Love is always within. When you try to dramatize your love, you lose the depth of the love.

Charan Singh

 
 
 
 
 
Tác giả: Philip Pullman
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Golden Compass
Dịch giả: Nhật Thu
Biên tập: Gió
Upload bìa: Little rain
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6 - Người Bay Phát Sáng
rumman ư?” Người thương nhân có bộ râu đen nói. “Từ Viện Hàn lâm Berlin á? Tôi không để ý lắm. Cách đây năm năm tôi gặp ông ta ở phía bắc cuối đất Urals. Tôi nghĩ là ông ta đã chết rồi.”
Sam Cansino, một ông già bí hiểm và cũng là người Texas giống như Lee Scoresby, đang ngồi một bên quầy rượu đầy khói phun ra sau ly rượu vodka lạnh ngắt. Ông đẩy nhẹ đĩa cá dầm và bánh mì đen về phía Lee. Lee gật đầu với Sam ý nói hãy nói thêm nữa cho mình nghe.
“Ông ta đi vào cái bẫy nơi mà thằng khờ Yakovlev đã nằm lại,” người thương nhân lại tiếp tục. “Ông ta cắt chân mình để hở xương ra. Thay vì sử dụng những loại thuốc thông thường, ông ta khăng khăng dùng thứ mà bọn gấu đã dùng—nhựa rêu—một loại địa y, nó không hoàn toàn là rDù sao thì, ông ta nằm trên chiếc xe trượt tuyết, kêu rống lên vì đau và đưa ra những chỉ dẫn cho người của ông ta—họ đang định hướng bằng các vì sao. Họ phải đo thật đúng nếu không thì lại bị ông ta mắng nhiếc. Lưỡi ông ta như có ngạnh vậy. Một người đàn ông thông minh, bền bỉ, quyền lực và tò mò về mọi thứ. Thoạt đầu anh có nghĩ ông ta là người Tartar không?”
“Tôi không biết,” Lee Scoresby vừa nói vừa đổ thêm rượu vào cốc của Sam. Nhân tinh Hester của ông thu mình trên khuỷu tay đặt trên bàn của ông, mắt nó vẫn khép hờ như thường, đôi tai trải dài ra sau lưng.
Lee đã tới nơi vào buổi chiều hôm đó, tới gần Nova Zembla nhờ cơn gió mà các phù thuỷ đã triệu tập giúp, sau khi đã thu xếp dụng cụ của mình ông đi thẳng tới khách sạn Samirsky, gần trạm đóng gói cá. Đây là nơi những người Bắc Cực sống lang thang dừng lại để trao đổi tin tức hay kiếm việc hoặc nhắn tin cho ai đó. Hồi trước Lee Scoresby cũng đã từng ở đây vài ngày để đợi một cơn gió nhẹ, vậy nên không có gì khác thường trong cách cư xử của ông hiện giờ cả.
Với những thay đổi to lớn mà họ có thể cảm nhận được ở thế giới xung quanh mình, mọi người tụ tập và bàn tán là điều rất tự nhiên. Cứ mỗi ngày lại càng nhiều tin tức mới: vào thời gian này trong năm, con sông Yenisei đã hết đóng băng, một phần của đại dương đã cạn phơi bày ra những kết cấu lạ của đá dưới đáy biển, một con mực ống dài ba mươi mét rưỡi đã hất được ba người đánh cá ra khỏi thuyền của họ và xé xác họ ra...
Sương mù vẫn tiếp tục xoay tròn từ phía bắc, dày đặc và lạnh, thỉnh thoảng lại được thấm đẫm bởi thứ ánh sáng lạ lùng nhất, hình dáng của nó có thể lờ mờ trông thấy, nghe những giọng nói thần bí quẩn quanh.
Tất cả hợp lại khiến cho thời điểm này thật không tốt để đi làm và đó chính là lý do tại sao quán rượu của khách sạn Samirsky lại đông nghẹt như thế này.
“Anh nói rằng Grumman?” một người đàn ông ngồi dọc phía quầy rượu hỏi - người trong bộ quần áo săn hải cẩu, có con nhân tinh là chuột Bắc Cực đang ngó ra từ túi của anh ta vẻ rất nghi ngờ. “Ông ta là người Tartar đấy. Tôi đã ở đấy khi ông ta gia nhập bộ lạc. Tôi thấy ông ta có cái đầu bị khoan. Ông ta còn có tên khác nữa, một tên của người Tartar, tôi sẽ nhớ ra ngay thôi mà.”
“Chà, vậy đi,” Lee Scoresby nói. “Để tôi mua cho anh một ít đồ uống nữa nhé, bạn của tôi. Tôi đang thu thập tin tức về người đàn ông đó. Ông ta đã gia nhập bộ lạc như thế nào thế?”
“Bộ lạc Yenisei Pakhtar. Ở chân dãy Semyonov. Gần một nhánh của Yenisei và, tôi quên mất nó được gọi là gì rồi, một con sông chảy từ trên đồi xuống. Ở đó có một tảng đá to cỡ một ngôi nhà.”
“À, rõ rồi,” Lee nói. “Tôi nhớ ra nó rồi. Tôi đã bay qua đó. Anh nói là Grumman có cái đầu bị khoan à? Tại sao vậy?”
“Ông ta là một pháp sư, tôi nghĩ là bộ lạc này nhận ra ông ấy là một pháp sư trước khi họ nhận ông ta vào bộ lạc. Họ có làm vài công việc như là khoan lỗ trên đầu. Nó được tiến hành trong hai đêm và một ngày. Họ dùng cái dùi hình cung, giống như kiểu que mồi lửa ấy.”
“À, cái đó còn tùy vào cách mà những người của ông ta tuân lệnh của ông ta nữa.” Sam Casino nói. “Họ là những gã hung dữ nhất tôi từng thấy đấy, nhưng họ chỉ đi quanh là làm những việc theo mệnh lệnh của ông ta như những đứa trẻ hay lo lắng vậy. Tôi nghĩ là do lời nguyền của ông ta. Nếu họ nghĩ ông ta là một pháp sư thì sẽ có thể ý thức rõ hơn. Nhưng anh biết đấy, nỗi tò mò của con người mạnh mẽ như là hàm sói vậy, ông ta sẽ không bỏ qua đâu. Ông ta bắt tôi phải kể từng mẫu thông tin dù là nhỏ nhất về những vùng đất gần đó, cả về thói quen của chồn gu-lô và cả cáo nữa. Ông ta bị đau do cái bẫy chết tiệt của Yakovlev; cái chân vẫn hở xương, ông ta đã viết ra những tác dung của nhựa rêu, do nhiệt độ, quan sát vết sẹo hình thành, ông ta viết ra tất cả những thứ chết tiệt đó... Một người kỳ lạ. Có một phù thuỷ muốn được làm người tình của ông ta, nhưng ông ta đã khiến cô ấy thất vọng.”
“Thật vậy sao?” Lee hỏi, ông nghĩ ngay về Serafina Pekkala xinh đẹp.
“Ông ta không nên làm như vậy,” người săn hải cẩu nói. “Nếu một phù thuỷ đề nghị anh yêu cô ấy thì anh nên nhận lời. Nếu không, những việc xảy ra đối với anh sẽ hoàn toàn là lỗi của anh. Giống như là lựa chọn: sung sướng hay bị nguyền rủa. Và anh không có quyền không chọn cả hai.”
“Chắc ông ta có lý do,” Lee nói.
“Nếu ông ta có chút ý thức nào, ắt hẳn nó tốt lắm đấy.”
“Ông ta thật cứng đầu,” Sam Casino nói.
“Có thể ông ấy chung thuỷ với 1 người phụ nữ khác,” Lee đoán. “Tôi lại nghe được điều khác về ông ta; nghe nói ông ta biết được nơi chứa vật có phép thuật, tôi không biết được liệu nó là cái gì nhưng nó có thể bảo vệ bất cứ ai có nó. Các anh đã bao giờ nghe câu chuyện đó chưa?”
“Tôi cũng được nghe rồi,” người săn hải cẩu nói. “Ông ta không có nó, nhưng ông ta biết được vị trí của nó. Có một người đã thử làm cho ông ta nói ra, nhưng Grumman đã giết gã.”
