare - From The Battle Of Tsushima To The Falklands And Lebanon
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1605 / 46
Cập nhật: 2016-06-18 07:56:43 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5: Sự Ra Đời Của Đối Kháng Điện Tử
ới mùa hè năm 1940, Đức đã chiếm gần trọn lục địa châu Âu và bây giờ có thể dốc toàn lực chinh phục Vương quốc Anh, kẻ thù lâu năm của mình! Hitler tin rằng, cách duy nhất để đánh bại người Anh, là xâm lược các hòn đảo của nó. Đó chính là mục tiêu nhắm tới của kế hoạch chiến dịch có tên mã “Sư tử biển” ( “Sea Lion”) – dưới hình thức một cuộc đổ bộ, cần phải xảy ra ở đâu đó vào giữa tháng Chín cùng năm.
Bước đầu tiên cần làm là vô hiệu hóa Không quân Hoàng gia Anh. Sau đó, không quân Đức sẽ làm tê liệt hạm đội Anh, đồng thời quân đội Đức sẽ vượt qua eo biển La Manche. Thuộc quyền thống chế Goering, Tổng tư lệnh Không quân Đức, có khoảng 2.600 máy bay. Trong thành phần hạm đội hàng không này có các máy bay ném bom: Heinkel He111, Junkers Ju87 và Ju88 và các máy bay tiêm kích: chủ yếu là Messerschmitt Bf109 và Bf110. Ngày mở đầu cuộc tấn công đường không – “Adlertag” nổi tiếng (“Day of the Eagle”, “Ngày Đại Bàng”) được ấn định là 10 tháng 8 năm 1940.
o O o
Mệnh lệnh của Goering rất đơn giản: đầu tiên, họ phải tấn công tất cả các sân bay căn cứ của lực lượng tiêm kích Không quân Hoàng gia, đặc biệt các máy bay Spitfire và Hurricane, vô hiệu hóa các máy bay tiêm kích và sân bay của chúng, việc thứ hai, làm tê liệt công nghiệp chế tạo máy bay, tấn công và phá hủy tất cả các nhà máy sản xuất máy bay.
Trong thực tế, các cuộc không kích của quân Đức bắt đầu vào ngày 12 tháng Tám. Theo kế hoạch, chúng được thực hiện vào ban ngày theo các nhóm vài trăm máy bay. Tuy nhiên, ngày qua ngày, giờ này qua giờ khác, máy bay tiêm kích Anh luôn chiếm vị trí thuận lợi một cách có hệ thống. Cất cánh từ các sân bay của mình, họ đã kịp chiếm vị trí trên eo biển La Manche vào thời điểm kẻ thù tới gần, trước sự ngạc nhiên lớn của các nạn nhân của họ. Thông thường, các phi công máy bay ném bom Đức không mong đợi gặp đối phương quá sớm. “Làm thế nào mà họ làm được điều đó?” Họ tự hỏi mình. Tuy nhiên, Bộ Chỉ huy Không quân Đức đã được thông báo rất rõ về sự tồn tại của một ăng-ten lạ và rất cao trải dài dọc theo bờ biển phía nam nước Anh, và cuối cùng, đã hiểu làm thế nào người Anh nhanh chóng phát hiện ra sự tiếp cận của các nhóm máy bay của kẻ xâm lược.
Năm 1939, tình báo Đức báo cáo với Bộ Chỉ huy Tối cao của mình về ăng ten chiều cao 100 mét kéo dài dọc theo bờ biển nước Anh, từ Southampton đến Newcastle. Ban đầu, mục đích thực sự của chiếc ăng-ten này nằm ra ngoài sự hiểu biết của người Đức, vì các điệp viên ở nước Anh báo cáo về các đài phát hoạt động ở bước sóng rất ngắn – 1,5-2 m. Trong thực tế, việc sử dụng bức xạ ở những bước sóng này chỉ là vỏ bọc cho bước sóng 40 mét, được người Anh sử dụng trong hệ thống điện tử cảnh báo tầm xa mới nhất Chain Home ( chuỗi các radar dẫn đường).
Việc giải trình của các cơ quan bí mật nước Đức không loại bỏ được nghi ngờ của bộ tư lệnh, đặc biệt là Hitler, người cũng muốn biết người Anh đang ở tình trạng nào trong việc chuẩn bị cho chiến tranh của họ, đặc biệt trong lĩnh vực radar. Vì vậy, ngày 02 tháng 8 năm 1939, ngay trước khi bùng nổ Thế chiến 2, một trong những khí cầu Đức cuối cùng Graf Zeppelin ( “Bá tước Zeppelin”), đã bay lên từ một sân bay ở miền bắc nước Đức, hướng về bờ biển nước Anh: mục tiêu của nó là đánh chặn và ghi lại các bức xạ của những chiếc ăng-ten lạ ấy, nhằm phân tích đặc tính của chúng, điều có thể giúp làm rõ liệu người Anh có những radar tốt hơn so với các radar đang làm việc ở Đức hay không.
Trên khí cầu có lắp một số máy thu cực kỳ nhạy và các dụng cụ đo vô tuyến điện tử đặc biệt khác. Trên khí cầu còn có một vài chuyên gia, cũng như trưởng phòng Signal Corps của Không quân Đức, tướng Wolfgang Martini.
