This will never be a civilized country until we expend more money for books than we do for chewing gum.

Elbert Hubbard

 
 
 
 
 
Tác giả: Selma Lagerlöf
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 9
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2503 / 24
Cập nhật: 2015-12-10 13:31:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Trong Quán Rượu Thị Sảnh
Một buổi sáng đẹp trời bà chủ quán rượu tại tòa thị sảnh ở Maxtrăng vừa mở cửa để cọ rửa cầu thang và phòng ngoài thì thấy một cô gái nhỏ đang ngồi trên bậc cầu thang có vẻ chờ đợi. Cô mặc một chiếc áo thụng màu xám có thắt lưng ở ngang thân, mái tóc vàng không cuộn lên mà cũng không tết buông xõa hai bên má cô.
Khi cánh cửa mở ra, cô gái đứng dậy, bước xuống phòng ngoài. Bà chủ thấy cô đi như người trong mơ, mắt nhìn xuống hai cánh tay khép sát vào người. Cô gái lạ mặt tiến sát lại gần bà chủ quán. Cô càng lại gần, bà chủ quán càng ngạc nhiên vì dáng người tha thướt và chân tay thanh mảnh của cô. Tuy khuôn mặt cô rất xinh, nhưng có vẻ hốc hác và trong suốt như thủy tinh.
Tới bên bà chủ quán, cô hỏi liệu ở quán có việc gì mà cô có thể làm được chăng và cô xin bà nhận cô vào làm con ở.
Bà chủ nghĩ tới những người đàn ông thô lỗ tối tối thường đến đây uống rượu vang, uống bia và bà không khỏi bật cưi:
- Không, không, ở quán tôi không có việc gì phù hợp với một cô gái bé nhỏ như cô đâu.
Cô gái không ngước nhìn lên, đứng yên không cử động, nhưng lại cầu xin bà nhận cô vào làm người hầu trong quán. Cô không yêu cầu bà nuôi ăn hoặc trả tiền công, cô chỉ muốn có việc làm.
- Không, - bà chủ nhắc lại.- Dù cô là con gái tôi đi nữa tôi cũng vẫn sẽ từ chối. Theo ý tôi, cô xứng đáng với những việc làm tốt hơn là làm người hầu ở quán tôi.
Cô gái nhẹ nhàng bước trở lên cầu thang. Bà chủ quán đưa mắt nhìn theo. Bà thấy cô quá bé nhỏ, quá yếu ớt để có thể tự bảo vệ nên bà động lòng thương xót. Bà bèn gọi cô lại và nói:
- Một mình lang thang ngoài đường phố, có thể cô gặp nhiều nguy hiểm hơn là ở quán chúng tôi. Thôi, hôm nay cô ở lại đây, cô sẽ rửa bát đĩa, để rồi tôi xem có việc gì hợp với cô không.
Bà dẫn cô vào một căn phòng nhỏ xíu bố trí sau gian bán hàng. Căn phòng này không lớn hơn cái tủ là bao. Nó chẳng có cửa lùa, mà cũng chẳng có cửa sổ. Ánh sáng lọt vào qua một cái lỗ trổ trên bức tường của gian bán hàng.
- Hôm nay cô cứ ở đây, rửa tất cả những bát đĩa mà tôi sẽ đưa vào cho cô qua cái lỗ này, - bà chủ quán nói với cô gái. - Rồi tôi sẽ quyết định sau xem cô có thể giữ cô lại giúp việc cho tôi không.
Cô gái trẻ bước vào gian phòng hẹp. Những cử động của cô hoàn toàn không gây một tiếng động. "Thật chẳng khác nào một hồn ma lướt vào trong mồ."- bà chủ quán nghĩ bụng.
Thế là cô ở đó suốt ngày, không nói chuyện với ai, mà cũng chẳng hề ghé mặt vào lỗ tường để nhìn những người ra vào trong quán rượu. Cô cũng không động đến thức ăn người ta đem đến cho cô.
Chẳng ai nghe tiếng bát đĩa va chạm vào nhau, nhưng mỗi khi bà chủ quán thò tay qua lỗ tường, cô gái lạ lại trao cho bà những chồng bát đĩa đã rửa sạch bóng, không một vết bẩn.
2
Vào một ngày không có việc làm cá ngoài bến tầu, Enxalin ở nhà một mình, ngồi kéo sợi. Một ngọn lửa ấm áp cháy trong lò sưởi, chiếu khá sáng gian nhà. Đang làm việc, Enxalin cảm thấy có một làn gió nhẹ thoáng trên trán cô tựa như một làn hơi lạnh. Cô ngước mắt lên và trông thấy người chị nuôi đã chết đứng ngay trước mặt.
Enxalin đưa tay dừng guồng sợi và ngồi lặng người, mắt dán vào người chị nuôi. Thoạt đầu cô thấy sờ sợ. Nhưng rồi cô nghĩ: "Mình không được phép sợ người chị nuôi của mình. Dù chị ấy còn sống hay đã chết, mình cũng rất sung sướng gặp lại chị."
- Chị thân yêu ơi, - cô nói với hồn ma, - chị muốn gì em thế?
Người kia trả lời, giọng yếu ớt không có âm sắc:
- Em Enxalin, chị xin vào làm đầy tớ tại một quán rượu. Bà chủ đã để đứng cả ngày rửa bát đĩa. Tối nay chị thấy mệt quá, không thể làm được nữa, chị đến hỏi em xem có vui lòng đến giúp chị không?
Nghe những tiếng nói này, Enxalin cảm thấy có một bức màn đang trùm lấy đầu óc cô. Cô không thể nghĩ được gì nữa, không thấy ngạc nhiên mà cũng không thấy sợ hãi. Cô chỉ cảm thấy vui sướng được gặp lại chji nuôi. Cô đáp:
- Được chứ, chị thân yêu. Em sẽ đến giúp chị ngay đây.
Hồn ma đi ra cửa và Enxalin theo sau. Nhưng khi họ sắp bước qua ngưỡng cửa, người chị nuôi nói với Enxalin:
Em hãy mặc áo khoác vào, bên ngoài đang có bão đấy. Hồn ma nói những câu này rõ hơn những câu trước.
Enxalin với chiếc áo treo trên tường xuống và khoác vào người. Cô nghĩ: " Chị ấy vẫn yêu thương mình. Chị ấy không muốn mình gặp phải điều không hay. Mình rất sung sướng được theo chị đến bất cứ nơi nào chị muốn."
Và đi theo hồn ma, Enxalin rời xa dần căn lều của Tôraranh cất trên một dốc đá, rồi qua nhiều phố, đi xuống phía bến cảng và chợ.
Hồn ma luôn luôn đi trước Enxalin vài bước. Gió nổi dữ dội, luồn ào ào vào những phố nhỏ. Enxalin nhận thấy mỗi khi gió thổi mạnh sắp ép cô vào tường, hồn ma lại cố sức lấy thân hình mỏng dính của mình chắn gió cho cô.
Cuối cùng họ cũng tới được Tòa thị sảnh. Hồn ma bước xuống cầu thang hầm rượu, nơi đặt quán rượu. Hồn ma ra hiệu cho Enxalin đi theo mình. Họ đang bước xuống bậc thang thì bỗng một cơn gió thổi tắt ngọn đèn treo ở phòng ngoài. Bóng tối bao phủ lấy họ. Enxalin không biết đặt chân vào đâu nữa và hồn ma phải cầm lấy tay cô dắt đi. Khi bàn tay hồn ma chạm vào cô lạnh ngắt, Enxalin rùng mình và run lên sợ hãi. Hồn ma vội rụt tay lại và lót tay mình bằng vạt áo choàng của Enxalin rồi mới lại cầm tay cô để dẫn đi. Song Enxalin vẫn cảm thấy cái lạnh thấu xương qua làn áo lông có lượt vải lót.
Hồn ma dẫn Enxalin dọc theo một hành lang hẹp, rồi mở cửa đưa Enxalin vào một gian phòng nhỏ xíu tối om, chỉ mờ mờ sáng nhờ cái lỗ nhỏ trổ trên tường. Enxalin thấy mình ở trong một nơi mà bà chủ quán bắt chị cô phải đứng rửa bát đĩa phục vụ khách. Trong bóng tối, Enxalin thấy lờ mờ một chậu nước đầy đặt trên một chiếc ghế đẩu, và trên lỗ tường có rất nhiều cốc tách, bát đĩa bẩn.
- Em có thể làm việc giúp chị tối nay không? Enxalin. - Hồn ma hỏi.
- Có chứ, chị thân yêu. Em sẽ làm tất cả những gì chị muốn.
Và cô cởi ngay áo choàng ra, xắn tay áo lên và bắt đầu rửa bát.
- Em cứ bình tĩnh và yên lặng tuyệt đối, Enxalin nhé, để bà chủ khỏi biết có người đến giúp chị.
- Vâng, em sẽ không động đậy, không nói năng gì. - Enxalin trả lời.
- Vậy chị xin vĩnh biệt em, Enxalin. - Hồn ma nói, - nhưng chị còn phải dặn em một điều: chị xin em sau này đừng có quá giận chị nhe.
- Tại sao chị lại nói vĩnh biệt, - Enxalin nói, - tối nào em cũng sẽ đến giúp chị cơ mà.
- Không, chị chỉ cần em tối nay thôi, chị tin rằng tối nay em sẽ giúp chị nhiều việc quan trọng đến nỗi công việc của chị nhờ thế mà kết thúc tốt đẹp.
Vừa nói chuyện với chị, Enxalin vừa cúi đầu làm việc.
Một lát yên lặng, rồi cô gái cảm thấy một làn gió nhẹ lướt qua trán giống như khi hồn ma đến với cô ở nhà Tôraranh. Cô ngẩng lên và thấy chỉ còn lại một mình. Cô hiểu ý nghĩa của làn gió nhẹ lướt trên trán cô và nghĩ thầm: "Người chị nuôi đã chết của mình đã hôn lên trán mình trước khi ra đi đấy."
Thoạt tiên Enxalin rửa cho xong mấy chồng bát đĩa, cô tráng lại tất cả rồi lau khô. Sau đó cô quay ra xem có bát đĩa nào bẩn mới đặt lỗ tường chưa, vì không thấy gì ở đó, cô nhòm qua lỗ vào gian hàng.