“Nhân tinh của ông ta hiện giờ,” Sam Casino nói. “Tò mò thật, nó là một con đại bàng nhưng lại có cái đầu và ngực màu trắng, một loài mà tôi chưa từng gặp, và tôi không biết nó được gọi là gì nữa.
“Nó là con hải âu,” người phục vụ quán rượu nói “Các anh đang nói về Stan Grumman phải không? Nhân tinh của ông ta là một con hải âu. Một loài đại bàng biển.”
“Điều gì xảy ra với ông ta?” Lee Scoresby hỏi.
“Ông ta bị kẹt trong cuộc chiến ở Skraeling phía trên Beringland. Lần cuối cùng tôi nghe nói là ông ta bị bắn,” người săn hải cẩu nói “Bị giết công khai.”
“Tôi được nghe rằng họ xử tử ông ta.” Lee Scoresby nói.
“Không các anh sai rồi,” người phục vụ nói, “tôi biết bởi vì tôi được nghe từ một người Inuit, người này cũng đã ở đó với ông ta. Hình như nhổ trại đâu đó tại Sakhalin và ở đó có tuyết lở. Gã Inuit đã nhìn thấy mọi việc.”
“Điều mà tôi không hiểu là,” Lee Scoresby vừa nói vừa mời mọi người rượu, “người đàn ông đó đang cái làm gì vậy. Ông ta đang tìm dầu mỏ, có lẽ? Hay ông ta là một sĩ quan quân đội? Hay nhà học thuật gì gì đó? Anh đã nói điều gì đó về việc đo lường, Sam. Nó là cái gì vậy?”
“Họ đo độ sáng của các vì sao, cực quang nữa. Ông ta có niềm đang mê cực quang mãnh liệt. Tôi nghĩ sở thích của ông ta là về những phế tích. Những thứ cổ xưa.”
”Tôi biết người có thể nói cho anh biết nữa đấy,” người săn hải cẩu nói “Phía trên núi có một đài quan sát, nó thuộc về Viện Hàn lâm Moscow. Họ có thể nói cho anh đấy. Tôi biết là ông ta đã lên đó mấy lần.”
“Thế anh tìm ông ta để làm gì hả Lee?” Sam Casino hỏi.
“Ông ta nợ tiền của tôi,” Lee Scoresby trả lời.
Sự giải thích này có vẻ thoả đáng nên khng ai tò mò nữa. Cuộc trò chuyện đã đổi hướng sang những câu chuyện của tất cả mọi người về thảm hoạ thay đổi đang diễn ra xung quanh họ, điều mà không ai có thể nhìn thấy.
“Anh bạn đánh cá,” người săn hải cẩu nói, “người ta bảo anh có thể chèo thuyền thẳng sang thế giới mới.”
“Có một thế giới mới sao?” Lee hỏi.
“Khi đám sương chết tiệt kia tan ra là lúc chúng ta có thể nhìn thấy nó,” người săn hải cẩu nói có vẻ rất tự tin. “Lần đầu tiên nó xảy ra, tôi đang ở bên ngoài chiếc xuống cai-ac và nhìn về phía bắc, chỉ tình cờ thôi. Tôi không bao giờ quên được những gì tôi đã thấy. Thay vì mặt đất uốn cong theo đường chân trời, nó lại tiến thẳng tới chân trời. Tôi có thể nhìn mãi, và như những gì tôi đã thấy là cũng có đấy, có cả dải đất ven bờ, núi, cảng, cây xanh, những cánh đồng trồng ngũ cốc ở trên trời. Tôi kể với các anh, bạn của tôi ạ, những thứ đó đáng giá năm mươi năm lao động cực nhọc mới có thể nhìn thấy được một cảnh như vậy. Tôi có thể chèo xuồng lên trời mà không hề ngoái nhìn lại; nhưng rồi đám sương mù này lại tới...”
“Tôi chưa bao giờ thấy đám sương nào như thế này cả,” Sam Casino càu nhàu. “Tính ra nó đã bao phủ một tháng trời rồi, có lẽ hơn. Nhưng thật không may cho anh nếu anh muốn lấy lại tiền từ Stanislaus Grumman, Lee à; ông ta chết rồi.”
“À, tôi nhớ ra tên Tartar của ông ta rồi!” người săn hải cẩu nói. “Tôi mới nhớ ra họ đã gọi ông ta như thế nào khi đang khoan vào đầu của ông ta. Nghe như là Jopari vậy.”
“Jopari á? Tôi chưa bao giờ nghe thấy cái tên nào kiểu như thế này,” Lee nói “Có thể là Niponese, tôi cho là như vậy. Nếu tôi muốn lấy lại tiền của mình từ ông ta có lẽ tôi phải đuổi theo người thừa kế của ông ta. Nhưng có lẽ Viện Hàn lâm Berlin có thể thanh toán món nợ. ôi sẽ đi hỏi ò người trong đài quan sát để xem họ có địa chỉ không.”
Đài quan sát ở phía bắc, Lee phải thuê một chiếc xe tuyết có chó kéo và một người lái. Thật chẳng dễ chút nào khi chẳng ai muốn liều lĩnh thực hiện cuộc hành trình trong đám sương mù cả, nhưng Lee đã tỏ ra hết sức thuyết phục, hay đúng hơn tiền của ông đã tỏ ra; và cuối cùng một người Tartar có tuổi từ vùng Ob đã đồng ý đưa anh ta đến đó, sau một hồi mặc cả dài dằng dặc.
Người đánh xe này không tin vào la bàn, ông ta còn thấy nó không thể được việc, ông ta định vị bằng những dấu hiệu khác, con nhân tinh cáo Bắc Cực ngồi giữa xe kéo có thể ngửi được đường. Lee mang theo la bàn mọi nơi, nhưng ông ta đã nhận ra rằng từ trường trái đất đã bị nhiễu loạn như mọi thứ khác.
Ông đánh xe nói khi họ dừng lại để pha cà phê, “Điều này đã xảy ra hồi trước, chuyện này này.”
“Cái gì, Bầu trời mở ra ư? Từng xảy ra trước đây rồi?”
“Hàng nghìn thế hệ trước. Những người ở chỗ tôi đã nhớ như vậy. Trước đây rất lâu, hàng nghìn thế hệ trước.”
“Họ nói gì về điều này?”
“Bầu trời hạ thấp xuống và mở ra, những linh hồn đi từ thế giới này sang thế giới khác. Tất cả mặt đất chuyển động. Băng tan rồi lại đông lại. Sau một thời gian những linh hồn đóng cái lỗ lại, phong ấn nó. Nhưng những phù thuỷ nói rằng bầu trời rất mỏng ở đằng đó, phía sau ánh sáng phương bắc.”
“Điều gì đã xảy ra hả ông Umaq?”
“Điều y hệt trước đây. Giống hệt. Nhưng có một rắc rối lớn, một cuộc chiến tranh lớn. Chiến tranh tinh thần.”
Ông đánh xe không nói gì nữa, họ lại tiếp tục đi, họ đi chầm chậm qua những chỗ mấp mô và qua những tảng đá lô thiên mờ mờ, cho đến tận khi người đánh xe nói:
“Đài quan sát ở đằng kia. Anh đi bộ lên nhé. Đường quá gồ ghề để kéo xe trượt. Nếu anh muốn trở lại, tôi sẽ đợi ở đây.”
“Vâng, tôi muốn trở về khi đã xong việc, ông Umaq ạ. Ông cứ tự nhóm lửa cho mình, bạn tôi, ngồi xuống nghỉ ngơi một lát. Khoảng ba hay bốn tiếng nữa tôi sẽ quay lại.”
Lee Scoresby lại đi tiếp, Hester rúc vào túi ngực ông, sau khoảng nửa tiếng leo qua những vách núi, ông thấy một toà nhà hình khối đột nhiên ở phía trước ông như thể có một bàn tay khổng lồ đặt nó ở đây. Nhưng nó chỉ là do đám sương mù đang dâng lên trong chốc lát, sau đó một chút nó lại thành tấm màn chắn. Ông nhìn thấy mái vòm của đài quan sát, và cả một đài quan sát nhỏ hơn có cửa ra nhỏ, ở giữa là những toà nhà hành chính và bếp. Không có ánh sáng vì tất cả những ô cửa sổ đều được sơn màu đen cố định để tránh ánh sáng làm hư kính thiên văn của họ.