Khí cầu bay hướng dọc theo ăng-ten, còn các chuyên gia bằng nhiều cách khác nhau cố gắng điều chỉnh theo tần số của người Anh, nhưng không có tín hiệu đáng ngờ nào được phát hiện. Lý do thất bại của chuyến bay này cho đến nay chưa được biết đến. Một giả thuyết giải thích cho điều này là người Anh đã được cảnh báo trước về chuyến bay sắp xảy ra, họ phát hiện ra khí cầu nhờ radar khá lâu trước khi nó bay gần đến bờ biển và ngay lập tức tắt tất cả các radar. Giả thuyết khác lập luận rằng các máy thu trên khí cầu không bao gồm các dải tần số của người Anh, đặc biệt là phạm vi bước sóng ngắn, và do đó không thể phát hiện bức xạ này. Các giả thiết khác cho rằng máy thu trên khí cầu ngay sau khi bay lên đã hỏng, và các trắc thủ sợ phải báo cáo với bộ tư lệnh của mình!
Dù lý do ra sao, sự thật vẫn là sau chuyến bay người Đức bắt đầu đánh giá thấp sự nguy hiểm: thống chế Goering đã bị thuyết phục rằng họ không nên quá lo lắng về chuỗi radar của Anh, bên cạnh đó, không cần dành quá nhiều tiền bạc và thời gian cho các nghiên cứu điện tử để phát triển một thiết bị radar mới. Như Goering tính, chiến tranh sẽ kết thúc bằng chiến thắng của Đế chế thứ 3 một cách rất nhanh chóng nhờ vào sức mạnh đặc biệt của Luftwaffe và Wehrmacht.
Vì vậy, nhiều chuyên gia và kỹ sư về thiết bị điện tử đã được chuyển từ các phòng thí nghiệm về radar sang các lĩnh vực khác, trong khi ở Anh, ít nhất 3.000 chuyên gia có tay nghề cao đã tham gia vào nghiên cứu tất cả các khía cạnh của radar, và nguồn tài chính được phân bổ cao hơn đáng kể so với nguồn lực được Third Reich phân bổ.
Chuyến bay của khí cầu Graf Zeppelin đáng chú ý chủ yếu là bởi vì nó là nhiệm vụ RTR đầu tiên ( ELINT), mà bây giờ đã trở thành phổ biến đối với tất cả các lực lượng vũ trang.
Sau một vài ngày bắt đầu Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Không quân Đức đã đi từ thành công này đến thành công khác trên các bầu trời Ba Lan, Na Uy và Pháp, nơi không có bất kỳ dấu vết nào của các thiết bị có khả năng phát hiện máy bay địch từ xa.
o O o
Tuy nhiên, khi Trận chiến nước Anh bắt đầu, một bức tường điện tử vô hình được dựng lên dọc theo toàn bộ bờ biển nước Anh, bắt đầu làm Goering phát cáu. Rõ ràng là nó làm dễ dàng hơn cho nhiệm vụ của Không quân Hoàng gia đánh trả các cuộc tấn công không quân của Đức, vì vậy hai hoặc ba ngày sau khi bắt đầu các cuộc tấn công, Goering ra mệnh lệnh tấn công và phá hủy mạng lưới radar. Tần số mà Chain Home làm việc, tới thời điểm đó đã được xác định một cách chính xác và khi lắng nghe sóng radio của kẻ thù, người Đức nhận ra rằng các tiêm kích Không quân Hoàng gia được dẫn đường qua các trắc thủ của các trung tâm điều khiển trên mặt đất với việc sử dụng một hệ thống phát hiện mới, những cặp mắt của nó, quả thật chính là những anten kỳ lạ trải dài dọc theo toàn bộ bờ biển.
Cuộc tấn công đầu tiên được thực hiện nhằm vào 5 radar ven biển. Các máy bay tiêm kích-ném bom Đức, mỗi chiếc mang hai quả bom lớn 500 kg trên giá treo ngoài, thực hiện một cuộc tấn công chớp nhoáng xuống các ăng-ten và tất cả 5 trạm hoặc bị đánh trúng hoặc bị hư hỏng nghiêm trọng. Mặc dù thực tế chỉ có một ăng-ten hư hại, tất cả năm trạm lập tức im lặng.
Nhưng ba giờ sau cuộc tấn công radar của Anh một lần nữa lại làm việc! Trong thực tế,đó là một thủ thuật được người Anh phát minh để làm cho người Đức nghĩ rằng Chain Home không bị hư hỏng nặng, họ cài đặt một số máy phát thông thường để tạo ra ấn tượng rằng các thiết bị hư hỏng đều đang chạy. Trong thực tế, các thiết bị mới không thể nhận được tín hiệu hồi đáp, vì nó chỉ là các máy phát và do đó không thể nhìn thấy bất kỳ mục tiêu nào. Người Đức, tuy nhiên lại cho rằng các hư hại đã được khắc phục, họ đi đến kết luận rằng thật vô ích khi đánh vào ăng-ten vì chúng chỉ có thể “im lặng” không quá một vài giờ. Vậy là chiến thuật của người Anh đã thành công, bởi quân Đức dưới ảo tưởng về sự không thể hư hại của Chain Home, từ thời điểm này bắt đầu tránh các cuộc tấn công vào nó trong suốt trận chiến nước Anh.
Trong cả tháng Tám năm 1940, hạm đội hàng không gồm hàng trăm máy bay ném bom của Đức và máy bay tiêm kích đã vượt qua eo biển La Manche để giáng những đòn tấn công xuống các sân bay và nhà chứa máy bay của Không quân Hoàng gia. Tuy nhiên, các máy bay tiêm kích Anh, chỉ có khoảng 700 chiếc Spitfire và Hurricane, luôn luôn thành công trong việc chiếm vị trí thuận lợi nhất để đánh chặn các máy bay địch, đặc biệt là máy bay ném bom. Ngày 26 tháng 8, chỉ sau hai tuần chiến đấu, Không quân Đức mất khoảng 600 máy bay, trong khi Không quân Hoàng gia – chỉ mất 260. Tuy nhiên Bộ Tư lệnh KQ Tiêm kích Anh cũng gặp khó khăn lớn, vì họ không có đủ phi công dự phòng.