Vào giờ này theo lệ thường thì chẳng còn ai tới quán rượu nữa. Bà chủ quán không còn đứng sau quầy và cũng chẳng còn người đầy tớ nào làm việc trong phòng. Duy chỉ còn ba người đàn ông ngồi ở đầu một chiếc bàn dài. Họ là khách, song ở quán hàng này họ hoàn toàn tự nhiên như ở nhà mình: một người trong bọn uống cạn vại rượu, rồi đi đến bên những thùng bia xếp chồng lên nhau cạnh quầy bán, tự rót lấy và tiếp tục uống.
Đứng sau lỗ tường, Enxalin dường như vừa từ một thế giới khác trở về. Cô vẫn nghĩ đến người chị nuôi nên chẳng hiểu rõ những điều đang diễn ra trước mắt cô.
Trong một lúc lâu, cô không nhận ra ba người đàn ông đang ngồi bên bàn kia là những người rất quen biết và thân thiết của cô. Đó chẳng phải khác ngoài Arsi và hai bạn của anh ta là Phillip và Rêginan.
Từ mấy ngày nay Arsi không đến thăm Enxalin, vì thế cô cảm thấy sung sướng khi trông thấy anh ta. Cô định gọi anh để nói rằng cô đang ở rất gần anh, nhưng cô chợt nghĩ ra là anh ta không đến thăm cô nữa, điều đó thật lạ lùng và thế là cô im lặng.
"Có lẽ bây giờ anh ta yêu một người khác chăng? Có lẽ lúc này anh ta đang nghĩ đến người đó chăng?" - Cô nghĩ vậy vì thấy Arsi ngồi cách xa các bạn anh một chút, mắt nhìn đăm đăm, không uống rượu và cũng không tham gia chuyện trò với họ. Ngay cả khi Rêginan và Phillip hỏi anh, anh cũng xhẳng buồn trả lời nữa.
Enxalin nghe thấy ha người kia đang cố làm cho anh vui vẻ lại. Họ hỏi anh tại sao không uống, họ khuyên anh nên đến thăm Enxalin, chuyện trò với cô để phấn chấn lại.
- Các cậu không phải lo lắng cho mình như vậy. - Arsi trả lời. - Mình đang nghĩ tới một cô bé khác, lúc nào nó cũng ở trước mặt mình, lúc nào mình cũng nghe thấy tiếng nó văng vẳng bên tai.
Và Enxalin thấy Arsi đang dán mắt nhìn vào một cái cột đỡ vòm hầm. Cô cũng nhìn theo, thấy chị nuôi cô đang đứng dựa cột, nhìn thẳng vào Arsi, điều mà trước đây cô không nhận thấy. Cô chị đứng không nhúc nhích trong bộ đồ xám nên rất khó phân biệt cô với cây cột sau lưng cô.
Enxalin lẳng lặng nhìn căn phòng. Người chị nuôi cô ngước mắt nhìn Arsi, khác hẳn lúc ở bên Enxalin: cô ta luôn luôn hạ mi mắt xuống. Nhưng trên mặt cô ta, đôi mắt là đáng sợ nhất. Enxalin thấy chúng bị chọc thủng, không có ánh mắt, và áng sáng không phản chiếu trên con ngươi.
Một lúc sau Arsi lại rên rỉ: " Lúc nào mình cũng nhìn thấy con bé, nó đi theo mình khắp mọi nơi."
Anh ta ngồi đối diện với cây cột nơi hồn ma đang dựa lưng và anh ta nhìn thẳng vào đó, nhưng Enxalin biết rằng anh ta không nhìn thấy hồn ma, không nói đến hồn ma mà nói đến một người nào đó cứ luôn ám ảnh anh ta.
Từ sau lỗ tường, Enxalin theo dõi mọi điều đang xẩy ra. Cô nghĩ thầm rằng cô rất muốn biết ai là người mà Arsi lúc nào cũng nghĩ tới. Đột nhiên cô thấy hồn ma đến ngồi vào chiếc ghế dài sát bên Arsi và thì thầm vào tai anh ta.
Nhưng Arsi không biết rằng hồn ma đang ở sát bên anh đến thế và đang nói thầm vào tai anh. Anh ta chỉ nhận biết sự có mặt của hồn ma vì thấy mình mỗi lúc một hoảng sợ hơn. Sau khi hồn ma tới ngồi bên cạnh và thì thầm vào tai Arsi được một lúc, Enxalin thấy Arsiđưa hai tay lên đầu và khóc: " Ôi, tại sao mình lại tìm thấy cô gái ấy?- Anh ta nói. Mình không có điều gì phải ân hận ngoài việc mình đã không để cho cô ta được sống khi cô ta van xin mình."
Hai người kia ngừng uống, đưa mắt sợ hãi nhìn Arsi, người đang bị nỗi ân hận dày vò, nên không còn thiết gì đến khí phách nam nhi cả. Họ sững sờ một lúc rồi một người đi đến quầy rượu, lấy một cốc vại và rót đầy vang đỏ. Anh ta đi đến bên Arsi, vỗ vao vai Arsi và nói: " Uống đi, người anh em. Những đồng equy của cụ Arnơ vẫn chưa hết đâu. Chừng nào cúng ta còn có tiền uống rượu như thế này thì việc gì phải âu sầu phiền muộn."
Nhưng đúng vào lúc anh ta nói "Uống đi, người anh em. Những đồng equy của cụ Arnơ vẫn chưa hết đâu..." thì Enxalin thấy hồn ma đứng dậy, ra khỏi ghế băng và biến mất.
3
Enxalin bước ra khỏi gian nhà nhỏ nơi cô rửa bát đĩa của quán rượu rồi khép nhẹ cánh cửa sau lưng. Cô dừng lại trong hành lang chật hẹp kế bên, dựa lưng vào tường và đứng lặng ở đó gần một giờ đồng hồ. Lúc đó cô suy nghĩ: " Mình không thể phản anh ấy được. Có thể anh ấy đã phạm mội tội ác, song mình yêu anh ấy vô cùng. Mình không thể để anh ấy phải chịu xa hình 1. Mình không có gan nhìn thấy anh ấy bị đốt chân tay."
Cơn bão lớn nổi lên từ sáng càng về chiều càng dữ dội. Náu mình trong bóng tối, Enxalin nghe thấy tiếng gió gầm thét lồng lộn. "Đấy là cơn bão đầu tiên của mùa xuân, - cô nghĩ. - Nó kéo đến với tất cả sức mạnh của nó để phá băng, giải thoát cho mặt biển. Vài ngày nữa biển sẽ thông, và Arsi sẽ ra đi không bao giờ trở lại đây nữa. Anh ấy sẽ không gây tội ác trên đất nước này nữa. Vậy thì bắt giam và trừng phạt anh ấy phỏng có ích gì? Cả người sống lẫn người chết chả ai được lợi về việc đó cả.".
Enxalin khoác áo choàng lên người định bụng về nhà và im lặng làm việc không tiết lộ bí mật cho ai biết cả.
Nhưng chưa cất chân bước đi, cô đã bỏ ngay ý định đó.
Cô vẫn đứng yên, lắng nghe tiếng bão giận dữ, và cô nghĩ rằng mùa xuân sắp đến, tuyết sẽ tan đi và màu xanh của cây cối sẽ phủ khắp mặt đất.
"Lậy Chúa thương chúng con! Mùa xuân sé ra sao đối với mình, - cô tự nhủ. - Sau mùa đông lạnh lẽo này sẽ chẳng còn niềm vui nào, hạnh phúc nào đến với mình nữa. Cách đây vừa đúng một năm, mình thật vui sướng biết bao khi thấy mùa đông qua đi và mùa xuân đang đến. Mình còn nhớ có một buổi chiều trời đẹp đến nỗi mình không thể ngồi ở nhà được. Thế là mình nắm tay người chị nuôi của mình, và hai chị em đi dạo, tìm hái những cành lộc xanh mang về trang trí trên lò sưởi."
Và Enxalin như sống lại buổi dạo chơi của họ trên một nẻo đường xanh rợp. Cô và người chị nuôi thấy bên đường một cây phong non đã bị đẵn. Trông vết đẵn có thể thấy rằng cây mới bị đốn cách đây vài ngày. Hai cô gái nhận ra rằng tuy thế cái cây tội nghiệp đã bắt đầu xanh tươi trở lại và lá đang nhú ra từ những mầm non.
Người chị nuôi của Enxalin dừng chân lại, cúi xuống cây phong và nói: "Ôi, cái cây đáng thưng làm sao, mày có tội gì mà đến nỗi bị chặt rồi mày vẫn không thể chết được? Tại sao mày lại phải đâm chồi nẩy lộc, tựa như mày còn sống?
Enxalin cười chị và trả lời: " Cái cây xanh tốt đẹp đẽ trở lại thế này là kđể cho kẻ đã hạ nó phải hiểu rằng việc hắn làm là độc ác, và phải hối hận.
Song, chị nuôi cô không cười, mắt rưng rưng lệ và nói:
- Thật là một tội ác khủng khiếp khi chặt một cái cây đúng vào lúc nó đang đâm chồi mọc lá, đúng vào lúc nó đang đầy sức sống nên không thể chết được. Thật khủng khiếp khi một người phải chết khi không được yên nghỉ trong nấm mồ của mình. Những người đã chết thì không thể mong nhớ điều gì tốt đẹp hơn thế nữa. Họ không thể có tình yêu, có hạnh phúc. Họ chỉ có thể ao ước được ngủ yên lành.
- Nghe chị nói cây phong không chết nổi vì nó nghĩ đến kẻ hại nó, mà em phát khóc lên được, - cô nói với chị. - Đối với một người đã bị cướp mất cuộc sống, còn có số phận nào ác nghiệt hơn là không được yên nghỉ vì còn phải săn đuổi kẻ đã giết mình. Những người đã chết thì còn gì mong ước hơn là được nằm ngủ yên lành.