Sau khi tới nơi được vài phút, Lee bắt chuyện với một nhóm những nhà thiên văn học đang hồ hởi muốn biết tin tức mà ông có thể đem lại cho họ. Ở đó có một vài nhà khoa học tự nhiên trông nản chí như là nhà phi hành gia ở trong đám mây vậy. Ông đã nói cho họ biết về mọi thứ mà ông biết và một khi chủ đề được đưa ra, ông mới hỏi về Stanislaus Grumman. Hàng tuần qua, những nhà thiên văn học này đã không có khách tới thăm, và giờ họ rất nhiệt tình được trò chuyện.
“Grumman ư? Vâng, tôi sẽ nói cho anh biết một vài điều về ông ta,” ông giám đốc nói. “Ông ta là người Anh, bất chấp cái tên của ông ta. Tôi nhớ là—”
“Chắc chắn không phải,” phụ tá của ông ta lên tiếng. “Ông ta là thành viên Viện Hàn lâm Đức. Tôi đã gặp ông ta ở Berlin. Tôi chắc chắn ông ta là người Đức.”
“Không, tôi nghĩ ông ta là người Anh. Giọng nói của ông ta rất chuẩn,” người giám đốc quả quyết. “Nhưng tôi đồng ý rằng ông ta là thành viên của Viện Hàn lâm Đức. Ông ta là một nhà địa lý...”
“ Không, không, ông sai rồi,” một người khác lên tiếng. “Ông ta có thăm dò đất nhưng không phải là một nhà địa lý. Tôi đã nói chuyện rất lâu với ông ta. Tôi cho rằng ông có thể gọi ông ta là một nhà khảo cổ học cổ đại.”
Năm người đang ngồi quanh chiếc bàn trong một căn phòng được dùng như phòng chung, cả để ở, ăn tối, quầy rượu và cả phòng sáng tạo. Hai người trong số đó là người Moscow, một là người Ba Lan, một người Yoruba và một người Skraeling. Lee Scoresby nhận thấy rằng những người này rất vui khi có khách tới thăm chỉ bởi vì ông đã mang lại cơ hội cho họ được nói chuyện. Người Ba Lan vừa nói xong, và rồi anh người Yoruba ngắt lời:
“Ý anh là gì? Một nhà khảo cổ học cổ đại á? Một nhà khảo cổ học dĩ nhiên nghiên cứu những thứ cổ xưa rồi; sao anh lại còn đặt thêm từ khác có ý ‘cổ’ vào phía sau chi vậy?”
“Lĩnh vực mà ông ta nghiên cứu có niên đại xa hơn tất cả những gì mà được biết. Ông ta tìm kiếm những thứ còn sót lại của nền văn minh từ hai hay ba mươi nghìn năm trước,” anh người Ba Lan đáp lại.
“Vô nghĩa!” ông giám đốc nói. “Hoàn toàn vô nghĩa. Lão đó đã mê hoặc anh rồi. Văn minh từ ba mươi nghìn năm trước ư? Ha! Thế chứng cứ đâu?”
“Dưới những lớp băng ấy,” người Ba Lan đáp. “Chíở đó. Theo Grumman, trong những khoảng thời gian khác nhau trong quá khứ, từ trường của trái đất thay đổi đáng kể, và trục của trái đất dĩ nhiên cũng di chuyển theo, những vùng khí hậu ôn hoà đã trở thành những dải băng.”
Người Yoruba hỏi ngay: “Bằng cách nào?”
“Ông ta có lý thuyết phức tạp lắm. Điểm chính là, mọi chứng cứ về nền văn minh cổ xưa đó có thể là đã có rất lâu tính từ khi họ bị chôn vùi dưới lớp băng. Ông ta đề nghị được đo sự hình thành bất thường của những khối đá.”
“Ha! Tất cả đó sao?” Ông giám đốc nói.
“Tôi chỉ thuật lại thôi, tôi không chống lại ông ta.”
“Thế các anh đã biết ông Grumman bao lâu rồi?” Lee Scoresby hỏi.
“Để tôi xem nào,” ông giám đốc lên tiếng. “Tôi gặp ông ta lần đầu tiên là bảy năm trước.”
“Ông ta tự đặt cho mình một cái tên chỉ trước đó một hay hai năm nay thôi. Nghiên cứu của ông ta toàn về sự thay đổi cực từ,” người Yoruba thêm vào. “Nhưng ông ta giống như đến từ hư vô, ý tôi là không ai biết ông ta hồi còn sinh viên hay đã từng nhìn thấy công việc trước kia của ông ta...”
Họ nói chuyện một lúc, cùng nhớ lại và đưa ra những câu gợi ý như là điều gì đã làm ông ta trở thành một Grumman, mặc dù hầu hết tất cả bọn họ đều nghĩ rằng ông ta đã chết. Khi anh người Ba Lan đi pha cà phê, con nhân tinh thỏ rừng của Lee đã nói thật khẽ với ông:
“Lee, hãy kiểm tra gã Skraeling.”
Gã này nói rất ít, Lee đã từng nghĩ rằng anh ta vốn lầm lì, nhưng do lời nhắc nhở của Hester, Lee tình cờ liếc nhìn sang con nhân tinh của anh ta trong i mọi người đang tạm nghỉ cuộc trò chuyện. Đó là một con cú trắng, đôi mắt màu da cam của nó đang nhìn ông chằm chằm. Chà, đúng là những con cú trông tưởng như thế, và chúng đúng là có nhìn chằm chằm; nhưng Hester đã đúng, thái độ thù địch và nghi ngờ hiện rõ trên con nhân tinh dẫu khuôn mặt người đàn ông thì chẳng biểu lộ chút cảm xúc gì.
Và rồi Lee nhìn thất điều khác nữa—gã người Skraeling đang đeo một chiếc nhẫn có khắc biểu tượng của giáo hội trên đó. Đột nhiên, ông hiểu ra lý do vì sao người đàn ông này im lặng. Mọi tổ chức nghiên cứu học thuật, như ông đã từng được nghe, phải bao gồm cả một kẻ đại diện cho Tổng giáo giám mục, đóng vai trò một người giám sát và bưng bít thông tin về bất cứ khám phá dị giáo nào.
Khi nhận ra điều này và nhớ lại những gì Lyra đã kể cho mình, Lee hỏi: “Hãy cho tôi biết, các anh có tình cờ nghe thấy Grumman đã từng hỏi về Bụi không?”
Sự im lặng bao trùm căn phòng ngột ngạt, tất cả sự chú ý đều dồn cả vào gã người Skraeling mặc dù không ai trực tiếp nhìn gã cả. Lee biết rằng Hester vẫn bí mật theo dõi, đôi mắt nó vẫn nhắm hờ và tai trải dài về phía sau, nó giữ dáng vẻ vui tươi vô tư khi nhìn trực diện.
Cuối cùng, ông lại gần gã Skraeling và nói: “Xin lỗi. Có phải tôi đã hỏi điều gì mà không được phép biết phải không?”
Gã Skraeling hỏi ông, “Ông đã nghe thấy người ta đề cập đến vật này ở đâu hả, ông Lee Scoresby?”
“Từ một hành khách đã bay qua biển cùng với tôi trước kia,” Lee nói bâng quơ. “Họ không bao giờ nói đó là cái gì, nhưng cái cách mà nó được nhắc đến có vẻ giống giống mấy loại mà ông Grumman có thể đang tìm hiểu. Tôi nghĩ đó là một thứ thuộc về bầu trời, giống như cực quang. Nhưng nó làm tôi bối rồi, vì là một người lái khí cầu nên tôi ết bầu trời khá rõ, và tôi chưa từng đi qua vật này. Nhân tiện nó là cái gì thế?”
“Như anh đã nói, đó chỉ là hiện tượng của bầu trời thôi mà. Nó không có ý nghĩa đáng kể nào cả.”
Đột nhiên Lee quyết định ra khỏi nơi này, vì ông chẳng được biết gì nhiều hơn và cũng chẳng muốn Umaq phải đợi lâu. Ông tạm biệt những nhà thiên văn học, tới đường ranh giới đầy sương của họ rồi bắt đầu đi xuống con đường cũ, con nhân tinh của ông đi theo ngay sau cùng ông cũng đang dò đường, mắt nó sát mặt đất.