Vào lúc này, Hitler can thiệp và ra lệnh ngưng các vụ ném bom sân bay đối phương và thay vào đó bắt đầu các vụ ném bom có hệ thống xuống London. Sự thay đổi mục đích trên, một mặt cho các phi đội máy bay tiêm kích tơi tả của Anh thời gian nghỉ ngơi đang mong đợi, nhưng mặt khác, nó không mang lại bất kỳ tác dụng hiệu quả thật sự nào. Tuy nhiên, người ta nhanh chóng thấy rõ rằng các máy bay ném bom Đức He111 và Ju88 có trang bị vũ khí quá nhẹ để có thể bảo vệ mình, do đó rất dễ bị tổn thương trước các tiêm kích Spitfire và Hurricane trong các cuộc tấn công ban ngày. Ngoài ra, ngay cả những máy bay tiêm kích chiến đấu tiên tiến nhất của Không quân Đức – Bf100, cũng không có đủ độ dài chuyến bay để hộ tống các máy bay ném bom chậm chạp và hoạt động như một máy bay tiêm kích – thợ săn.
o O o
Sau khi thất bại trong các cuộc tấn công ban ngày trước các máy bay tiêm kích hàng đầu của RAF ở khắp mọi nơi, người Đức quyết định thay đổi chiến thuật và bắt đầu ném bom ban đêm. Rõ ràng là để hoàn thành nhiệm vụ này, đòi hỏi bên tấn công phải có hệ thống dẫn đường thích hợp và ném bom mù, trong khi đó bên phòng vệ phải giải quyết vấn đề làm thế nào để đánh trả động thái này của kẻ thù và bảo vệ đất nước khỏi các cuộc tấn công.
Đây là khởi đầu của một giai đoạn mới của Air Battle of Britain hoặc một loại chiến tranh hoàn toàn mới, mà Thủ tướng Anh Winston Churchill gọi là “Chiến tranh của các thầy phù thủy”. Đặc biệt, ông lưu ý đến phương tiện người Anh sử dụng để vô hiệu hóa các phương tiện dẫn đường vô tuyến của các máy bay Đức. Churchill đã viết:
“Đó là một cuộc chiến tranh bí mật, các trận đánh của nó, dù thắng hay thua, vẫn còn là chưa biết với công chúng, và ngay cả bây giờ nó cũng vẫn khó hiểu với những người không thuộc nhóm chuyên môn hẹp về khoa học kỹ thuật. Nếu nền khoa học của Anh không tốt hơn so với Đức và nếu các phương tiện kỳ lạ, độc địa không được sử dụng trong cuộc chiến giành sự sống còn, chúng tôi sẽ gần như chắc chắn bị đánh bại, bị nghiền nát và bị hủy diệt”.
(Sir Winston S.Cherchill, “Giờ tốt nhất của họ” trang 381-2, Houghton Mifflin Company. Boston, Anh, năm 1949).
Để hiểu rõ hơn về cuộc chiến bí mật này giữa Đức và Anh được chuẩn bị thế nào, chúng ta phải quay trở lại một vài năm trước và xem cách người Đức thu được phương pháp ném bom từ các máy bay ném bom của Không quân Đức với sự trợ giúp của hệ thống dẫn đường vô tuyến, và người Anh – phát hiện nó ra sao.
Năm 1930, công ty Lorenz Đức phát triển và bắt đầu sản xuất hệ thống dẫn đường vô tuyến để thực hiện hạ cánh trong tầm nhìn kém và vào ban đêm. Trong hệ thống của Lorenz quỹ đạo bay xác định bằng phương pháp tín hiệu cân bằng, vẫn còn được sử dụng trong nhiều hệ thống định vị ngày nay. Nó gồm hai anten định hướng giống nhau đặt cạnh nhau theo cách sao cho đồ thị đặc tính hướng của chúng chồng lên nhau. Mỗi ăng-ten được kết nối với máy phát của mình, có thiết kế giống hệt nhau, ngoại trừ bộ điều chế tín hiệu: một phát ra một chuỗi các dấu chấm mã Morse, và bộ kia – một chuỗi các dấu gạch ngang. Các trạm thu di động (ví dụ máy bay), khi di chuyển dọc theo khu vực chồng lấn của biểu đồ đặc tính hướng ăng-ten, đồng thời nghe được cả 2 tín hiệu, và vì vậy chúng bổ sung cho nhau, lúc nghe thấy tín hiệu liên tục hoặc lúc một âm thanh liên tục. Điều này cho phi công khả năng biết đang ở đúng hướng. Nếu máy bay chệch hướng, phi công sẽ có thể nghe được hoặc một loạt các dấu chấm hoặc một loạt dấu gạch ngang, do đó có thể dễ dàng xác định mình ở bên nào của khu vực tín hiệu cân bằng. Bằng cách so sánh cường độ tương đối của hai tín hiệu, anh ta cũng có thể điều chỉnh hướng của mình để trở lại hướng bay tới trạm truyền phát tín hiệu ( trong trường hợp này là sân bay), hiện đang làm việc như một ngọn hải đăng vô tuyến dẫn hướng. Hệ thống được phát minh bởi công ty Lorenz đã được thiết lập không chậm trễ tại cả các sân bay dân sự và sân bay quân sự, không chỉ ở Đức mà còn ở nhiều nước khác, trong đó có nước Anh.