Nhớ lại cuộc đối thoại ấy, Enxalin bật khóc và vặn vẹo đôi tay. "Chị mình sẽ không được yên nghỉ dưới mồ nếu như mình không phản bội người mình yêu. Nếu như mình không giúp chị ấy, chị ấy sẽ phải lang thang mãi mãi trên mặt đất này. Ôi người chị nuôi đáng thương của em, chị còn điều gì ao ước hơn là được yên nghỉ trong mộ, và giấc ngủ này mình chỉ có thể đem lại cho chị bằng cách nộp người mình yêu cho xa hình.
4
Arsi rời căn hầm, bước vào cái hành lang nhỏ hẹp. Ngọn đèn treo trên trần đã được thắp lại. Dưới ánh sáng của nó, Arsi nhìn thấy một cô gái đứng tựa lưng vào tường.
Trông cô gái tái nhợt, bất động, Arsi phát hoảng và nghĩ: " Cuối cùng thì mình đã nhìn thấy tận mắt hồn ma theo đuổi mình hằng ngày".
Khi Arsi đi ngang qua Enxalin, anh ta vuốt tay cô gái xem có phải thật là hồn ma đang đứng trước mặt anh ta không. Bàn tay ấy lạnh ngắt, khó có thể biết được đó là tay chết hay là tay người sống.
Nhưng khi tay Arsi chạm vào tay mình, Enxalin rụt ngay tay lại, và thế là Arsi nhận ra cô. Anh ta tưởng rằng cô đến đây là vì anh, và anh thấy khoái chí được gặp lại cô. Đồng thời một ý nghĩ lướt qua trong óc anh. "Mình biết phải làm gì để hồn ma hết oán hờn mình và không theo đuổi mình nữa rồi."
Anh ta cầm lấy bàn tay Enxalin đưa lên môi hôn. "Chúa ban phúc lành cho em vì em đã đến với anh đêm nay, Enxalin ạ". - Anh ta nói.
Nhưng trái tim Enxalin vẫn đau đớn. Nước mẳ làm cô không cất nổi lời để nói với Arsi rằng không phải cô đến đây để tìm gặp anh.
Arsi yên lặng hồi lâu, tay vẫn nắm chặt tay Enxalin, và anh ta đứng càng lâu trước mặt cô gái, gương mặt anh ta càng sáng bừng lên, càng đẹp thêm.
- Enxalin, - cuối cùng anh ta nói một cách rất trịnh trọng, - mấy ngày qua anh không thể đến thăm em vì có những ý nghĩ đen tối cứ ám ảnh anh không ngớt làm anh tưởng như mình sắp mất trí. Nhưng tối nay anh thấy khỏe hơn, cái hình ảnh vẫn hành hạ anh không xuất hiện nữa. Khi nhận ra em ở đây, trái tim anh đã bảo cho anh biết anh phải làm gì để thoát vĩnh viễn khỏi những nỗi dày vò.
Anh ta cúi xuống để nhìn vào mắt Enxalin, song thấy cô ta vẫn nhìn xuống, anh bèn nói tiếp:
- Vì mấy ngày nay anh không đến thăm em nên em giận phải không Enxalin? Nhưng anh không thể đến được, vì mỗi khi anh nhìn thấy em, anh lại nghĩ tới nỗi phiền muộn của mình. Ở bên em, anh càng nghĩ nhiều tới một cô gái mà anh đã đối xử không tốt. Anh đã đối xử không tốt với rất nhiều người, Enxalin ạ. Song lương tâm anh chỉ cắn rứt về việc đã đối xử xấu với cô ấy.
Thấy Enxalin vẫn yên lặng, Arsi cầm lấy đôi tay cô đưa lên môi hôn:
- Enxalin, em hãy nghe điều mà trái tim anh đã nói với anh khi nhìn thấy em đứng bên ngoài đợi anh. Trái tim anh nói rằng anh đã làm hại một cô gái, vậy anh phải chuộc tội với cô gái ấy bằng cách đền bù cho một cô gái khác. Anh phải lấy cô gái này làm vợ, và đối xử tử tế sao cho cô không bao giờ phải buồn phiền. Anh phải trung thành với cô sao cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời anh, anh vẫn yêu cô nồng thắm như những ngày mới cưới.
Enxalin vẫn đứng yên, không nhúc nhích. Arsi lại đưa tay nâng cằm cô lên:
- Anh muốn biết em có nghe anh nói đấy không, Enxalin? - Arsi nói. Và anh thấy Enxalin đang thổn thức, nước mắt đầm đìa trên má.
- Tại sao em khóc, Enxalin? - Arsi hỏi.
Enxalin trả lời:
- Em khóc vì lòng em tràn ngập tình thương yêu anh, Arsi ạ.
- Em hãy nghe bão đang gầm thét ngoài kia. - Anh ta nói. - Nó báo hiệu rằng đường biển sắp thông, tầu bè sắp có thể ra khơi đi về tổ quốc anh. Em hãy nói đi, Enxalin, em có bằng lòng theo anh về bên đó không, để bên em, anh có thể chuộc lỗi với một cô gái khác?
Arsi thì thầm tả cho Enxalin nghe cuộc sống tuyệt diệu đang chờ đón cô. Enxalin nghĩ: "Trời ơi, giá như mình không biết tội ác của anh ấy, để theo anh, và sống hạnh phúc bên anh."
Arsi càng áp mình vào người cô. Và khi Enxalin đưa mắt nhìn lên, cô thấy Arsi đang cúi xuống sắp hôn lên trán cô. Đột nhiên cô nghĩ tới hồn ma mới khi nãy còn ở bên cô và hôn cô. Cô vùng ra khỏi tay của Arsi và kêu lên:
- Không, Arsi, em sẽ không theo anh đâu.
- Có chứ, Enxalin, Arsi đáp. - Em phải đi với anh, nếu không đời anh sẽ chẳng còn gì nữa.
Và anh ta lại thì thầm với cô những lời còn ngọt ngào hơn. Và cô lại nghĩ: " Đối với Chúa cũng như đối với mọi người, để cho anh ấy có thể chuộc tội và trở thành người lương thiện chẳng hay hơn sao? Trừng phạt anh ấy, giết anh ấy thì có ích gì cho ai đâu?
Trong khi Enxalin nghĩ vậy, có vài người đi qua để vào quán rượu. Arsi nhận thấy họ nhìn anh và Enxalin một cách tò mò, anh bèn nói với cô:
- Nào, Enxalin, anh sẽ đưa em về nhà. Không nên để ai biết em đã đến tìm anh trong quán rượu.
Nghe nói thế, Enxalin bỗng đứng thẳng dậy, tựa như cô vừa chợt nhớ ra rằng cô có việc khác cần làm hơn là đứng nghe Arsi nói. Nhưng vừa nghĩ tới việc phải tố giác Arsi, trái tim cô đau nhói, nó nói với cô rằng nếu cô trao Arsi cho đao phủ thì khác nào cô đập nát nó ra.
Arsi choàng chặt cô gái trong chiếc áo khoác của anh và đưa cô ra đường, đi với cô tới tận nhà Tôraranh. Enxalin nhận thấy mỗi lần gió quất quá mạnh, Arsi lại chắn gió cho cô. Suốt dọc đường, Enxalin tự nhủ: "Chị nuôi khốn khổ của mình không biết rằng muốn sửa lỗi và trở thành người tốt."
Còn Arsi thì vẫn không ngớt thì thầm với Enxalin những lời ngọt ngào. Càng nghe Arsi nói, Enxalin càng vững dạ. Cô nghĩ: "Chắc chị mình gọi mình đến chỉ để cho mình nghe thấy những lời này của Arsi. Chị ấy yêu thương mình biết bao, chị ấy không muốn mình bị đau khổ, mà chỉ muốn cho mình được sung sướng".
Đến khi hai người dừng lại trước cửa nhà Tôraranh, Arsi còn hỏi lại một lần nữa rằng cô có muốn theo anh ta về nước không, và Enxalin trả lời rằng với sự giúp đỡ của Chúa, cô sẽ đi với anh.
LINH HỒN ĐAU KHỔ
Ngày hôm sau bão tan. Trời dịu lại song tình hình băng đóng vẫn không thay đổi, mặt biển vẫn bị kẹt như trước.
Vừa thức dậy lúc sáng, Enxalin đã nghĩ: "Điều chắc chắn là để cho kẻ có tội biết ăn năn và chịu sống theo ý Chúa thì tốt hơn là để kẻ ấy bị trừng phạt và bị xử tử".
Sau đó, Enxalin nhận được chiếc xuyến vàng to do Arsi nhờ người mang tới.
Enxalin sung sướng thấy Arsi nghĩ tới chuyện làm cô vui lòng. Cô cảm ơn người liên lạc và nhận món quà. Nhưng khi người ấy đi xa, cô xhợt nghĩ ra rằng Arsi đã mua cho cô chiếc xuyến này bằng những đồng tiền êquy của cụ Arnơ, và thế là cô thấy không còn đủ can đảm nhìn vào món đồ nữ trang này nữa. Cô giật nó ra khỏi cổ tay và ném nó ra a.
"Cuộc đời mình sẽ ra sao nếu như lúc nào mình cũng phải nghĩ rằng mình sống bằng những đồng êquy của cụ Arnơ? Lúc đưa lên miệng bất kỳ miếng ăn nào, chẳng nhẽ mình không nghĩ tới những đồng tiền ăn cướp kia? Lúc mặc một chiếc áo mới chẳng nhẽ mình lại không nghe thấy tiếng thì thào bên tai rằng nó được sắm bằng của bất lương sao? Rõ ràng mình không thể đi theo Arsi và chung sống với anh ấy được. Mình sẽ nói với anh ấy như thế khi anh ất tới thăm mình."
Buổi chiều, Arsi đến nhà Enxalin. Trông anh ta thật tươi tỉnh. Những ý nghĩ u sầu không còn ám ảnh anh ta nữa, và anh ta tưởng nguyên nhận của sự thay đổi dễ chịu này là việc anh ta hứa sẽ đem hạnh phúc đến cho một cô gái để chuộc tội đối với một cô gái khác.
Nhìn thấy anh cà nghe anh nói, Enxalin không dám thú nhận với anh nỗi buồn khổ của cô và việc cô định chia tay với anh. Ngồi bên Arsi, cô quên hết mọi nỗi ưu tư đã dằn vặt cô.