Khi chỉ còn độ mười phút đi bộ là đến con đường mòn thì bỗng có cái gì đó trong đám sương mù bay vọt qua đầu ông, lao vào Hester. Đó chính là con nhân tinh của gã Skraeling, một con nhân tinh cú.
Nhưng Hester nhận ra nó đang lao tới, nó rạp mình xuống kịp thời và móng vuốt của con cú trượt khỏi người nó. Hester có thể chiến đấu vì móng vuốt của nó rất sắc, nó lại dũng cảm và bền bỉ. Lee biết rằng chính gã Skraeling đang ở gần đây, ông lấy súng lục từ thắt lưng ra.
“Phía sau đấy, Lee,” Hester nói, và ông xoay vòng, lặn người xuống khi một mũi tên vút qua vai ông.
Ông nã súng ngay lập tức. Gã Skraeling ngã sống soài, gầm gừ khi viên đạn xuyên vào chân gã. Một lát sau, con nhân tinh cú bay vòng lại thật nhẹ, nó sà vụng về xuống bên cạnh gã vì choáng, nửa người nó nằm trong tuyết, chật vật để gấp đôi cánh lại.
Lee Scoresby lên cót và chĩa súng lục vào đầu gã.
“Được đấy, thằng chết tiệt. Mày làm việc này để làm gì vậy? Mày không thấy là tất cả chúng ta đều đang cùng gặp vấn đề khi những điều đó xảy ra với bầu trời à?”
“Quá muộn rồi,” g nói.
“Quá muộn cái gì?”
“Quá muộn để dừng lại. Tao vừa gửi đi một con chim đưa tin. Tổng giáo giám mục sẽ biết được sự soi mói của mày và họ sẽ rất vui khi được biết về Grumman—”
“Điều gì về ông ta?”
“Thật sự có người đang tìm kiếm hắn. Nó khẳng định những gì bọn tao đã nghĩ. Rằng những kẻ khác cũng biết về Bụi. Mày là kẻ thù của Giáo hội, Lee Scoresby. Mày sẽ biết tay họ. Vì những câu hỏi như rắn độc đang gặm nhấm trái tim họ…”
Con cú rúc lên một hồi yếu ớt, nó cứ chập chờn đập đôi cánh. Đôi mắt màu cam của nó nhưng mờ đi vì vết thương. Có những vệt máu trên tuyết xung quanh chỗ gã Skrealing; thậm chí trong màn sương mờ mờ Lee có thể nhận ra rằng gã này đang sắp chết.
“Chắc là viên đạn của ta đã xuyên vào động mạch. Hãy để ta lấy tay áo cầm máu.”
“Không!” gã Skrealing nói vẻ cực cay nghiệt. “tao muốn được chết, tao muốn là kẻ tử vì đạo! Mày không thể cướp đi mất điều đó ở tao.”
“Thế thì chết đi nếu mày muốn. Hãy nói với tao một điều thôi—”
Nhưng Lee không có cơ hội để hỏi nốt câu hỏi vì con cú đã biến mất chỉ sau một hồi run rẩy. Linh hồn của gã Skrealing đã ra đi. Lee đã từng nhìn thấy một bức tranh trong đó có một vị thánh trong nhà thờ đang bị những kẻ sát nhân tấn công. Khi chúng đánh vị thánh này bằng dùi cui, nhân tính của vị thánh lại được những thiên sứ sinh ra có sức mạnh hơn và đưa ra một nhành thông, biểu tượng của một người tử vì đạo. Khuôn mặt của gã Skrealing này có hình cây thông, giống y như trong bức tranh về vị thánh: sự sung sướng như bừng dạy trong lãng quên. Lee bỏ mặc gã lại.
Hester tặc lưỡi. “Nên nhớ rằng hắn đã gửi thông điệp đi rồi, hãy lấy chiếc nhẫn của hắn.”
“Làm quái gì kia? Chúng ta đâu có phải kẻ cắp, phải không?”
“Không, chúng ta là những kẻ phản đạo,” nó nói. “Không phải do sự lựa chọn của chúng ta mà là do sự hiểm độc của hắn. Một khi nhà thờ biết được về điều đó, dẫu thế nào thì chúng ta cũng xong. Hãy tận dụng bất cứ điều gì có thể. Đi nào, hãy lấy và cất cái nhẫn đi, có thể chúng ta sẽ phải dùng đến nó.”
Lee thấy có lý, và lấy đi chiếc nhẫn từ ngón tay người đã chết. Nhìn kỹ vào khung cảnh u ám, ông phát giác con đường này được làm gờ lên do cái dốc phía dưới tối om và toàn đá. Ông lăn cái xác của gã Skrealing vào đó. Nó rơi rất lâu rồi mới thấy va chạm. Lee chưa bao giờ yêu thích bạo lực, ông ghét chém giết, mặc dù ông đã làm điều này ba lần trước đây.
“Không cần phải nghĩ chuyện vô bổ,” Hester nói. “Hắn không cho chúng ta một cơ hội và chúng ta không bắn để giết chết hắn. Chết tiệt, Lee, hắn muốn chết mà. Những kẻ này thật là điên.”
“Có lẽ thế,” ông vừa nói vừa cất khẩu súng lục đi.
Tới cuối đường, họ nhìn thấy Umaq bên cạnh là những con chó đã được đóng yên, sẵn sàng lên đường.
“Hãy nói với tôi Umaq, ông đã từng nghe về Grumman rồi phải không?” Lee nói khi họ bắt đầu quay lại bến đóng gói cá.
“Chắc chắn rồi. Mọi người đều biết tiến sĩ Grumman.”
“Thế ng có biết tên Tartar của ông ta không?”
“Không phải là Tartar. Ý anh là cái tên Jonpari có phải không? Không phải Tartar đâu.”
“Điều gì đã xảy ra với ông ta vậy. Ông ấy chết rồi à?”
“Anh hỏi như vậy thì tôi phải nói rằng tôi không biết. Anh sẽ không bao giờ biết sự thật từ tôi đâu.”
“Tôi biết rồi. Vậy thì tôi phải hỏi ai?”
“Tốt nhất là anh hỏi bộ lạc của ông ta. Đến Yenisei và hỏi họ.”
“Bộ lạc của ông ta…Ý ông nói là những người đã kết nạt ông ta à? Ai đã khoan cái sộ của ông ta vậy?”
“Anh hỏi họ ấy. Có thể ông ta chưa chết, có thể ông ta vẫn còn sống. Có thể ông ta không sống mà cũng chẳng chết.”
“Không sống mà cũng chẳng chết có nghĩa là như thế nào?”
“Trong thế giới tinh thần. Có thể ông ấy ở trong thế giới tinh thần. Tôi đã nói quá nhiều mất rồi. Từ bây giờ tôi sẽ không nói nữa đâu.”
Và ông ta đã không nói thật.
Nhưng khi tới nơi, Lee đi thằng tới bến cảng để tim con tàu mà có thể chở mình đến cửa sông Yenisei.
Cùng lúc đó, những phù thủy cũng đang trong hành trình tìm kiếm. Nữ hoàng phù thủy xứ Latvia, Ruta Skadi bay cùng đoàn phù thủy Serafina Pekkala trong mấy ngày đêm, xuyên qua những đám sương và gió lốc, bay qua những vùng bị phá hủy do lũ lụt và lở đất. Một điều hiển nhiên là họ đang ở trong một thế giới mà không ai trong số họ đã từng được biết đến, những con gió lạ, mùi hương trong không khí, những con chim to lớn bay xuống và bắn ra hàng loạt mũi tên. Khi họ tìm nơi nào đó để hạ cánh xuống, họ nhận thấy cây ở đây thật là lạ.
Dù vậy, vẫn có vài loại cây có thể ăn được và có những con thỏ dùng để làm một bữa ăn ngon, cả nước cũng không thiếu. Đây đã có thể là một vùng đất tốt để ở nhưng không thể do những hình thù bóng ma đi lởn vởn giống như là sương trên bãi cỏ, tụ tập gần con suối và nằm dưới nước. Khi có ánh sáng ban ngày, chúng hầu như không ở đó, chỉ nhìn thấy chúng như là trôi dạt trong không khí, biến mất nhịp nhàng như những tấm mạn trong suốt phản chiếu trong gương. Những phù thủy này chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ thứ gì như thế và ngay lập tức, họ cảm thấy ngờ vực.