o O o
Năm 1933, nhà khoa học Đức, tiến sĩ Hans Plendl bắt đầu nghiên cứu khả năng sử dụng hệ thống Lorenz để tăng độ chính xác của vụ ném bom trong tầm nhìn kém và vào ban đêm. Hệ thống của tiến sĩ Plendla, được gọi là X – GERDT ( “Thiết bị – X”), bao gồm một vài tia Lorenz, một trong số đó là tia chính của dẫn đường vô tuyến, dựa vào đó mà các nhóm hàng không được dẫn đường, các tia khác, bức xạ ngang tia chính, giao cắt nó tại một số nơi. Thông thường, những chùm thứ cấp cắt tia chính tại những nơi đã được đánh dấu trên bản đồ dẫn đường, mang đến cho phi công khả năng xác định vị trí chính xác của mình. Hệ thống đã được kết hợp với “đồng hồ hẹn giờ”, chỉ huy tự động thả bom tại nơi tia chính bị cắt ngang bởi tia thứ cấp cuối cùng. Máy bay có trên mình nó hệ thống này thì vào ban đêm sẽ thả bom xuống mục tiêu với độ chính xác cực kỳ cao ở thời điểm đó. Ngay lập tức sau khi chiếm đóng các nước Pháp và Bỉ, người Đức liền xây dựng một mạng lưới các hệ thống X – Gerat trên bờ biển phía bắc của các đất nước trên.
Hệ thống này được gọi là hệ thống ném bom “mù”, chịu lễ rửa tội chiến tranh vào đêm ngày 14 tháng 11 năm 1940 khi ném bom Coventry. Hai nhóm khoảng 450 máy bay ném bom Đức cất cánh vào nửa đêm từ sân bay Vannes ở nước Pháp bị chiếm đóng. Hầu như tất cả các máy bay ném bom đều được trang bị thiết bị mới của tiến sĩ Plendl và nhờ các tia của hệ thống dẫn đường X-GERDT, đã đến được mục tiêu của họ – trung tâm thành phố, rồi thực sự đã quét nó khỏi mặt đất. Đêm đó đánh dấu một bước tiến lớn hơn bao giờ hết về phía trước trong việc sử dụng bừa bãi máy bay ném bom chống lại dân thường không có người bảo vệ, tiếp theo là các vụ ném bom xuống London, và sau đó là các thành phố khác nhau của Đức, cuối cùng là Hiroshima.
o O o
Phương pháp ném bom đêm được người Đức đưa vào sử dụng này, tuy nhiên không phải hoàn toàn bất ngờ với người Anh. Ngày 04 Tháng 11 năm 1938, tùy viên hải quân Anh tại Oslo nhận được từ một công dân Đức một cặp hồ sơ mật, khẳng định ông ta là “một nhà khoa học có lương tri”. Từ các tài liệu đó người ta thấy rõ Đức đã chế tạo được một loạt các phương tiện vũ khí mới bí mật, chẳng hạn như tên lửa, bom phản lực và mìn từ trường và thực tế là họ đang phát triển một hệ thống điện tử dựa trên chùm tia điện từ, sẽ cho phép máy bay đo khoảng cách tới các trạm mặt đất đặc biệt. Tài liệu cũng đề cập về những nghiên cứu tối mật đang diễn ra trên các hòn đảo Usedon ở biển Baltic, trong một thị trấn nhỏ gọi là Peenemünde. Hầu hết các dữ liệu được nhà khoa học bí ẩn người Đức nhắc đến, là hoàn toàn mới đối với người Anh, nhưng một số những gì họ đã biết về vũ khí Đức thì hoàn toàn trùng hợp với thứ nêu trong các tài liệu trên.
Đương nhiên, tài liệu gây ra tranh cãi lớn giữa các cơ quan tình báo, giữa giới quân sự và các nhà khoa học đang nghiên cứu và phát triển vũ khí mới. Một số bị thuyết phục rằng đây là thông tin sai lệch chủ đích đánh lừa các nhà phát triển Anh hoặc là biện pháp tuyên truyền, nhằm ngăn nước Anh tuyên chiến với Đức, những người khác lại cho rằng người Đức muốn đánh lạc hướng các nhà khoa học và kỹ sư người Anh và đẩy họ về phía hướng nghiên cứu không có kết quả. Tuy nhiên, một trong các nhóm cho rằng sẽ là khôn ngoan hơn nếu nghiên cứu chi tiết của mẩu thông tin quý giá này cẩn thận hơn: thuộc số đó có Winston Churchill, người ngay lập tức sau khi chiến tranh bùng nổ và các mối đe dọa bị ném bom sắp xảy ra với việc sử dụng dẫn đường vô tuyến điện tử, viết rằng: “Nếu những sự kiện này phù hợp với thực tại, đây là một mối nguy hiểm chết người”.
o O o
Ông thành lập ngay một ủy ban gồm nhiều nhà khoa học để nghiên cứu không chỉ những gì chứa trong cặp tài liệu Oslo, mà còn để nghiên cứu khả năng sử dụng thiết bị điện tử áp dụng vào mục đích quân sự, mà việc sử dụng nó Churchill ngày càng khẳng định.