Hôm sau là ngày chủ nhật, Enxalin đến nhà thờ. Cô dự cả lễ buổi sáng lẫn lễ buổi chiều ở đó.
Trong buổi lễ sáng, đang chăm chú nghe mục sư thuyết giáo, bỗng nhiên cô nghe có tiếng ai thổn thức ngay bên cạnh.
Lúc đầu cô tưởng đó là tiếng khóc của người ngồi cùng ghế dài với cô, nhưng nhìn sang phải, rồi sang trái, cô chỉ thấy toàn những bộ mặt trầm tĩnh, đầy vẻ trang trọng.
Tuy vậy cô vẫn nghe rõ tiếng nức nở. Người khóc hình như ngồi sát cô, gần đến nỗi Enxalin tưởng chừng cứ giơ tay là cô có thể chạm phải.
Nghe tiếng khóc than, cô thấy chưa bao giờ có ai biểu lộ nỗi buồn của mình một cách não nuột đến vậy.
"Ai mà đau đớn thảm thiết vậy? Nỗi đau khổ ấy tới mức nào mà làm rơi những giọt nước mắt cay đắng đến thế?" Enxalin tự hỏi.
Cô quay người lại rồi vươn mình nhìn qua ghế bên cạnh cho rõ hơn. Song ở đó cũng vậy, mọi người đều im lặng, chẳng có khuôn mặt nào đầy nước mắt.
Lúc ấy, Enxalin hiểu ra rằng mọi sự tìm kiếm thắc mắc của cô chỉ là vô ích. Tại sao cô không nhận ra ngay từ đầu ai là người khóc than bên cạnh cô nhỉ?
- Chị thân yêu ơi, - cô thì thầm, - tại sao chị không cho em được nhìn thấy chị như hôm kia? Chị hẳn biết rõ rằng em sẽ làm tất cả mọi việc để lau khô nước mắt cho chị.
Cô chờ đợi tiếng trả lời, song chẳng nghe thấy gì cả. Cô chỉ nghe thấy tiếng nức nở của hồn ma ở sát bên cô.
Enxalin cố gắng nghe lời giảng của mục sư, song cô không hiểu ông nói gì. Cô nóng ruột và thì thầm: "Nếu như có một người có đủ lý do để than khóc hơn ai hết thì người đó chính là mình. Giá như chị nuôi mình không báo cho mình biết ai là những kẻ sát hại chị thì mình đã có thể ngồi đây với lòng vui sướng vô hạn."
Và càng nghe tiếng thổn thức của hồn ma, Enxalin càng thấy bất bình. Cuối cùng cô nghĩ: "Làm sao người chị mình đã chết lại có thể buộc mình tố cáo người mình yêu được. Nếu như chị ấy còn sống, chắc chị ấy sẽ không bao giờ chấp nhận một hành động như vậy cả".
Mặc dù phải ngồi lỳ trên ghế băng, Enxalin vẫn không thể ngồi yên. Cô nghiêng người, hết nhìn phía trước lại nhìn phía sau, vặn vẹo đôi tay. "Nỗi khổ tâm này sẽ đeo đẳng mình suốt cả ngày, - cô nghĩ như vậy và mỗi lúc một thêm lo lắng. - Biết đâu rồi đây nó sẽ theo mình suốt cả cuộc đời."
Thế nhưng những tiếng nức nở bên cô lại càng ảo não hơn. Và sau cùng, Enxalin không thể nén lòng được nữa, và cô khóc theo.
"Chị mình khóc lóc thảm thiết như vậy hẳn phải gánh chịu một nỗi đau khổ ghê gớm lắm, - cô nghĩ, - một nỗi đau khổ mà không một người nào có thể hình dung được."
Sau buổi lễ, Enxalinbước ra khỏi nhà thờ, và cô không nghe thấy tiếng khóc nữa. Nhưng trên đường về nhà cô khóc vì nghĩ đến chị nuôi không được yên nghỉ dưới nấm mồ.
Đến giờ lễ chiều, Enxalin lại đi tới nhà thờ, chỉ cốt xem chị cô có cònngồi khóc ở đó nữa hay không.
Cô nghe thấy tiếng hồn ma nức nở ngay từ lúc mới tới cửa và trái tim cô đau thắt lại. Cô thấy kiệt sức. Mối lo lắng lớn nhất của cô lúc này là phải cố giúp đỡ hồn ma đang lang thang không lúc nào được nghỉ ngơi trên trần thế.
Lúc cô ở nhà thờ ra về, trời vẫn còn sáng nên cô nhìn thấy trong số những người đi trước cô có người để lại trên mặt tuyết những dấu chân đẫm máu. Cô tự hỏi: " Ai mà lại nghèo đến nỗi phải đi chân đất, để vết máutrên mặt tuyết vậy nhỉ?"
Tất cả những người đi đằng trước đều có vẻ phong lưu, họ mặc quần áo ấm và chân mang giày dép. Tuy nhiên những vết chân dính máu này vẫn còn mới nguyên. Enxalin nghĩ đó là vết chân của một người đi lẫn giữa đám đông.
"Đó là một người đã bị xây xát vì đã phải đi một chặng đường quá dài. Cầu Chúa che chở cho người ấy sớm tìm được chỗ trú chân để nghỉ ngơi."
Enxalin rất muốn biết ai là người đã phải đi chặng đường vất vả cực nhọc đến thế. Cô liền đi theo những dấu chân ấy, mặc dù làm như thế cô phải tách khỏi con đường về nhà.
Chợt cô nhận ra rằng tất cả những người đi lễ về đều đã đi theo một hướng khác, chỉ còn một mình cô đi trên lối đi này. Song những dấu chân đẫm máu vẫn tiếp tục in trên tuyết.
"Đúng là chị nuôi mình đang đi đằng trước mình đó." - Enxalin nói, đồng thời cũng biết rằng mình vẫn luôn luôn tin như vậy.
"Trời ơi! Chị đáng thương của em, em cứ ngỡ rằng chị chỉ lướt nhẹ trên mặt đất, chân không chạm mặt đường. Thật ra chẳng một người sống sót nào có thể hiểu nổi con đường chị phải đi là nhọc nhằn biết chừng nào".
Nước mắt tuôn rơi lã chã, Enxalin thở dài ngẫm nghĩ: "Ôi! Chắc là chị ấy không được yên nghỉ dưới mồ. Thật đáng giận cho mình đã bắt chị cứ phải lang thang trên trần gian đến nỗi chân bật máu".
Cô kêu lên: "Hãy dừng lại đã chị ơi, dừng lại nghe em nói đã".
Song càng gọi cô thấy những vết chân đẫm máu càng in nhanh hơn trên mặt đất, dường như hồn ma đang bước gấp. "Chị ấy chạy trốn mình, chị ấy không trông mong mình giúp đỡ chút nào". Enxalin nghĩ.
Những dấu máu làm cô phát điên phát dại. Cô kêu lên: "Chị thân yêu ơi, em sẽ làm tất cả những gì chị muốn, để chị có thể yên nghỉ."
Enxalin vừa nói xong thì một người đàn bà cao lớn nãy giờ vẫn đi theo cô bước tới đặt tay lên cánh tay cô.
- Cô là ai mà vừa chạy vừa khóc vậy? - Bà ta hỏi. - Trông cô giống cô gái nhỏ hôm thứ sáu vừa rồi đến gặp tôi xin việc, rồi sau lại biến mất. Có phải chính là cô đó chăng?
- Không, không phải cháu đâu, Enxalin nói. - Nhưng nếu bà là bà chủ quán rượu ở Tòa Thị sảnh thì cháu biết người mà bà vừa nói là ai rồi.
- Vậy cô hãy nói cho tôi biết tại sao cô ấy đã ra đi không trở lại nữa? Người đàn bà hỏi.
Enxalin trả lời:
- Cô ấy ra đi vì cô ấy không muốn nghe câu chuyện giữa những kẻ bất lương đến quán rượu của bà.
- Có rất nhiều chàng trai ngang tàng thường lui tới quán rượu của tôi, song không có kẻ bất lương nào ở đó cả.- bà chủ quán phản đối.
- Thế mà cô gái đó đã trông thấy ba người đàn ông ngồi trong quán rượu nói chuyện với nhau, - Enxalin nói. - Một người trong bọn đã nói: "Uống đi cậu, những đồng êquy của cụ Arnơ vẫn chưa hết đâu."
Nói xong câu này, Enxalin nghĩ: "Tiết lộ điều mình đã nghe thấy, thế là mình đã cứu được chị nuôi của mình rồi. Bây giờ thì cầu Chúa làm cho bà chủ quán đừng tin mình để cho mình khỏi phạm tội gì cả."
Nhưng khi nhìn thấy bà lộ vẻ tin tưởng, cô lại thấy sợ hãi và muốn bỏ trốn.
Song cô chưa kịp cất chân thì bà chủ quán đã giơ bàn tay chắc nịch giữa chặt cô lại.
- Này cô bé, bà nói. - Nếu cô đã nghe những lời nói ấy tại quán của tôi thì cô không có lý do gì bỏ chạy cả. Trái lại cô phải theo tôi tới gặp những người có quyền lực đang muốn bắt gĩư bọn sát nhân để trừng trị.
ARSI CHẠY TRỐN
Enxalin bước vào gian phòng thấp, mình bận chiếc áo choàng dài tiếng về phía bàn Arsi đang ngồi uống rượu với các bạn. Có nhiều khách hàng đang ngồi quanh mấy chiếc bàn đặt trong quán hàng, nhưng cô không chú ý đến ánh mắt ngạc nhiên nhìn theo cô khi cô đến ngồi bên người yêu, Cô chỉ quan tâm đến một điều duy nhất: Arsi chỉ còn được tự do trong vài khoảnh khắc ngắn ngủi nữa thôi, và trong vài khoảnh khắc cuối cùng này cô muốn được ở bên anh.
Thấy Enxalin đến ngồi bên, Arsi bèn đứng dậy đưa cô sang ngồi ở chiếc bàn cuối phòng, lấp sau một cây cột. Enxalin nhận thấy Arsi có ý không hài lòng về việc cô đến tìm anh ở quán rượu, nơi mà thông thường một thiếu nữ không nên có mặt.