“Cô có nghĩ là chúng đang sống không Serafina Pekkala?” Ruta Skadi hỏi khi họ bay vòng quanh một nhóm người đứng bất động bên vệ đường trong rừng.
“Còn sống hay đã chết, thì trông chúng cũng thật đáng sợ,” Serafina trả lời. “Tôi đã cảm thấy điều này từ khi tới đây. Và trừ khi tôi biết được loại vũ khí nào có thể tác động được chúng, tôi sẽ không muốn lại sát chúng hơn.”
Dường như những con Spectre gắn liền với mặt đất, chúng không có khả năng bay, thật may cho các phù thủy. Chiều muộn hôm đó, họ đã được chứng kiến những gì mà chúng có thể làm.
Nó xảy ra tại một ngã ba sông, nơi một con phố đầy bụi đi qua một cái cầu đá thấp, cạnh chỗ những cái cây. Ánh sáng của một buổi chiều xiên nghiêng trên bãi cỏ làm cho nó có một màu xanh nổi bật được rắc bụi vàng trong không khí. Trong ánh nắng rực rỡ đó, những phù thủy nhìn thấy một nhóm người lang thang đang tiến về phía cái cầu, một số người đi bộ còn số khác ngồi trên xe ngựa kéo, có hai người cưỡi ngựa. Họ không nhìn thấy những phù thủy vìâu có lý do gì để nhìn lên trời, nhưng đây là những người đầu tiên mà những phù thủy nhìn thấy ở thế giới này. Khi Serafina định bay xuống để nói chuyện với họ đột nhiên có một tiếng hét vang lên.
Tiếng hét đó từ một người đang cưỡi con ngựa dẫn đầu. Anh ta chỉ vào những cái cây, khi nhìn xuống họ thấy một dòng hình thù những con Spectre lũ lượt đổ ra bãi cỏ, dường như nó chảy về phía những người này, những con mồi của chúng, mà không thể cản được.
Đoàn người chạy toán loạn. Serafina bị sốc khi thấy người cưỡi ngựa dẫn đầu quay lại và phi nước đại mà không ở lại giúp bạn của mình, người thứ hai cũng làm y như vậy, chạy thật nhanh sang một hướng khác.
“Các chị em, hạ thấp xuống và quan sát,” Serafina hạ lệnh. “Nhưng không được can thiệp cho đến khi nào tôi ra lệnh.”
Họ thấy trong đoàn người này có cả trẻ em, một số đứa ngồi trên xe, một số khác đi bộ bên cạnh, và những con Spectre không hứng thú với lũ trẻ, chúng chỉ cần những người lớn. Một người phụ nữ luống tuổi ngồi trên xe, giữ hai đứa trẻ trong lòng, Ruta Skadi rất tức giận trước sự hèn nhát của bà ta: bởi vì bà ta đang cố trốn phía sau lũ trẻ, khi nhưng những con Spectre tới gần, bà ta đẩy hai đứa trẻ về phía chúng như thể đưa lũ trẻ ra để cứu vớt cuộc đời mình.
Hai đứa trẻ này nhảy ra khỏi lòng người phụ nữ và nhảy xuống xe, giống như những đứa trẻ khác, chúng chạy toán loạn hoảng sợ, hoặc là đứng bám vào nhau rồi khóc thét khi những con Spectre tấn công những người lớn. Người phụ nữ trên xe bị bao bọc bởi một lớp sáng dịu trong suốt đang di chuyển rất bận rộn, nó ăn con mồi như thể tự bồi bổ mình, cảnh tượng kinh khủng đến nỗi Ruta Skadi cảm thấy phát ốm. Số phận tương tự cũng rơi vào mỗi người lớn trong đoàn trừ hai người đã bạy trên lưng ngựa kia.
Bị thôi miên lẫn choáng váng, Serafina Pekkala bay xuống gần hơn. Có một ông bố và một đứa con đang cố lội qua dòng sông để chạy trốn, nhưng bọn Spectre đã đuổi kịp họ, đứa bé bám vào lưng bố, khóc thét, nhưng rồi người đàn ông này bước chậm dần và khi nước tới thắt lưng thì vô vọng, ông bị chúng bắt.
Điều gì đang xảy ra với anh ta vậy? Serafina chỉ bay trên mặt nước có mấy phút, nhìn chằm chằm vẻ kinh tởm. Bà đã được nghe những người lữ hành ở thế giới bà nói về truyền thuyết ma cà rồng, bà liền nghĩ về những thứ mà Spectre đang ngốn ngấu, những thứ mà con người có được, đó là tâm hồn, có lẽ là nhân tinh của họ. Vì rõ ràng ở thế giới này, hiển nhiên là nhân tinh được dấu ở bên trong chứ không ở bên ngoài. Cánh tay bế đứa trẻ của ông lỏng dần, đứa bé rơi tõm xuống nước, nó tuyệt vọng bám vào tay bố, la khóc và thở hổn hển, nhưng ông bố quay đầu thật chậm và nhìn xuống đứa trẻ một cách hoàn toàn vô cảm ngay cả khi nó đang chìm dần.
Đã quá đủ cho Serafina, bà nhào xuống, nhấc đứa trẻ lên khỏi mặt nước, khi thấy thế, Ruta Skadi thét lên: “Cẩn thận! Phía sau cô—”
Trong một thoáng Serafina cảm thấy có cái gì đó gớm ghiếc và hình thù không rõ ràng bên cạnh trái tim mình. Bà giơ tay cho Ruta Skadi kéo mình ra khỏi chỗ nguy hiểm. Họ bay lên cao hơn. Đứa trẻ gào thét, với những móng tay sắc nhọn của mình, nó bám chặt vào eo bà. Serafina cảm thấy Spectre đang ở phía sau, như là sương mù trôi dạt xoáy tít trên mặt nước, đuổi theo con mồi bị mất của mình. Ruta Skadi bắn một mũi tên vào tim nó nhưng chẳng có tác dụng gì cả.
Khi không còn nhìn thấy nguy hiểm từ phía những con Spectre, Serafina đặt đứa trẻ xuống bờ sông rồi họ lại bay vụt lên không trung. Đoàn người lang thang ít ỏi này giờ đã dừng lại; những con ngựa gặm cỏ hay lắc cái đầu đuổi ruồi, những đứa thì gào thét, chộp lấy tay đứa khác và nhìn về phía xa, những người lớn thì vẫn bất động. Mắt họ mở to, họ vẫn đứng đó, sự bất động gớm ghiếc như phủ quanh họ. Cuối cùng bọn Spectre cũng trôi đi sau khi đã no nê. Serafina bay xuống và hạ cánh trước mặt một người phụ nữ đang ngồi trên bãi cỏ, một người phụ nữ trông khỏe mạnh và rắn rỏi với đôi má đỏ và mái tóc bóng loáng.
“Cô à?” Serafina hỏi. Nhưng không có sự đáp lại. “Cô có nghe thấy tôi nói không? Cô có thấy tôi không?”
Bà lắc vai người phụ nữ này với hi vọng chị sẽ nhìn lên. Chị ta toàn bộ vẫn không để ý, đôi mắt trống rỗng, khi Serafina cáu cổ tay, chị ta chỉ chậm chạp nhìn xuống rồi lại quay đi.
Những phù thủy đi giữa những chiếc xe kéo thưa thớt, họ nhìn những nạn nhận đã bị hút mất hết linh hồn. Trong lúc đó, những đứa trẻ cụm lại trên một ngọn đồi nhỏ, nhìn chằm chằm vào những phù thủy, thì thầm trong hãi sợ.
“Người đàn ông cưỡi ngựa đang nhìn đấy,” một phù thủy lên tiếng.
Cô chỉ ra một con đường dẫn tới một cái hang ở trên đồi. Người này đã chuồn vội khi gặp bọn Spectre, giờ ông ta kìm cương ngựa, quay lại để nhìn xem cái gì đang diễn ra.
“Chúng ta sẽ nói chuyện với anh ta,” Serafina nói rồi bật mạnh lên không khí.