Trong khi đó, người Đức quyết định cải tiến phương pháp ném bom điện tử của mình bởi vì khi sử dụng nó có hai hạn chế lớn. Trước hết, các máy bay ném bom gắn hệ thống này phải bay dọc theo tia vô tuyến dẫn đường quá lâu và sẽ gần như chắc chắn có nguy cơ bị tấn công bởi máy bay tiếm kích Anh, mà trước sự ngạc nhiên vô cùng của người Đức, chúng luôn ở kề hướng đường bay của các máy bay của họ. Thứ hai, hệ thống Lorenz khá phức tạp với cả phi công và các nhà khai thác, những người phải được đào tạo khá dài. Bởi có những lý do trên, người Đức bắt tay nghiên cứu một hệ thống dẫn đường vô tuyến tiên tiến hơn, đơn giản hơn, và chẳng bao họ đã thử nghiệm nó.
o O o
Sự nguy hiểm nằm ở chỗ người Đức sẽ sử dụng các hệ thống điện tử cho việc ném bom đêm nước Anh, điều được khẳng định sau khi thẩm vấn các phi công tù binh Luftwaffe và phân tích thiết bị điện tử tìm được trong số các mảnh xác máy bay ném bom Đức, bị bắn rơi trên lãnh thổ Anh.
Ngày 21 tháng 6 năm 1940 tất cả những mối nghi ngờ về sự tồn tại của các hệ thống điện tử như vậy đã tan biến khi viên phi công Không lực Hoàng gia Anson thực hiện một nhiệm vụ ELINT bình thường thì anh ta nghe thấy trong tai nghe của mình một cái gì đó chưa bao giờ nghe được trước đây: một chuỗi các dấu chẩm rất sạch và rất rõ, truyền tải bằng mã Morse, tiếp ngay sau là một tín hiệu liên tục ( hoặc tiếng huýt sáo). Sau đó, khi vẫn bay theo hướng cũ, anh bắt đầu nghe thấy trong tai nghe một chuỗi các dấu gạch ngang của mã Morse. Trong thực tế, Anson đã cắt qua chùm tia vô tuyến phát ra từ đài phát Đức dẫn đường cho máy bay ném bom Đức tới mục tiêu. Sự kiện này tiếp tục khẳng định giá trị của những gì đã được nêu trong tài liệu bí ẩn gửi đến tùy viên quân sự Anh ở Oslo.
Sau phát hiện tình cờ này, người Anh bắt đầu nghiên cứu tất cả những phương cách có thể để chống lại hệ thống của Đức nhằm giảm bớt hoặc nếu có thể, vô hiệu hóa hiệu quả tác động của nó. Những hệ thống như vậy được gọi là hệ thống đối kháng điện tử.
Một trong những phương pháp đối kháng điện tử được các nhà khoa học Anh xem xét, là cần phải bức xạ tiếng ồn liên tục, tạo ra bởi các máy phát điện trên cùng tần số mà hệ thống Lorenz làm việc. Thiết bị y tế điện nhiệt diathermocoagulation là thiết bị thích hợp nhất cho nhiệm vụ, lập tức được tư vấn sử dụng với các bệnh viện lớn nhất ở London! Sự phóng điện tạo ra bởi thiết bị này có thể ngăn chặn một chương trình phát sóng radio Đức mạnh đến nỗi làm cho hệ thống dẫn đường của họ thành vô dụng. Một cách khác cho kết quả tương tự là bố trí microphone gần cánh quạt quay của máy bay và phát xạ tiếng ồn đó trên cùng tần số mà hệ thống Lorenz làm việc – ( 200-900 kHz). Tuy nhiên, các phương pháp gây nhiễu điện tử hệ thống Lorenz có một nhược điểm nghiêm trọng, vì kẻ thù sẽ nhận ra rằng sự can thiệp này có chủ ý, và do đó hệ thống Lorenz đã bị phát hiện. Sau đó, họ sẽ đưa ra một số phương pháp quỷ quyệt khác, trong đó, không nghi ngờ gì nữa, sẽ dẫn đến những hậu quả còn tồi tệ hơn cho các thành phố của nước Anh, mà đến thời gian này đang còn là mục tiêu chủ yếu trong các vụ ném bom đêm của đế chế Đức thứ Ba.
Để tránh điều này, các nhà khoa học Anh đã tìm ra cách đánh lừa các phi công Đức, khi phát các tín hiệu tương tự mà họ muốn nghe, nhưng bị làm biến dạng cố ý (hướng đến). Những tín hiệu này không chỉ đánh lạc hướng họ, mà đồng thời lại không gây ra những nghi ngờ nào dù nhỏ nhất. Hệ thống này đã phải đưa vào hoạt động lập tức, bởi vì người Đức đã sử dụng hệ thống dẫn đường vô tuyến của mình trong trận bắn phá Coventry và tàn nhẫn sử dụng nó mỗi đêm trong các trận ném bom quần đảo Anh quốc.
o O o
Sau một đợt nghiên cứu căng thẳng, người Anh cuối cùng cũng tìm thấy liều thuốc giải độc cho hệ thống Lorenz, được gọi là Meacon (Hải đăng cải trang). Phương pháp đối kháng điện tử này nhằm tái bức xạ tín hiệu hệ thống Lorenz bị bóp méo sơ bộ. Máy thu và máy phát nằm ở miền nam nước Anh, cách nhau khoảng 6 cây số. Máy thu nhận tín hiệu của hệ thống Lorenz và gửi qua cáp đến máy phát, mà ngay lập tức phát lại nhờ sử dụng một ăng-ten định hướng có công suất lớn hơn nhiều. Ăng-ten phát ra chùm tia vô tuyến theo một hướng hơi khác một chút so với chùm tia hiện tại của hệ thống Lorenz. Tại một điểm xác định, các phi công Đức, đang bay dọc theo một tia vô tuyến, bắt đầu nghe thấy hai tín hiệu: tín hiệu đúng – đang trở nên yếu hơn và tín hiệu phát lại – mạnh hơn. Họ sẽ tự động hướng chú ý của mình đến tín hiệu mạnh hơn, và sẽ thay đổi đường bay của mình và được dẫn tránh xa mục tiêu thực sự của vụ ném bom.