- Em chỉ nói chuyện với anh chốc lát thôi, Arsi ạ, - Enxalin nói.- Em muốn anh biết rằng em không thể theo anh về quê hương anh được.
Nghe Enxalin nói vậy, Arsi thấy sợ hãi, vì anh lo rằng nêu anh mất Enxalin, những ỹ nghĩ u tối sẽ trở lại ám ảnh anh.
- Tại sao em lại không muốn theo anh nữa, - Enxalin? Arsi hỏi.
Enxalin ngồi mặt tái xanh như xác chết. Tâm trí cô rối bời đến nỗi cô hầu như không biết cô nên trả lời thế nào.
- Đi theo một anh lính thì có hay ho gì, - cô nói, - ai mà biết được những người như anh ta có giữ lời hứa, có giữ lòng tin hay không?
Arsi chưa kịp cãi lại thì một người thủy thủ bước vào trong phòng, đến bên Arsi và nói anh ta đến đây theo lệnh thuyền trưởng chiếc tầu buồm lớn đang mắc kẹt trong băng sau đảo Klôvê. Thuyền trơprng nhắn Arsi và đồng đội của anh hãy chuẩn bị hành lý và lên tầu ngay tối nay. Bão đã lại nổi lên và biển bắt đầu tan băng về phía tây rất xa. Có thể trước khi trời sáng đã có thể thông lối ra khơi về Xcôtlen.
- Em có nghe anh ta nói gì không, Enxalin?- Arsi quay lại hỏi EnxalinEm có bằng lòng đi theo anh không?
- Không, - Enxalin trả lời. - Em sẽ không đi theo anh đâu.
Nhưng trong thâm tâm cô cảm thấy sung sướng vì cô nghĩ dù sao anh ấy vẫn còn khả năng rời khỏi nơi đây trước khi lính canh kịp đến bắt.
Arsi đứng dậy, đến chỗ Phillip và Rêginan ngồi để báo tin anh ta vừa nhận được.
- Các cậu hãy về quán trọ chuẩn bị đồ đạc trước đi, mình còn phải nói với Enxalin vài lời. - Anh ta nói với các bạn.
Nhìn thấy Arsi quay lại, Enxalin khoát tay làm hiệu bảo anh đi.
- Anh còn quay lại làm gì, Arsi? - Cô kêu lên. - Sao anh không hết sức khẩn trương lên tầu đi?
Enxalin yêu Arsi tha thiết. Cô đã phản anh để giúp người chị nuôi, nhưng cô lại chẳng mong gì hơn là Arsi trốn thoát.
- Trước hết anh muốn một lần nữa xin em đi với anh. - Arsi nói.
- Nhưng anh biết rõ rồi đấy, em không thể đi với anh được. - Arsi ạ, - Enxalin nhắc lại.
- Tại sao thế? Em là một cô gái đơn độc, chẳng có ai lo cho cuộc đời em cả. Ngược lại, nếu em đi với anh, anh sẽ làm cho em trở thành một phu nhân có quyền thế. Anh là một người thuộc dòng dõi sang trọng ở nước anh. Em sẽ mặc lụa là, trang sức bằng vàng ngọc, em sẽ dự các vũ hội trong triều.
Enxalin sợ run lên vì thấy Arsi cứ chần chừ bên cô, trong khi anh vẫn còn có thể trốn thoát. Cô cố gắng lấy lại bình tĩnh để trả lời anh:
- Anh hãy đi ngay đi Arsi, đừng có cố thuyết phục em làm gì cho mất thì giờ nữa.
- Anh muốn tâm sự với em điều này, Enxalin. - Arsi nói mỗi lúc mỗi dịu dàng hơn. - Khi anh nhìn thấy em lần đầu, anh chỉ định dụ dỗ và lừa dối em thôi. Trước đây anh hứa cho em lâu đài và của cải chỉ là để đùa chơi. Nhưng từ tối hôm kia, mọi ý định của anh đối với em đều là chân thực. Và bây giờ anh muốn, anh ao ước em trở thành vợ anh. Em có thể tin lời anh nói là sự thật, cũng như anh là một quý tộc và là một chiến sĩ.
Lúc này Enxalin nghe thấy tiếng nhiều người mang vũ khí đến quảng trường trước Tòa Thị sảnh.
"Nếu mình chịu đi với anh ấy thì anh ấy vẫn có thể thoát được. - Cô nghĩ. - Từ chối anh ấy, tức là mình đẩy anh ấy vào chỗ chết. Chính là vì mình mà anh ấy ở lại đây lâu như vậy để lính canh có đủ thời gian đến bắt anh. Tuy thế mình không thể đi theo kẻ đã giết hại tất cả những người thân yêu của mình."
- Arsi, - cô nói với hy vọng có thể làm anh ta sợ, - anh không nghe thấy tiếng một toán người mang vũ khí đi qua quảng trường đó sao?
- Có, anh có nghe thấy, - Arsi đáp, chắc có một vụ ẩu đả xẩy ra trong quán rượu. Em đừng lo, Enxalin ạ. Đó chỉ là tại có những dân chài cãi nhau vì chuyện không đâu đó thôi.
- Arsi, - Enxalin khẩn khoản nói, - anh không nghe thấy tiếng họ dừng chân lại trước Tòa Thị sảnh hay sao?
Enxalin run từ đầu đến chân, song Arsi không nhận thấy điều đó và vẫn thản nhiên.
- Thế em còn muốn họ dừng lại nơi nào nữa? - Anh ta nói. - Họ phải dẫn vào đấy những kẻ phá rối trật tự để nhốt họ vào ngục tối trong Tòa Thị sảnh chứ? Em đừng để ý đến việc của họ, Enxalin ạ, mà hãy nghe anh, anh van xin em hãy theo anh xuống tầu.
Một lần nữa Enxalin cố làm cho Arsi phải sợ:
- Arsi, anh không nghe thấy bọn lính đang xuống cầu thang vào phòng này hay sao?
- Có chứ, anh có nghe thấy. Chắc họ vào đây uống bia sau khi đã tống giam xong những người bị bắt. Thôi em đừng nghĩ tới họ nữa, Enxalin. Em hãy nghĩ tới việc ngày mai chúng mình sẽ cùng nhau ra khơi trở về quê hương anh.
Enxalin tái xanh như xác chết, toàn thân run rẩy, nói không ra tiếng nữa.
- Arsi, - cô lắp bắp, anh không thấy họ đang nói chuyện với bà chủ quán đằng kia, bên quầy hàng đó sao? Chắc họ hỏi bà ta xem có kẻ nào trong số người họ đi tìm đang ở trong phòng này hay không.
- Họ đang bảo bà chủ dọn cho họ uống thứ rượu mạnh và nóng trong cái đêm gió bão này đó thôi. - Arsi noí. - Em đừng run như vậy, Enxalin, em có thể đi theo anh mà không sợ gì hết. Anh xin cam đoan với em nếu bây giờ cha anh muốn cưới cho anh một cô gái sang trọng nhất ở quê anhg thì anh cũng nhất quyết từ chối. Hãy tin anh, hãy vượt biển với anh. Enxalin, hạnh phúc và niềm vui sé chào đón em.
Mỗi lúc càng có nhiều người lính xuất hiện ở cửa ra vào. Enxalin không còn kìm giữ nổi nỗi lo sợ của mình nữa. "Mình không thể nhìn quân lính bắt anh ấy được" - cô nghĩ vậy rồi nghiêng người về phía Arsi, cô thì thầm:
- Arsi, anh không nghe thấy bọn lính đang hỏi bà chủ quán xem những kẻ đã giết cụ Arnơ có ở đây không à?
Lúc này Arsi mới đưa mắt nhìn quanh căn phòng, anh thấy mấy người lính đang nói chuyện với bà chủ quán, song anh vẫn không đứng dậy chạy trốn như Enxalin mong muốn; anh ngả người về phía Enxalin nhìn cô chằm chằm.
- Enxalin có phải chính cô đã nhận ra tôi và đã tố cáo tôi không? - Anh ta hỏi.
- Em làm việc đó chỉ vì người chị nuôi của em, để chị ấy được yên nghỉ dưới mồ. - Enxalin trả lời. - Chỉ có Chúa mới biết được em phải trả giá việc đó như thế nào. Nhưng anh hãy trốn đi, anh Arsi, anh vẫn còn đủ thời gian, họ chưa chắn hết các lối ra đâu.
- Ôi, con chó sói con, - Arsi nói. - Ngay khi nhìn thấy mày lần đầu tiên trên bến, tao đã nghĩ rằng tao phải giết mày rồi.
Nhưng Enxalin đã đặt tay lên cánh tay Arsi và nói:
- Anh hãy chạy đi anh Arsi. Em không thể chịu đựng nổi cảnh tượng họ bắt anh. Nếu anh không muốn chạy một mình thì nhờ ơn Chúa, em sẽ đi với anh. Nhưng đừng vì em mà ở lại đây lâu hơn nữa, Arsi, em sẽ làm tất cả những gì anh muốn để cứu được tính mệnh anh.
Arsi giận sôi lên, anh ta nói với Enxalin, giọng chua chát:
- Cô gái xinh đẹp ơi, chẳng bao giờ cô có dịp xỏ chân vào đôi giày khiêu vũ thêu chỉ vàng để dạo chơi trong những căn phòng thêng thang của một lâu đài nữa đâu. Suốt cuộc đời này cô sẽ phải ngồi mổ cá ở đây, ở cái đất Marxt'răng này. Sẽ chẳng bao giờ cô lấy được một người chồng có cả một tòa lâu đài và một thái ấp nữa đâu, Enxalin ạ. Chồng cô sẽ chỉ là một anh đánh cá nghèo khổ, và nhà cô sẽ chỉ là một căn lều dựng trên một gò đá trơ trụi.
- Anh không nghe thấy họ đã đặt lính canh ở tất cả các cửa và đã chĩa mũi giáo vào lối đi ở cổng lớn hay sao? - Enxalin hỏi. - Tại sao anh không mau mau thoát khỏi nơi đây? Tại sao anh không mau chạy trốn trên mặt băng và ẩn trên một con tầu?