Bất chấp cách cư xử của mình khi đối mặt với bọn Spectre, anh ta vốn không phải kẻ hèn nhát. Khi nhìn thấy những phù thủy lại gần, anh ta lấy súng săn trên lưng xuống, thúc ngựa đi lên phía bãi cỏ nơi anh ta có thể xoay chuyển, đối mặt với họ và bắn họ thuận tiện; nhưng Serafina chậm rãi đáp xuống và bỏ cây cung của mình ra rồi đặt nó xuống khoảng đất trước mặ
Dù cho ở đây họ có những cử chỉ như vậy hay không, ý nghĩa của nó thật không thể nhầm lẫn được. Người đàn ông này hạ thấp súng từ vai xuống bụng. Anh ta nhìn Serafina, nhìn những phù thủy khác và nhìn cả nhân tinh của bọn họ đang bay vòng tròn trên trời. Những người phụ nữ trẻ trung, dữ tợn, họ mặc những mảnh lụa màu đen và cưỡi trên những nhành thông bay trên bầu trời… chẳng có gì giống như thế giới của anh cả nhưng anh ta vẫn thận trọng đối mặt với họ. Serafina, tới gần hơn, bà nhìn thấy nỗi buồn trên gương mặt người đàn ông khỏe mạnh này. Thật khó bỏ qua hình ảnh anh ta quất ngựa chạy đi trong khi những người đồng hành của anh bị giết.
“Bà là ai?”
“Tên tôi là Serafina Pekkala. Tôi là nữ hoàng phù thủy của hồ Enara, ở một thế giới khác. Thế tên anh là gì?”
“Joachim Lorenz. Bà nói là phù thủy à? Vậy các bà có dính líu tới quỷ dữ chăng?”
“Nếu chúng tôi đúng là như vậy thì chúng tôi có phải kẻ thù của anh không?”
Anh ta nghĩ một lúc rồi đặt khẩu súng xuống thấp hơn. “Trước đây thì có lẽ,” anh ta nói. “Thời gian đã thay đổi. Tại sao các bà lại tới đây?”
“Bởi vì thời gian đã thay đổi. Những sinh vật đã tấn công nhóm của anh là gì vậy?”
“À, lũ Spectre…” anh ta nhún vai nói với vẻ hơi ngạc nhên. “Các bà không biết Spectre à?”
“Tôi chưa bao giờ nhìn thấy chúng ở thế giới của chúng tôi cả. Chúng tôi thấy anh chạy trốn và chúng tôi không biết phải nghĩ như thế nào nữa. Bây giờ chúng tôi đã hiểu.”
“Không có gì có thể chống lại chúng đâu,” Joachim Lorenz nói. “Chỉ có trẻ con là không bị động tới. Cứ mỗi đoàn lữ hành thì lại có một người đàn ông và một người đàn bà cưỡi ngựa, đó là luật, và họ phải làm những gì chúng tôi đã làm không thì những đứa trẻ sẽ không có ai để chăm sóc. Nhưng bây giờ thì thật tồi tệ, cả thành phố tràn ngập Spectre. Nơi nào cũng có khoảng một tá Spectre hoặc hơn.”
Ruta Skadi nhìn quanh. Cô thấy một người cưỡi ngựa đang quay trở lại phía chiếc xe ngựa, cô lại gần xem và thật sự đó là một người phụ nữ. Những đứa trẻ chạy cả tới để gặp cô ta.
“Nhưng hãy nói với tôi các bà đang tìm kiếm cái gì vậy?” Joachim Lorenz tiếp tục. “Bà chưa trả lời tôi. Các bà không thể đến đây mà không có mục đích gì. Hãy trả lời tôi đi.”
“Chúng tôi đang tìm kiếm một đứa trẻ, một bé gái đến từ thế giới của chúng tôi. Tên của cô bé là Lyra Belacqua hay còn gọi là Lyra Lưỡi Bạc. Nhưng cô bé đang ở đâu đó trên cả cái thế giới này thì chúng tôi không thể đoán ra. Anh không nhìn thấy một đứa trẻ nào đi một mình à?”
“Không. Nhưng tôi thấy các thiên thần mấy đêm trước đang hướng về phía Cực.”
“Thiên thần?”
“Một đoàn quân bay trên không, họ đang tỏa sáng và được trang bị vũ khí. Trong những năm vừa qua thì họ không được biết đến nhiều lắm mặc dù vào thời đại của ông tôi họ thường xuyên bay qua thế giới này hay là ông tôi vẫn nói như vậy.”
Anh ta tối sầm mắt rồi nhìn xuống phía những chiếc xe ngựa nằm rải rác và những người lữ hành bất động. Người phụ nữ tháo dỡ chúng xuống đang an ủi vài đứa trẻ.
Serafina nhìn theo anh ta và nói, “Chúng tôi sẽ cắm trại cùng ai nay và canh phòng bọn Spectre, anh sẽ nói cho chúng tôi nhiều hơn nữa về thế giới này chứ, và cả những thiên thần mà anh đã nhìn thấy nữa?”
“Dĩ nhiên. Theo tôi.”
Những phù thủy giúp họ di chuyển những cái xe ngựa dọc theo con phố, qua cầu, tránh xa khỏi những cái cây mà Spectre đã ra từ đó. Những người lớn bị tấn công thì phải ở lại. Thật là đau đớn khi nhìn thấy những đứa trẻ nhỏ trèo lên lưng mẹ nhưng mẹ nó không thể đáp lại bằng sự âu yếm, có đứa lại kéo tay áo bố nhưng bố nó chẳng nói gì, chẳng nhìn vào cái gì, chẳng có gì trong mắt họ. Những đứa nhỏ hơn thì không hiểu nổi tại sao phải rời xa bố mẹ. Những đứa lớn hơn hẳn, một vài đứa đã bị mất bố mẹ, chúng đã từng chứng kiến cảnh này, chúng chỉ lặng thinh u buồn. Serafina bế đứa bé đã bị ngã xuống nước lên, nó vẫn đang khóc lóc nhoài qua vai bà đòi bố nhưng nó vẫn chỉ nhìn thấy một sinh vật lãnh đạm đứng đó. Serafina có thể thấy được nước mắt của đứa bé rơi trên đôi vai trần của mình.
Người phụ nữ mặc một chiếc quần túm bằng vải bạt và cưỡi ngựa giống như đàn ông, cô ta không nói gì với những phù thủy cả. Khuông mặt cô ta thật lạnh lùng. Cô tiến đến phía bọn trẻ, nói với chúng bằng một giọng nghiêm túc sâu lắng, cố lờ đi nước mắt của bọn trẻ. Ánh chiều tràn ngập sắc vàng làm cho từng thứ trở lên rõ ràng hơn nhưng chẳng có gì rực sáng cả, và khuôn mặt của đàn ông, đàn bà và cả những đứa trẻ dường như trở nên bất diệt, mạnh mẽ và đẹp đẽ.
Khi than đã rực hồng trong đống lửa được quây quanh bằng đá, ngọn đồi như yên ả hơn dưới ánh trăng, Lorenz kể với Serafina lịch sử thế giới của anh ta.
Anh ta giải thích, trước đây nó cũng đã từng là một thế giới hạnh phúc. Những thành phố rộng rãi và lịch thiệp, ruộng vườn màu mỡ. Những con thuyền buôn chất hàng nặng trĩu đi tới đi lui trên đại dương xanh. Những người đánh cá kéo lến những mẻ lưới đầy cá tuyết, cá ngừ, cá voi lẫn cá đối, rừng còn được làm chỗ vui chơi và không có đứa trẻ nào phải chịu đói cả. Trong những hội đồng và quảng trường của các thành phố lớn, những vị đại sứ hòa mình vào những người bán thuốc lá, với những nhà hát kịch ứng tác từ Bergamo, những thương gia thịnh vượng. Buổi tối những người yêu nhau đeo mặt nạ, gặp nhau dưới những hàng cây hoa hồng hay những khu vườn có ánh sáng nhân tạo, không khí như được pha thêm mùi hoa nhài và tiếng nhạc rộn ràng của đàn mandarone.
Những phù thủy mở to mắt lắng nghe câu chuyện của anh ta về một thế giới quá giống với thế giới của họ nhưng cũng thật quá đỗi khác.