Bị mắc vào chiếc bẫy này, các phi công Đức, thay vì ném bom các thành phố thì lại thực hiện ném bom xuống “cánh đồng trống”, và trong nhiều trường hợp họ bị mất định hướng đến mức họ không thể làm gì hơn là hạ cánh xuống đất Anh. Sau một thời gian, người Đức nhận ra rằng hệ thống Lorenz của họ hoàn toàn bị vô hiệu hóa bởi hoạt động đối kháng điện tử của người Anh và ngay lập tức thay đổi hệ thống dẫn đường và ném bom bằng đạo hàng vô tuyến của mình.
Hệ thống mới, được người Đức gọi là Knickebein (“Nhức đầu”) bao gồm hai máy phát liên kết tương hỗ, phát ra một chuỗi các dấu chấm và dấu gạch ngang. Sự khác biệt giữa hệ thống mới với hệ thống Lorenz cũ nằm ở chỗ, thay vì nhiều chùm tia giao nhau, nay chỉ có một chìm tia, cắt chùm tia cơ bản một cách chính xác ngay trên thành phố-mục tiêu. Là một hệ đơn giản hơn, hệ mới, ngoài chuyện đó, còn đạt độ chính xác cao hơn, bởi vì tín hiệu liên tục được phát ra trong cung 3 độ, cho sai số nhỏ hơn một km.
o O o
Ngay lập tức sau khi áp dụng hệ thống mới, các máy bay ném bom của Đức bắt đầu đạt được những kết quả tốt hơn. Tuy nhiên, người Anh đã biết có sự tồn tại của Knickebein một vài tháng trước khi nó được ứng dụng, khi họ tìm thấy trong đống xác máy bay ném bom Heinkel He111 tài liệu mang tên “Chỉ dẫn về đạo hàng”, trong đó đề cập Knickebein, và chứa các dữ liệu về thời gian, địa điểm, tuyến đường, v.v. Các cuộc thẩm vấn tù binh phi công Đức và nghiên cứu kỹ lưỡng mỗi thiết bị vô tuyến tìm thấy trong đống xác máy bay ném bom của Đức bị bắn rơi, đã sớm xác định được các đặc tính chủ yếu của Knickebein (đặc biệt là tần số hoạt động của nó, quan trọng nhất trong đó là tần số 30 MHz). Ngay sau đó, người Anh đã đưa ra hệ Aspirin của mình – một hệ đối kháng điện tử để đối phó với “Nhức đầu”. Họ khuếch đại một trong hai tín hiệu mà người Đức phát ra (dấu chấm hoặc dấu gạch ngang) và tái phát lại với công suất lớn hơn nhiều, để cuối cùng, chùm tia chính hơi lệch đi hoặc sang bên phải hoặc bên trái, và do đó dẫn máy bay ném bom Đức đi chệch hướng.
Ngoài ra, hệ thống chặn tín hiệu radio của Anh có thể thông báo chính xác chùm tia cắt qua thành phố nào, để kịp thời thông báo cho công chúng biết mối nguy hiểm và tổ chức phòng thủ đường không, tập trung máy bay tiêm kích của Không quân Hoàng gia vào khu vực cuộc tấn công sẽ xảy ra. Đến thời điểm này, cả hai bên đều bị tổn thất nặng. Vào cuối tháng Chín năm 1940, Đức đã bị mất 1.100 máy bay, còn người Anh mất ít nhất 650 máy bay tiêm kích.
o O o
Bây giờ chúng ta biết rằng kế hoạch của Đức chiếm ưu thế trên không trên không phận eo biển La Manche và miền nam nước Anh đã thất bại, Hitler buộc phải hoãn vô thời hạn cuộc xâm lược tham vọng bằng “Chiến dịch Sư tử biển” của ông ta. Ngoài ra, thời tiết xấu hồi mùa thu năm 1940 cũng buộc người Đức giảm hẳn nhịp độ hoạt động chiến đấu và cắt bớt số lượng các cuộc không kích, trong đó, mà đến lúc đó, hầu như luôn luôn diễn ra vào ban đêm, vì chỉ có bóng tối mới có thể bảo vệ các máy bay ném bom thoát các cuộc tấn công không thể tránh khỏi và diễn ra liên tục của các máy bay tiêm kích không quân Anh.
Đồng thời trong khi đó, các phòng thí nghiệm của cả hai nước vẫn tiếp tục cạnh tranh không mệt mỏi trong nỗ lực phát triển một thiết bị điện tử phức tạp hơn, đặc biệt là bây giờ, khi radar đang ngày càng chứng minh giá trị của nó như một phương tiện chỉ thị mục tiêu đối phương chính xác và xạ kích theo nó. Tuy nhiên, ngay khi một bên phát minh ra một thiết bị điện tử mới, ngay lập tức bên kia cũng tìm ra phương cách đối kháng điện tử thích hợp để vô hiệu hóa, hoặc ít nhất là làm giảm hiệu quả của nó.