- Tôi không chạy trốn chỉ vì một lý do là tôi thích ngồi đây tán chuyện với cô, Enxalin ạ. - Arsi nói. - Cô có biết rằng đối với cô thế là hết mọi thú vui rồi không, Enxalin. Cô có biết rằng đối với tôi thế là hết mọi hy vọng chuộc tội rồi không?
- Arsi, - Enxalin thì thầm và hoảng hốt đứng dậy. - Bọn lính canh đã chuẩn bị xong rồi kìa, họ đang đến bắt anh. Anh hãy chạy ngay đi. Em sẽ tới gặp anh trên tầu, Arsi, miễn là anh chạy trốn ngay đi.
- Cô chẳng cần lo lắng như vậy, Enxalin ạ. - Arsi nói. Chúng ta vẫn còn thời gian để nói chuyện. Bọn lính đâu dám nhảy bổ vào tôi ngay, trong phòng này, nơi mà tôi vẫn có thể tự vệ được. Họ định bắt tôi tren cái cầu thang chật hẹp của căn hầm. Họ sẽ định dùng giáo dài đâm tôi đấy. Cô mong đợi cái đó lắm phải không, cô Enxalin?
Enxalin càng sợ hãi bao nhiêu, Arsi càng bình tĩnh bấy nhiêu. Cô không ngừng van vỉ anh chạy trốn, còn anh ta thì vẫn chế giễu cô.
- Cô đừng quá tin rằng họ sẽ bắt được tôi. Tôi đã từng gặp nhiều cảnh ngộ còn nguy ngập hơn thế này, vậy mà tôi vẫn thoát được. Cách đây vài tháng ở Thụy Điển, tôi ở trong một tình thế còn hiểm nghèo hơn. Trong triều đình có vài tên vu cáo đã buộc tội cho đội vệ binh Xcôtlen là bất trung với vua Jăng. Nhà vua đã tin lời chúng. Ngài đã cho bắt ba sĩ quan chỉ huy giam vào pháo đài, đuổi binh lính của họ ra khỏi vương quốc và cho quân giám sát cho đến tận khi đám binh lính ấy ra khỏi biên giới...
- Chạy đi Arsi, - Enxalin cầu khẩn.
- Cô đừng lo cho tôi, Enxalin ạ. Arsi cười độc ác. - Tối nay tôi đã trở lại bình thường như mọi khi. Cô gái kia không hiện lên nữa cho nên tôi vẫn có thể thoát khỏi nguy khốn. Nhưng tôi muốn kể cho cô nghe tiếp câu chuyện ba chàng Xcôtlen bị giam trong ngục của vua Jăng đã. Khi bọn gác ngục đang say, họ đã lẩn ra khỏi pháo đài và trốn thoát. Nhưng chừng nào họ còn ở trong vương quốc của vua Thụy Điển, họ chưa dám tiết lộ tên tuổi của họ. Không có cách gì khác, họ phải lấy da thú để che thân và xưng là thợ thuộc da đi quanh vùng tìm việc làm.
Enxalin đến bây giờ mới nhận thấy Arsi đã thay đổi thái độ đối với cô. Cô hiểu rằng Arsi căm thù cô từ lúc anh ta biết cô đã phản bội anh ta.
- Đừng nói nữa Arsi, - cô nói.
- Tại sao lại đánh lừa tôi trong khi tôi tin cô biết chừng nào. - Arsi nói. - Bây giờ tôi lại thành người như trước kia rồi. Tôi chẳng băn khoăn là phải tha chết cho ai nữa. Cô sẽ thấy tình hình sắp kết thúc có lợi cho tôi, như trước đây vẫn thường thế. Khi tôi và các bạn tôi đi xuyên qua nước Thụy Điển và đến đây, trên bờ biển này, tình thế của chúng tôi chẳng nguy ngập hay sao? Chúng tôi không có tiền để sắm quần áo nghiêm chỉnh. Chúng tôi không có tiền để trả cho một cuộc hành trình về Xcôtlen. Chúng tôi không còn cách nào khác là cướp số êquy của nhà giáo sĩ ở Xonberga.
- Anh đừng nóichuyện đó nữa. - Enxalin ngắt lời.
- Nói chứ, Enxalin. Cô phải nghe tôi nó đến hết. Có một điều mà cô không biết, trước tiên chúng tôi đánh thức cụ Arnơ dậy, bảo cụ đưa tiền cho chúng tôi. Nếu như cụ ưng thuận thì chúng tôi sẽ không làm gì cụ cả. Ngưng cụ chống lại, vì thế chúng tôi buộc phải hạ sát cụ. Và sau khi giết cụ, tất nhiên chúng tôi phải giết tất cả người nhà của cụ.
Enxalin không ngắt lời Arsi nữa, nhưng cô thấy lòng cô lạng giá như một bãi sa mạc, cô run lên khi nghe Arsi nói nét mặt ngày càng tàn bạo khát máu. Cô tự nhủ: "Mình đang làm gì thế này? Mình thật điên rồ khi đi yêu một kẻ đã giết tất cả những người thân yêu của mình. Cầu Chúa hãy tha tội cho con."
- Khi chúng tôi tưởng mọi người chết hết, - Arsi tiếp tục nói, chúng tôi đã kéo cái rương tiền ra khỏi nhà rồi chúng tôi nổi lửa, để thiên hạ tưởng rằng cụ Arnơ bị chết cháy trong nhà.
"Mình đã yêu một con chó sói hung dữ, - Enxalin nghĩ, - thế mà mình đã muốn cứu hắn thoát khỏi sự trừng phạt."
- Thế rồi chúng tôi vội vàng vượt băng đi ra biển. Chúng tôi rất yên tâm khi ngọn lửa vẫn bốc cao, nhưng khi thấy nó lụi đi thì chúng tôi bắt đầu thấy sợ. Chúng tôi đoán rằng người ta đã đến cứu, dập tắt đám cháy và sắp đuổi theo chúng tôi. Chúng tôi bèn quay chiếc xe trượt để trở lại đất liền, nơi chúng tôi đã nhận ra một cửa sông phủ một lớp băng mỏng. Chúng tôi lôi rương tiền ra khỏi xe rồi thúc ngựa kéo xe về phía cửa sông, và lớp băng đã vỡ sụt dưới chân ngựa. Chúng tôi nhảy lên mép băng, mặc cho con ngựa chết đuối, Enxalin, nếu cô không phải là một cô gái, cô sẽ hiểu rằng đó là một hành động rất dũng cảm, chứng tỏ rằng chúng tôi thật đáng mặt nam nhi.
Enxalin vẫn lặng người không nói. Tim cô đau nhói. Nhưng bây giờ Arsi căm thù cô và thích làm cho cô đau khổ.
- Sau đó chúng tôi đã cởi thắt lưng buộc vòng quanh cái rương để kéo nó đi. Song vì nó để lại vết trên mặt băng nên chúng tôi phải bẻ cành thông để lót xuống dưới. Chúng tôi cởi giày đi chân đất, để thiên hạ khỏi tìm thấy dấu vết chúng tôi.
Arsi dừng lại nhìn Enxalin bằng con mắt diễu cợt:
- Mặc dù chúng tôi đã đi thoát, tình cảnh chúng tôi vẫn gay go. Dù đi đến đâu chăng nữa, với những bộ quần áo bê bết máu, người ta sẽ nhận ra và bắt chúng tôi. Nhưng cô nghe tôi nói chứ, Enxalin, để rồi cô bảo cho những người săn đuổi chúng tôi biết rằng không dễ mà bắt được những chàng trai như chúng tôi đâu. Cô hãy nghe điều này nữa, trong khi chúng tôi vượt băng để đến Marxt'răng, chúng tôi đã gặp được những người bạn đồng hương của chúng tôi, chính là những người đã bị vua Jăng đuổi khỏi Thụy Điển, nhưng vì biển đóng băng nên chưa thể rời Marxt'răng được. Họ giúp chúng tôi qua cơn nguy khốn và kiếm quần áo cho chúng tôi mặc Từ đó chúng tôi sống yên ổn ở Marxt'răng. Và nếu như cô không bất tín đánh lừa tôi thì sẽ chẳng có mối nguy nào đe dọa chúng tôi cả.
Enxalin vẫn câm lặng. Cô đau đớn quá. Cô cảm thấy tim cô hầu như ngừng đập.
Nhưng Arsi đã đẩy ghế đứng dậy và thét:
- Và ngay cả tối nay cũng chẳng thể có điều gì không hay xảy ra cho chúng tôi cả, Enxalin ạ.
Vừa nói anh ta vừa dang tay nhấc bổng Enxalin lên. Giơ cô trước mặt mình như một cái lá chắn, Arsi chạy qua gian phòng thấp tiến về phía cửa. Mấy người lính gác cửa chỉa mũi giáo nhọn về phía Arsi, nhưng không dám đâm vì sợ làm bị thương Enxalin.
Khi Arsi chạy tới cầu thang hẹp, anh ta vẫn giơ Enxalin về phía trước như vậy. Cô che cho anh ta còn vững hơn một chiếc áo giáp tốt nhất, bởi vì những người lính gác lối đi không thể sử dụng vũ khí của mình. Cứ như thế, Arsi lên gần hết cầu thang, và Enxalin đã cảm thấy gió lạnh ngoài trời thổi vào mặt.
Cô không còn yêu Arsi chút nào nữa. Một mối tử thù dâng trào xâm chiếm lòng cô, và cô chỉ còn thấy Arsi là một tên sát nhân ghê tởm. Thấy hắn sắp chạy thoát vì dùng người cô để che chở cho hắn, cô giơ tay nắm lấy một mũi giáo của người lính gác, chĩa thẳng mũi nhọn vào tim mình. "Rút cục, mình muốn xử sự sao cho hành động của mình giúp ích cho chị nuôi của mình.." - Enxalin nghĩ vậy. Và khi Arsi chạy thêm một bước nữa trên cầu thang, mũi giáo xuyên vào tim Enxalin.
Arsi đã lên hết cầu thang, những người lính lùi lại khi nhìn thấy Enxalin bị thương, và thế là kẻ sát nhân trốn thoát.