“Nhưng rồi mọi thứ tệ đi,” anh ta nói. “Từ ba trăm năm trước một số người nhận ra Hội Torre degli Angeli của các nhà hiền triết, Tháp Thiên thần, trong thành phố chúng tôi ở đã rời đi, và họ chính là những người đáng bị trách móc. Những người khác thì nói đó là sự trừng phạt giành cho chúng tôi vì mắc phải một vài tội lỗi lớn, mặc dù tôi chưa từng được nghe bất cứ sự tán thành nào về việc định tội. Nhưng đột nhiên, bọn Spectre xuất hiện, không biết ở đâu ra và chúng tôi bị ám kể từ đó. Các bạn vừa nhìn thấy những gì chúng làm. Bây giờ các bạn thử tưởng tượng xem sống trong một thế giới có Spectre sẽ như thế nào. Làm sao mà chúng tôi có thể thịnh vượng nổi, khi mà chúng tôi không thể tin tưởng về bất cứ thứ gì tiếp diễn như thế này? Bất cứ lúc nào, một người cha, người mẹ có thể bị cướp đi, gia đình tan nát, một thương gia đã bị lấy đi linh hồn thì việc kinh doanh của anh ta cũng sẽ thất bại, tất cả thư ký, nhân viên của anh ta đều bị mất việc. Làm thế nào để những người yêu nhau có thể tin vào lời thề của họ? Tất cả niềm tin và đức hạnh trên thế giới này đều bị sụp đổ khi mà bọn chúng tới.
“Những nhà hiền triết đó là ai?” Serafina hỏi. “Và cái tháp mà anh nói đến nằm ở đâu?”
“Ở thành phố mà chúng tôi đã bỏ đi—Cittagazze. Thành phố của những kẻ ba hoa. Bà biết tại sao nó bị gọi như vậy không? Vì những kẻ ba hoa thì ăn trộm, và đó là tất cả những gì mà chúng tôi có thể làm bây giờ. Chúng tôi chẳng tạo ra cái gì cả, đã hàng trăm năm rồi, chúng tôi có xây được cái gì đâu, tất cả những gì chúng tôi có thể làm là ăn cắp từ thế giới khác. Ồ, phải, chúng tôi biết về những thế giới khác. Những nhà hiền triết từ Torre degli Angeli đã khám phá ra tất cả những gì chúng tôi cần biết về chuyện đó. Họ có một câu thần chú, nếu bà đọc nó ra, nó sẽ cho phép bà đi qua một cánh cửa không phải ở đây và bà sẽ thấy mình đang ở một thế giới khác. Một số người nói đó không phải là câu thần chú mà là chìa khóa để mở mặc dù không có một ổ khóa nào. Ai biết nhỉ? Bất kể nó là cái gì nó cũng đã để cho bọn Spectre tràn vào. Những nhà hiền triết vẫn sử dụng nó, tôi biết. Họ đã đi sang thế giới khác, ăn cắp từ thế giới đó và mang về đây những thứ họ tìm thấy. Vàng và đá quý, dĩ nhiên, nhưng có cả những thứ khác nữa, những ý tưởng, những bao ngũ cốc, bút chì. Đó là nguồn gốc của tất cả của cải của chúng tôi,” anh ta nói thật cay đắng, “đó là cái Hội trộm cắp.”
“Thế tại sao Spectre lại không làm hại trẻ con?” Ruta Skadi hỏi.
“Đó là một điều bí ẩn lớn nhất. Vẻ ngây thơ của bọn trẻ có sức mạnh đẩy lùi được sự lãnh đạm của bọn Spectre. Nhưng còn hơn thế. Đơn giản là trẻ con không nhìn thấy chúng, mặc dù chúng tôi cũng không hiểu tại sao. Nhưng những đứa bé mồ côi do Spectre gây ra rất nhiều. Các bà có thể hình dung—những đứa trẻ bị cướp mất bố mẹ; chúng tụ tập thành một nhóm, lang thang trên khắp đất nước, thỉnh thoảng chúng còn thuê mướn nhau ra ngoài tới chỗ người lớn để tìm thc ăn và đồ tiếp tế trong vùng Spectre hoành hành, và thỉnh thoảng thì chúng chỉ đơn giản lượn lờ và bới móc.
“Đó là thế giới của chúng tôi. Ờ, chúng tôi cố gắng xoay xở để sống với lời nguyền này. Chúng là lũ kí sinh chính hiệu: chúng không giết chết thân xác vật chủ mặc dù đã hút hầu như cạn kiệt sinh mạng của họ. Nhưng vẫn có một sự cân bằng nhất định… cho đến gần đây, lúc xuất hiện cơn bão khủng khiếp. Quả đúng là một cơn bão kinh hoàng! Nó nghe như là toàn thể thế giới đang bị vỡ ra, bẻ vụn thành từng phần; chưa hề có một cơn bão nào như vậy trong trí nhớ của con người.
“Rồi có một đám sương mù kéo dài trong vài ngày, nó bao phủ từng phần của thế giới mà tôi biết, không ai có thể đi lại; khi đám sương tan thì thành phố này ngập tràn Spectre, một trăm nghìn con. Vì vậy chúng tôi chạy trốn lên đồi và ra biển, nhưng bất kể chúng tôi đi đâu cũng không thoát khỏi bọn chúng. Như những gì các bà đã tận mắt mục kích.
Bây giờ tới lượt bà. Nói cho tôi biết về thế giới của bà, tại sao các bà lại bỏ nơi đó tới đây.”
Serafina nói với anh ta tất cả sự thật mà bà biết. Anh ta là một người chân thật và không phải nói dối anh ta bất cứ điều gì. Anh ta lắng nghe, lắc đầu khi ngạc nhiên, rồi khi bà nói xong, anh ta mới nói:
“Tôi đã kể với bà rằng sức mạnh mà người ta nói những triết gia của chúng tôi có là mở ra một canh cửa tới thế giới khác. Một số người nghĩ là hiếm khi họ để cánh cửa mở, chỉ vì tính hay quên, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu những người lữ hành từ thế giới khác dần dần sẽ tìm đến nơi này. Sau rốt thì, chúng tôi biết rằng những thiên thần cũng đã đi qua đây.”
“Thiên thần?” Serafina hỏi. “Khi nãy anh đã nhắc tới họ. Họ thật mới mẻ với chúng tôi. Anh có thể giải thích được không?”
“Bà muốn biết về thiên thần à?” Joachim Lorenz nói. “Tốt thôi. Họ tự đặt tên mình là bene elim, tôi nghe bảo thế. Cũng có người gọi họ là Thần canh giữ. Họ không phải dạng thể xác như chúng ta, mà là một kiểu linh hồn. Hoặc có lẽ thể xác của họ ở mức tinh tế hơn chúng ta, tôi cũng không biết nữa; nhưng họ không giống như chúng ta. Họ mang thông điệp từ bầu trời, đó là những gì họ gọi. Thỉnh thoảng chúng tôi có nhìn thấy họ đi qua thế giới này tới một thế giới khác, tỏa sáng như những con đom đóm ở trên cao.
Nếu màn đêm tĩnh lặng thì bà thậm chí còn nghe được cả tiếng vỗ cánh của họ ấy chứ. Họ có những mối quan tâm khác hẳn chúng ta, mặc dù vào những thời xa xưa họ đã từng hạ xuống và đi lại cùng những người đàn ông và phụ nữ, cũng có cả con với chúng ta, vài người nói thế.
“Và khi đám sương mù kéo đến, sau trận bão lớn, tôi bị đe dọa bởi lũ Spectre trên ngọn đồi phía sau thành phố Sant’Elia, trên đường trở về nhà. Tôi trú ở trong lều của người linh mục bên suối cạnh cây phong, suốt đêm đó, tôi nghe thấy tiếng gọi mình từ trên đám sương, kêu la, giận dữ và cả tiếng vỗ cánh nữa, gần như chưa bao giờ tôi được thấy; gần rạng sáng có tiếng vũ khí va chạm, có cả tiếng những mũi tên, tiếng những thanh gươm va vào nhau lanh canh. Tôi không dám ra nhìn mặc dù rất tờ mò. Vì tôi sợ. Tôi đã chết cứng trong khiếp hãi, nếu bà muốn biết. Khi bầu trời sáng chưng hơn nó đã từng trong suốt thời gian sương mù, tôi đánh bạo ra ngoài và nhìn thấy một dáng hình to lớn đang bị thương nằm cạnh suối. Tôi cảm thấy như thể mình không có quyền được nhìn thấy những điều thần thánh. Cho nên tôi đã ngoảnh đi và khi tôi quay đầu lại thì hình thù đó đã biến mất.”