Trong giai đoạn kịch tính này của chiến tranh, công ty truyền thông BBC đã được lệnh chỉ sử dụng một tần số để phát sóng tất cả các chương trình phát thanh của họ, vì người ta phát hiện ra các phi công Đức bị lạc hướng do người Anh sử dụng đối kháng điện tử (REP) hay do thời tiết xấu, thường sử dụng các trạm phát thanh cho đài BBC để lấy lại hướng. Họ đã sử dụng các đài vô tuyến tầm phương lắp trên máy bay xác định hướng hoặc góc phương vị theo hai hoặc ba trạm phát thanh của BBC và dùng phương pháp tam giác xác định vị trí của mình.
Còn một đài phát thanh, được sử dụng cho mục đích quân sự, là Đài phát thanh Paris. Không giống như BBC, phát sóng chủ yếu các chương trình giải trí, tin tức từ các mặt trận và các bài phát biểu tuyên truyền để duy trì tinh thần chiến đấu, Đài phát thanh Paris liên tục cả ngày phát các chương trình nhạc nhẹ: các ca khúc và các màn biểu diễn tạp kỹ tuyên truyền cho Đức Quốc xã. Các chương trình này có rất nhiều người dân ở Anh nghe, họ chịu đựng sự tuyên truyền của bọn Nazi, cũng giống như bây giờ chúng ta chịu đựng các đoạn dừng quảng cáo, làm gián đoạn các chương trình phát sóng của chúng ta.
o O o
Sau một thời gian, thính giả Anh thấy rằng càng ngày âm lượng của phiên truyền càng tăng và họ phải giảm volume máy thu của họ, ngoài ra, họ còn thấy điều đó thường xảy ra ngay trước khi có cuộc không kích luân phiên của người Đức. Đây là một sự trùng hợp kỳ lạ mà các nhà chức trách có thẩm quyền sớm nhận biết, sau khi nghiên cứu chi tiết họ phát hiện ra, trên thực tế, âm lượng các chương trình phát thanh tăng ở các thành phố sắp bị ném bom và âm lượng giảm đi tỷ lệ thuận với khoảng cách. Trên cơ sở đó, có thể kết luận rằng người Đức phải sử dụng trạm phát sóng của Đài phát thanh Paris để dẫn đường cho các máy bay ném bom của mình hướng tới các thành phố nước Anh.
Trong thực tế, nó là như sau; trước mỗi cuộc không kích, trạm phát sóng radio của Đài phát thanh Paris chuyển từ ăng ten đẳng hướng sang ăng-ten định hướng hẹp nhằm vào thành phố sắp bị đánh bom. Do đó, các phi công Đức sẽ bay đến London hay Liverpool thì chỉ cần nghe bài hát tiếng Pháp của Đài phát thanh Paris! Một chùm tia hẹp khác, cắt chùm tia chính trên thành phố-mục tiêu sẽ thông báo chính điểm thả bom.
Hệ thống mới, làm việc ở tần số 70 MHz, được người Anh đặt tên Ruffian mà ngay cả ngày nay vẫn được coi là bí ẩn. Rất khó để hiểu làm thế nào người Đức có thể phát xạ một chùm tia điện từ hẹp như vậy (chỉ có 3 độ), khi mà họ chỉ có trong tay một số lượng hạn chế công nghệ điện tử.
Người Anh đã mất một thời gian dài cho việc phát hiện hệ thống ác quỷ này và cuối cùng họ cũng đưa ra được một sự đối kháng điện tử hiệu quả, gọi là Bromide. Nó gồm có việc tái phát lại chương trình radio của Đài phát thanh Paris trên cùng một tần số, nhưng với ăng-ten đa hướng, do đó vô hiệu hóa việc phát sóng radio định hướng của người Đức.
Sử dụng phương pháp đối kháng điện tử trên, người Anh thành công hoàn toàn trong việc làm mất phương hướng các máy bay ném bom Đức, kết quả là chúng bay hỗn loạn trên không phận Vương quốc Anh và thả bom bất cứ nơi nào. Sau này, người Anh còn làm chủ thành công cả các chương trình phát sóng định hướng, điều đó cho họ cơ hội buộc các máy bay ném bom phải thả bom trên biển. Để không làm lộ cho người Đức biết các thành công của mình trong đối kháng điện tử, báo chí Anh gán cho những vụ ném bom bừa bãi trên là các hoạt động có tính chất phá hoại, được người Đức tổ chức nhằm vào các căn cứ tiêm kích Spitfire. Phương pháp đối kháng này, tuy nhiên, không kéo dài lâu, và đến đầu năm 1941, người Đức đưa ra một hệ thống ném bom, được đặt tên Benito để vinh danh đồng minh Duce Italia.
o O o
Vào thời điểm đó việc điều chế tần số hầu như ngay cả người Đức cũng chưa biết đến, họ tin rằng người Anh không có phương tiện nào để nghe trộm sóng radio với kiểu điều chế như vậy, họ gần như bắt đầu sử dụng nó để tránh các phương tiện trinh sát của người Anh. Dọc theo các tuyến đường bay chủ yếu trên bầu trời nước Anh và Pháp họ bố trí nhiều điệp viên bí mật, trang bị máy phát FM cầm tay để cung cấp thông tin về vị trí của họ cho các phi công Đức, cũng như các thông tin khác, cho đến tận cự ly chính xác sát mục tiêu.