Khi Arsi chạy tới quảng trường, anh ta nghe thấy tiếng kêu vọng tới từ một phố nhỏ:
- Cứu lấy người anh em! Cứu lấy người anh em! Vì Xcôtlen! Vì Xcôtlen!
Đó là Phillip và Rêginan đã kịp tập họp đám lính Xcôtlen và cùng họ chạy tới cứu Arsi.
Arsi lao về phía họ, kêu vang lên:
- Đến đây! Đến đây! Vì Xcôtlen! Vì Xcôtlen!
TRÊN BĂNG
Arsi chạy trên băng, tay vẫn giữ chặt Enxalin.
Phillip và Rêginan quây lấy hắn, họ muốn kể cho hắn nghe họ đã phát hiện ra âm mưu vây bắt, đã chuyẻn được cái rương nặng đựng những đồng êquy lên tầu và đã tập họp được bọn đồng hương ra sao. Song Arsi không để ý nghe họ nói.
- Cậu mang ai trong tay vậy? - Rêginan hỏi.
- Enxalin đấy, - Arsi trả lời. Mình sẽ đưa cô ấy về Xcôtlen. Mình không muốn để cô ấy ở lại đây sau khi mình đi. Ở đây mãi mãi cô ấy sẽ chỉ là một cô gái mổ cá nghèo.
- Chắc như vậy rồi. - Rêginan nói.
- Ở đây cô ta sẽ chỉ được mặc đồ len thô, cô ta sẽ chỉ được ngủ trên những chiếc giường chật hẹp, trên những tấm váv cứng. Còn mình, mình sẽ đặt cô ấy trên những tấm đệm êm ái nhất, mình sẽ mua cho cô ấy một chiếc giường bằng cẩm thạch. Mình sẽ choàng vào người cô ấy những chiếc áo lông quý, đi vào chân cô ấy những đôi giầy đính kim cương.
- Cậu định đem lại cho cô ấy vinh hạnh lớn, - Rêginan nói.
- Mình không thể để cô ấy lại đây được. - Arsi nói tiếp. - Ai hơi đâu mà chăm lo cho một cô gái nghèo như vậy. Chẳng mấy lúc cô ấy sẽ bị mọi người bỏ rơi. Sẽ chẳng có ai đến nhà thăm cô ấy cả, sẽ chẳng có ai đến chia sẻ nỗi cô đơn của cô. Nhưng một khi mình về đến quê hương mình, mình sẽ xây cho cô ấy một tòa nhà tuyệt đẹp. Tên của cô ấy sẽ được khắc trên đá cứng đế người ta không bao giờ quên cô. Ngày nào mình cũng sẽ đến với cô, và xung quanh cô sẽ là một cảnh tượng lộng lẫy khiến những người ở tận xa cũng phải đến thăm cô. Đèn nến sẽ được thắp suốt ngày đêm, những lời ca điệu nhạc sẽ vang lên như trong một đám lễ hội vĩnh cửu.
Bão thổi tạt vào mặt những người đang bước trên băng; bão giật chiếc áo choàng của Enxalin làm nó bay như một lá cờ.
- Cậu mang Enxalin giúp mình một lát để mình sửa lại áo choàng cho cô ấy. - Arsi nói.
Rêginan đỡ lấy Enxalin, nhưng vừa ôm cô trong cánh tay, anh ta giật mình sợ hãi đến nỗi buông thõng tay làm Enxalin rơi tuột xuống băng.
- Enxalin chết rồi mà mình không biết. - Rêginan nói.
TIẾNG SÓNG XÔN XAO
Suốt đêm thuyền trưởng chiếc tầu buồm lớn đi đi lại lại mãi trên boong. Trời u ám, gió giật lồng lộn; đem lại những cơn lốc tuyết và mưa xối xả. Thế nhưng băng vẫn cứng ngắc quanh tầu. Nhẽ ra thuyền trưởng có thể vào ngủ yên trong cabin của ông. Song ông vẫn đứng suốt đêm. Thỉnh thoảng ông lại khum khum bàn tay đặt vào tai để nghe ngóng.
Thật khó mà biết được ông định lắng nghe cái gì.
Tất cả thuỷ thủ và hành khách đi Xcôtlen đã lên tầu. Lúc này họ đã nằm ngủ trong khoang giữa hai boong. Thuyền trưởng có thể muốn nghe những câu chuyện giữa họ với nhau. Khi cơn bão điên cuồng ập đến con tầu bị kẹt thì như thường lệ nó xô quật dữ dội như để đẩy thuyền ra khơi. Nhưng con tầu không nhúc nhích, gió bão càng đập mạnh hơn. Những cục băng dính trên buồm, chão, dây dợ va vào nhau. Mạn thuyền kêu răng rắc, rít trèo trẹo dưới sức gió ép và cột buồm phát ra những tiếng kêu khô khốc như sắp gãy gục trước những đợt tấn công dữ dội của gió bão.
Đêm ấy không lúc nào yên tĩnh. Đôi khi trong không gian có tiếng tuyết rít nhè nhẹ, nhưng khi mưa ập tới thì những tiếng lộp bộp, rào rào vang lên.
Những kẽ nứt trên băng nhiều dần lên, va người ta nghe như thấy tiếng đại bác của những đoàn tầu chiến đánh nhau ngoài khơi.
Nhưng thuyền trưởng không để tai nghe những tiếng động ấy. Ông đứng suốt đêm, đến tận khi rạng đông tỏa mờ mờ phía chân trời, thế nhưng ông vẫn chưa nghe thấy tiếng mà ông muốn nghe.
Cuối cùng, một tiếng rì rào đều đều ngân nga vang lên trong bóng tối, tiếng rì rào dìu dịu vuốt ve tựa như tiếng hát từ xa.
Thế là thuyền trưởng bắt đầu chạy, ông trèo qua những chiếc ghế dài dùng để ngồi chèo đặt giữa con tầu, nơi các thủy thủ đang nằm ngủ.
- Dậy đi. - Ông kêu lên. - Nắm lấy sào, cầm lấy chèo, giờ thoát thân của chúng ta sắp đến rồi. Ta đã nghe thấy tiếng gầm rống của băng tan, Ta đã nghe thấy tiếng reo của sóng nước.
Mọi người choàng dậy. Ai nấy vội vàng chạy về vị trí của mình dọc theo con tầu trong ánh bình minh đang lên chầm chậm.
Khi trời đã sáng rõ để có thể thấy tình hình đã xẩy ra trong đêm vừa qua thì rõ ràng là băng đã tan trong các vịnh, các eo biển ra tận ngoài khơi. Nhưng rong cái vịnh mà chiếc tầu buồm này đang bị giam chân, mặt băng không có đến một kẽ nứt nhỏ, nó vẫn phẳng lì và rắn chắc.
Một bức tường băng lớn đứng sừng sững trong eo biển trấn cửa vịnh. Ở phía bên ngoài, những làn sóng đã nô đùa thỏa thích, liên tiếp những tảng băng nổi bập bềnh va vào bức thành băng.
Ở xa hơn nữa, vô số cánh buồm chen chúc nhau trong một eo biển. Tất cả những người đáng cá bị băng giữ lại ở Marxt'răng đang hối hả ra khơi. Biển đang nổi sóng, và những mảng băng vẫn còn dập dềnh. Nhưng dân chài lưới không muốn đợi đến lúc bão tan hẳn nên họ đã nhanh chóng lên đường. Họ đứng trước mũi thuyền, chăm chú quan sát các đợt sóng. Họ dùng mái chèo gạt những cục băng nhỏ ra xa. Nhưng khi có những tảng băng lớn xô đến trước mặt, họ quay bánh lái cho thuyền chuyển sang hướng khác.
Thuyền trưởng chiếc tầu buồm trèo lên boong thượng, nhìn dõi theo những con thuyền đánh cá. Ông thấy lối đi của họ thật nguy hiểm, song họ cũng lần lượt thoát và ra gần tới biển khơi.
Đứng ngắm cánh buồm đang lướt về phía mặt nước xanh, thuyền trưởng ao ước cũng được ra đi đến trào nước mắt.
Vậy mà tầu của ông vẫn không nhúc nhích. Và trước mặt ông băng vẫn chồng chất thành một bức tường ngày càng cao.
Ở nơi xa khơi, không phải chỉ có những tầu thuyền đang lênh đênh trên sóng, mà còn có những núi băng nhỏ trắng toát trrôi bập bềnh. Đó là những tảng băng lớn bị dồn dập va vào nhau, và lúc này chúng đang trôi dạt về phương nam. Dưới ánh mặt trời sớm mai, chúng lấp lánh như bạc và đôi khi ánh hồng lên, tựa như chúng được phủ một lớp hoa hồng.
Chen vào tiếng gió bão ầm ầm có những tiếng gọi dội lên. Khi thì chúng hóa thàng một tiếng hát du dương, khi thì chúng vang ầm ầm như tiếng kèn đồng. Những tiếng gọi ấy thức tỉnh niềm vui, dường như mọi trái tim đều mở rộng để lắng nghe chúng. Cúng phát ra từ những đôi cánh của bầy thiên nga đang từ phương nam xa xăm bay tới.
Khi thuyền trưởng thấy những núi băng trôi về phương nam, và đàn thiên nga bay về phương bắc, ông cảm thấy khát khao được ra khơi đến nỗi ông bất giác vặn vẹo đôi tay. Ông nói: "Thật khổ cho ta vẫn còn phải giam chân ở đây. Đến khi nào băng mới tan trong vịnh nhỉ? Ta còn phải chờ đợi bao nhiêu ngày nữa?"
Đang lúc mông lung suy nghĩ như vậy, ông nhìn thấy một người đàn ông đánh xe trượt băng đi tới. Người này đến từ một eo biển hẹp trong vùng Marxt'răng. Bác ta lướt trên băng không chút do dự, như không hề biết rằng sông đã chở tầu thuyền đi.
Khi đến bên chiếc tầu buồm, bác ta ngẩng đầu lên gọi thuyền trưởng:
- Này ông bạn thân mến, bị kìm chân giữa lớp băng này ông đã có gì ăn chưa? Ông có muốn mua cá mòi muối, các thu khô hay trạch hun khói không?
Thuyền trưởng không thèm trả lời, ông giơ nắm đấm lên và buột ra một tiếng rủa.
Bác hàng cá bèn nhảy xuống xe, mang đặt trước con ngựa của bác một bó cỏ khô, rồi trèo lên boong chiếc tầu buồm.
Đến bên thuyền trưởng, bác nói bằng một giọng nghiêm trang:
- Hôm nay tôi đến đây không phải để bán cá đâu. Song, tôi biết ông là một con người lương thiện, kính Chúa. Vì thế tôi xin ông hãy giúp tôi tìm một cô gái mà hôm qua bọn lính đánh thuê người Xcôtlen đã mang lên tầu ông.
- Tôi không hề biết có cô gái nào được đưa lên tầu tôi cả, - thuyền trưởng trả lời. - Đêm qua tôi không nghe thấy tiếng phụ nữ nào ở đây.
- Tôi là Tôraranh, làm nghề bán cá, - bác ta lại nói. Chắc ông cũng đã nghe nói về tôi. Chính tôi đã ăn tối với cụ Arnơ ở Xonberga cái đêm cụ bị giết hại. Từ dạo đó tôi nuôi cô cháu nuôi của cụ Arnơ trong nhà tôi. Nhưng tối qua cô ấy đã bị bọn người giết cụ Arnơ bắt, và chắc chắn là chúng đã đưa cô ấy lên tầu này.
- Vậy thế bọn giết cụ Arnơ đang ở trên tầu của tôi à? - Thuyền trưởng thốt lên sợ hãi.
- Ông cũng biết tôi là một kẻ thân nghèo phận hèn. - Tôraranh đáp. - Tôi bị liệt một cánh tay nên rất ngại chẳng dám liều mình làm một việc mạo hiểm. Từ hai tuần nay tôi đã biết ai là những kẻ giết cụ Arnơ, nhưng tôi không dám trả thù họ. Chính vì tôi chậm trễ như vậy nên chúng đã trốn thoát và có dịp bắt đi cô gái ấy. Bây giờ tôi đã quyết định không thể để tự mình phải trách móc dằn vặt trong việc này nữa, ít ra tôi cũng phải cố cứu lấy cô gái.
- Nếu như bọn sát nhân đang ở trên tầu này thì tại sao đội lính canh không đến đây bắt chúng?
- Tôi đã cầu xin van nài họ suốt cả đêm qua, và cả sáng nay nữa, song họ không dám mạo hiểm đến đây. Họ nói rằng ở đây có hàng trăm lính đánh thuê đụng đầu với chúng thì rất nguy hiểm. Cho nên tôi nghĩ rằng nhờ ơn Chúa, tôi phải đến đây một mình để xin ông giúp tôi tìm cô gái, vì tôi biết ông là một người kính Chúa.
Song thuyền trưởng lại không hề quan tâm đến chuyện cô gái. Ông chỉ ngĩ đến bọn sát nhân.
- Tại sao bác biết rằng bọn sát nhân đang ở trên tầu tôi? - Ông hỏi.
Tôraranh đưa tay chỉ cái rương lớn bằng gỗ xồi đặt giữa những chiếc ghế dài dùng để ngồi chèo thuyền:
- Đã bao lần tôi nhìn thấy chiếc rương này ở nhà cụ Arnơ rồi nên tôi không thể nhầm lẫn được. - Tôraranh đáp. -Nó đựng những đồng êquy của cụ Arnơ, va những đồng tiền ấy ở đâu thì tất nhiên bọn sát nhân phải ở đó.
- Cái rương này là của Arsi và hai anh bạn của hắn tên là Phillip và Rêginan, - thuyền trưởng nói.
- Đúng, - Tôraranh nhìn thẳng vào mắt thuyền trưởng đáp. Cái rương ấy là của Arsi, Phillip và Rêginan.
Thuyền trưởng đưa mát nhìn xung quanh rồi mới lên tiếng hỏi:
- Vậy theo bác khi nào băng mới tan trong vịnh?
- Năm nay ở đây xẩy ra điều kỳ lạ. - Tôraranh trả lời. - Thường thường vịnh này được thông rất sớm vì dòng nước ở đây chảy rất mạnh. Nhưng trong tình trạng hiện tại thì ông phải chú ý để khỏi bị ép vào bờ khi băng bắt đầu nhúc nhích.
- Tôi cũng chỉ lo chuyện đó. - thuyền trưởng đáp. Rồi ông lại im lặng hồi lâu mắt hướng nhìn ra biển.
Mặt trời buổi sáng rực rỡ trên cao, tỏa những tia nắng lấp lánh trên sóng nước. Những tầu bè đã được tự do đang lướt về khắp các ngả, những con chim biển từ phương nam bay về cất tiếng kêu vui mừng. Cã lượn lờ ngang mặt nước, thỉnh thoảng quẫy vọt lên cao, lóng lánh trên sóng, như say sưa sau một thời gian dài bị giam hãm dưới băng. Những con mòng biển trước đây phải kiếm ăn xa tít ngoài mép băng nay trở về đất liền từng đàn để kiếm ăn nơi quen thuộc.
Thuyền trưởng bồn chồn trước cảnh tượng đó. Ông nói: " Vậy ra ta là bè bạn của những kẻ sát nhân, những kẻ bất lương ư? Ta có nên nhắm mắt để khỏi thấy vì sao Chúa đóng cửa biển hãm tầu ta lại không? Ta có nên chết cho bọn sát nhân trên tầu ta không?"
Nghĩ vậy, ông nói với các thủy thủ:
- Bây giở thỉ ta biết vì sao chúng ta bị giam chân trong khi mọi tầu bè khác đã được ra khơi. Đó là vì một bọn sát nhân, một bọn bất lương đang ở trên tầu của chúng ta.
Nói rồi thuyền trưởng đến gặp bọn lính Xcôtlen vẫn đang ngủ trong khoang giữa hai boong tầu. Ông nói với họ:
- Hỡi các bạn! Các bạn hãy nằm yên một lát nữa dù các bạn có nghe thấy tiếng kêu, tiếng động nào trên tầu. Chúng ta phải vâng theo những lời cảnh cáo của Chúa và không được dung túng cho những kẻ bất lương đang ở bên chúng ta. Nếu các bạn chịu nghe tôi, tôi hứa sẽ cho chuyển đến chỗ các bạn cái rương đựng những đồng êquy của cụ Arnơ, để các bạn có thể chia nhau.
Rồi ông quay lại nói với Tôraranh:
- Bác hãy quay về xe và quăng cá của bác ra ngoài đi. Bác sẽ phải chở một thứ khác đó.
Sau đó thuyền trưởng và các thủy thủ xông vào buồng của Arsi và hai bạn hắn. Họ trói chặt cả ba tên Xcôtlen còn đang ngủ say.
Khi ba tên tỉnh dậy định chống lại, các thủy thủ liền dùng rìu và giáo đánh chúng. Thuyền trưởng nói:
- Chúng mày là những kẻ sát nhân, những kẻ bất lương. Làm sao chúng mày dám tin là sẽ thoát khỏi lưới trời? Chúng mày không hiểu rằng vì chúng mày mà Chúa đã đóng cửa biển lại hay sao?
Lú đó ba tên cố gọi to đồng bọn đến cứu. Song thuyền trưởng nói:
- Thôi, chúng mày đừng gọi nữa, họ sẽ không đến đâu.Ta đã cho họ những đồng êquy của cụ Arnơ để họ chia nhau rồi và hiện họ đang bận lấy mũ đong tiền. Chúng mày đã phạm tội ác vì những đồng êquy này, và cũng vì những đồng tiền ấy mà chúng mày bị trừng phạt.
Tôraranh chưa kịp gỡ hết cá ra khỏi xe thì thuyền trưởng cùng các thủy thủ đã từ trên tầu bước xuống mặt băng. Họ dẫn theo ba người bị trói gô, thân mình trông thật thảm hại vì bị đánh, và những vết thương đã làm cho chúng yếu đi.
- Chúa đã không hoài công mà gọi bảo ta, - thuyền trưởng nói. - Ngay khi ta biết được ý Người, ta đã vâng theo lời Người.
Họ lôi ba tên tù lên xe trượt của Tôraranh, và Tôraranh chở chúng về tận Marxt'răng qua những vịnh hẹp và những eo biển còn bị đóng băng.
Đến chiều thuyền trưởng trèo lên tầng thượng của con tầu và nhìn ra biển. Song vẫn chẳng có gì thay đổi quanh con tầu. Bức tường băng vẫn mỗi lúc một cao hơn.
Bỗng ông nhận ra một đoàn người rất đông đang tiến về phía con tầu của ông. Đó là toàn thể những người phụ nữ ở Marxt'răng cả già lẫn trẻ. Họ mặc đồ tang và dẫn theo vài thiếu niên đang khiên một cái cáng.
Khi đến bên con tầu, họ nói với thuyền trưởng:
- Chúng tôi đến đây để tìm một cô gái đã chết. Bọn sát nhân đã thú nhận rằng cô ấy đã hy sinh tính mệnh để chúng không thể thoát khỏi sự trừng phạt. Tất cả phụ nữ ở Marxt'răng chúng tôi đến đây tìm cô gái ấy để rước về thành phố của chúng tôi với tất cả vinh dự xứng đáng với cô ấy.
Họ tìm thấy Enxalin. Họ đưa cô lên bờ và mang về Marxt'răng. Tất cả phụ nữ đều khóc cô, người đã yêu một kẻ bất lương, và lại hiến cả cuộc sống của mình để đẩy người yêu dấu của mình đến chỗ chết.
Trong khi đoàn phụ nữ trở về Marxt'răng thì gió bão và sóng biển liền phá vỡ mặt băng mà họ vừa bước chân qua. Và khi họ đưa Enxalin về đến thành phố, mặt biển cũng bắt đầu hoàn toàn thông tầu bè.
TÔ CHƯƠNG dịch
--------------------------------
1 Cực hình trong đó tội nhân bị đập gãy chân rồi trói vào bánh xe.
Chiếc Xe Của Thần Chết Chiếc Xe Của Thần Chết - Selma Lagerlöf Chiếc Xe Của Thần Chết