Tình báo Anh không dễ hiểu được những gì đang xảy ra, song cuối cùng họ cũng đánh chặn được các sóng radio phát đi giữa các nhân viên mật vụ Đức và các phi công, ngay lập tức họ tìm ra một biện pháp đối kháng điện tử đơn giản nhưng hiệu quả. Họ bắt đầu sử dụng các khai thác viên nói tiếng Đức trên cùng tần số, truyền đi những thông tin sai sự thật đến các phi công đối phương. Phương pháp đối kháng này, có tên Domino, hiệu quả đến nỗi buộc nhiều phi công Đức phải hạ cánh xuống các căn cứ không quân Anh, mà những người đó thậm chí còn chưa hiểu ra chuyện gì!
Tuy nhiên, Domino không phải không có thiếu sót. Một trong những hậu quả nghiêm trọng nhất của những thiếu sót này đã xảy ra đêm 30 rạng ngày 31 tháng 5 năm 1941, các khai thác viên hệ thống Domino vô tình phái một nhóm máy bay ném bom Đức ném bom thủ đô Dublin của quốc gia trung lập Ireland.
Cuối cùng, người Đức phải viện đến việc chiếu sáng để ném bom; ánh sáng của các trái bom chiếu sáng đủ để soi sáng khu vực ném bom cho một số nhóm máy bay ném bom. Người Anh phản ứng bằng cách tổ chức những đám cháy rất lớn, đóng vai mồi bẫy máy bay Đức. Tất nhiên, điều này được thực hiện bên ngoài London, ngoài cánh đồng trống, nơi những người Đức, không biết về thủ thuật này, thường xuyên thả bom xuống đó.
Nhưng vào thời điểm này, trận chiến nước Anh đã suy giảm, và máy bay Đức bắt đầu di chuyển từ Pháp sang mặt trận phía Đông để chuẩn bị cho cuộc xâm lược nước Nga. Sau nhiều tháng không chiến căng thẳng, sau các vụ ném bom tàn bạo và cuộc chiến khốc liệt với lực lượng phòng không nước Anh, người Đức vẫn không thể giành ưu thế trên bầu trời Anh quốc, kế hoạch của họ xâm lược đảo quốc Anh đã tan biến như mây khói. Không quân Hoàng gia đã chiến thắng, thậm chí bất chấp thực tế là thiệt hại của họ có lẽ cũng lớn gần như kẻ thù. Theo thống kê sơ bộ, người Anh bị mất 1.500 máy bay tiêm kích, còn người Đức – ít nhất là 1700.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chiến thắng chung cuộc của Không quân Hoàng gia, và nó được coi một cách đúng đắn là bước ngoặt trong quá trình Chiến tranh Thế giới 2. Thông thường, chiến thắng này được ghi nhận do tính ưu việt của đặc tính kỹ thuật-hàng không của các chiến đấu cơ Spitfire Hurricane, sự can đảm và kinh nghiệm của phi công Anh, hiệu quả của hệ thống tích hợp cảnh báo sớm và chỉ huy máy bay tiêm kích, chiến thuật thích hợp của Bộ tư lệnh KQ tiêm kích; ngoài ra, còn là các lỗi lầm chiến thuật của Không quân Đức. Tuy nhiên, các nghiên cứu tỉ mỉ và sự phân tích kỹ lưỡng đã làm sáng tỏ các yếu tố khác nữa mà các tài liệu và số liệu thống kê chúng tôi có được ngày hôm nay đã xác nhận.
Người Anh ở trên đất của mình, các máy bay tiêm kích của họ thực sự nhanh hơn các máy bay ném bom chậm chạp của người Đức, vốn bị buộc phải thực hiện các chuyến bay dài thường là trong các điều kiện thời tiết xấu trên một vùng nước không an toàn của eo biển La Manche và Biển Bắc. Người Anh cũng có lợi thế khi làm chủ được khả năng cảnh báo sớm và kiểm soát tuyệt vời, các biện pháp đối kháng điện tử (ECM-РЭП, REP) hiệu quả nhất, những biện pháp đó đã đánh lạc hướng được các phi công Đức, bắt họ tin rằng họ đang ném bom xuống các mục tiêu thực, trong khi trên thực tế, họ thường thả bom của mình xuống các khu vực trống, xa các thành phố, hay thả bom xuống biển. Người ta thống kê rằng chỉ có một phần tư bom người Đức được thả xuống các khu phố đông dân cư và các nhà máy công nghiệp, đó mới là các mục tiêu thực.
Thứ hai, đối kháng điện tử, mục đích của nó là gây khó cho công tác dẫn đường, buộc các phi công Đức bay trong trạng thái tâm lý bị ức chế, họ không biết hoặc phải dựa vào các thiết bị dẫn đường của mình, hay những cảm xúc mệt mỏi và làm giảm hiệu quả chiến đấu của cả kíp bay và máy bay.
Mặc dù thời gian luân phiên lúc thành công lúc thất bại, các hệ thống đối kháng điện tử khác nhau, được thiết kế để vô hiệu hoặc làm giảm hiệu quả các hệ thống dẫn đường vô tuyến của kẻ thù, đã đóng góp to lớn vào kết quả cuối cùng của trận chiến nước Anh.
Chiến Tranh Vô Tuyến Điện Tử (Từ Eo Đối Mã Đến Liban Và Quần Đảo Falkland) Chiến Tranh Vô Tuyến Điện Tử (Từ Eo Đối Mã Đến Liban Và Quần Đảo Falkland) - Mario De Arcangelis Chiến Tranh Vô Tuyến Điện Tử (Từ Eo Đối Mã Đến Liban Và Quần Đảo Falkland)