“Đó là lần đầu tôi đến gần các thiên thần nhất. Nhưng như những gì tôi đã nói với các b nhìn thấy họ một đêm khác, ở trên cao giữa những vì sao đang hướng về Cực, giống như hạm đội hùng mạnh nhổ neo giông buồm… Điều gì đó đang xảy ra và ở dưới này, chúng tôi không biết như thế nào. Có thể có một cuộc chiến tranh đang xảy ra. Hàng nghìn năm trước, từ những thời đại xa xưa, có một cuộc chiến tranh xảy ra trên thiên đường, nhưng tôi không biết kết quả như thế nào. Nhưng sức tàn phá của nó thì thật là lớn, và hậu quả cho chúng tôi là… Tôi không tưởng tượng nổi.”
“Dù vậy,” Anh ta vừa khơi lửa vừa tiếp tục, “kết cục có lẽ sẽ khả quan hơn là những gì tôi lo ngại. Có thể một cuộc chiến tranh trên thiên đường sẽ quét hết bọn Spectre trở về cái hố mà chúng đã từ đó ra. Đó quả thật là một phúc lành, chao ôi! Chúng tôi sẽ được sống trong thanh bình và hạnh phúc đến nhường nào, không còn phải sợ hãi nữa!”
Dẫu cho Joarchim trông có thể là bất cứ thứ trừ hi vọng khi anh ta nhìn đăm đăm vào đống lửa. Ánh lửa đu đưa trên khuôn mặt anh ta, nhưng nó không làm cho tâm trạng của anh ta khá lên mấy, trông anh ta thật buồn và khắc nghiệt.
Ruta Skadi nói, “Còn Cực nữa, thưa anh. Anh nói là thiên thần đang hướng tới Cực. Tại sao họ lại làm như vậy, anh biết không? Có phải thiên đường nằm ở đó?”
“Tôi không thể nói được. Tôi không phải là người có ăn học, cô có thể thấy rõ mà. Nhưng họ nói rằng phía Bắc ở thế giới của tôi là nơi ở của những tâm hồn. Nếu những thiên thần tập hợp lại, thì đó là nơi họ sẽ đi, và nếu họ định mở đợt tấn công trên thiên đường thì tôi dám nói rằng đó chính là nơi họ xây pháo đài và xông phá vòng vây.”
Khi anh ngẩng lên, những phù thủy dõi theo ánh mắt anh ta. Những ngôi sao ở thế giới này cũng giống như ở thế giới của họ: dải ngân hà tỏa sáng dưới vòm trời và vô số những ngôi sáng được rắc trên màn trời đen, như hòa với ánh trăng…
“Thưa anh,” Serafina nói. “Anh đã từng nghe về Bụi chưa?”
“Bụi á? Tôi đoán rằng cô có ý hỏi những thứ khác chứ không phải là bụi trên đường. Không, tôi chưa nghe bao giờ. Nhưng nhìn kìa! Một đoàn thiên thần…”
Anh ta chỉ vào chùm sao Ophiucus. Chắc chắn, có cái gì đó đang di chuyển qua, những đám màu sáng nhỏ xíu. Chúng không trôi lờ lững; chúng đang bay có chủ đích như những đàn ngỗng hoặc thiên nga.
Ruta Skadi đứng dậy.
“Các chị em, đã đến lúc tôi phải chia tay các bạn. Tôi sẽ đi nói chuyện với những thiên thần đó, bất kể họ là ai. Nếu họ đi về hướng Ngài Asriel thì tôi sẽ đi cùng họ. Nếu không, tôi sẽ tự tìm thấy ông ta. Cảm ơn vì các bạn đã đi cùng tôi. Chúc thượng lộ bình an.”
Họ hôn tạm biệt, Ruta Skadi lấy nhành thông mây và bay lên không khí. Con nhân tinh Sergi cũng bay bên cạnh cô.
“Chúng ta sẽ tăng tốc chứ?” nó hỏi.
“Tăng hết mức như những vật bay phát sáng phía Ophiucus. Họ bay nhanh lắm đấy, Sergi, chúng ta phải bắt kịp họ”.
Rồi cô cùng nhân tinh của mình vọt lên, nhanh như tia lửa vậy. Không khí quất vào những nhánh nhỏ trên nhành thông và làm mái tóc đen của cô phất phới về phía sau. Cô không hề ngoái lại nhìn đống lửa nơi có những đứa trẻ đang ngủ, nơi có những người bạn phù thủy đã đồng hành với mình. Phần đó trong chuyến hành trình của cô đã kết thúc, và, hơn nữa, nhứng sinh vật phát sáng trên đầu cô nhìn từ xa rất nhỏ, nế cô không dán mắt vào đó thì rất dễ nhầm với những vì sao trên trời.Cứ như thế cô bay, không để mất dấu của những thiên thần, dần dần, khi cô lại gần hơn, thì cũng nhìn thấy họ rõ hơn.
Họ tỏa sáng không phải vì họ đang cháy mà giống như thể, bất kể họ ở đâu và bất kể đêm tối như thế nào, ánh sáng mặt trời vẫn đều tỏa sáng trên người họ. Trông họ giống con người nhưng có cánh và họ cao lớn hơn rất nhiều; vì họ đều không mặc quần áo nên cô phù thủy có thể nhận ra có ba người đàn ông và hai người đàn bà. Đôi cánh của họ ló ra từ phía xương vai, lưng và ngự học cơ bắp cuồn cuộn. Ruta Skadi giữ khoảng cách đằng sau họ một quãng, quan sát và ước chừng sức mạnh của họ để đề phòng trường hợp cô phải chiến đấu chống lại họ. Họ không có vũ khí nhưng với sức mạnh của họ, họ có thể bay rất nhanh và có thể bỏ xa cô nếu có một cuộc đuổi bắt.
Lên sẵn cung, đề phòng bất trắc, cô phóng nhanh lên cạnh họ và gọi: “ Hỡi những thiên thần! Hãy dừng lại và nghe tôi nói! Tôi là phù thủy Ruta Skadi và tôi muốn nói chuyện với các bạn!”
Họ quay lại. Những đôi cánh lớn vỗ vỗ hướng vào trong để bay chậm dần, người họ đu đưa xuống phía dưới cho đến khi họ đứng thẳng trên không khí, đôi cánh đập đập để giữ thăng bằng. Họ vây quanh cô, năm thân hình chiếu sáng trong màn đêm, họ sáng rực lên.
Cô phù thủy nhìn quanh, vẫn ngồi trên nhành thông, tim cô đập mạnh trước những người lạ lùng này, nhân tinh của cô cũng vỗ cánh ngồi gần cô.
Mỗi thiên thần rõ ràng là một cá thể riêng biệt, dẫu họ có vẻ rất giống nhau hơn bất kể người nào mà cô đã từng gặp. Họ cùng nhau tỏa sáng, bay nhanh như tên, thông minh và cảm giác tất cả những thứ đó đồng thời được quét lên người họ vậy. Họ không mặc quần áo nhưng cô lại cảm thấy mình như thể mới là người không mặc gì trước những con mắt của họ, những ánh mắt thật sắc và sâu.
Khi đã hết xấu hổ, cô quay lại đáp lại cái nhìn của họ, đầu ngẩng cao.
“Vậy, các bạn là thiên thần,” cô nói, “hay Người canh giữ, hay là bene elim. Các bạn đang đi đâu thế?”
“Chúng tôi đi theo một tiếng gọi,” một thiên thần nói. Cô không chắc là vị nào nói nữa.
“Tiếng gọi của ai?”
“Của một người.”
“Ngài Asriel?”
“Có thể.”
“Tại sao các bạn lại đi theo tiếng gọi của ông ấy?”
“Bởi vì chúng tôi thích thế,” một giọng nói đáp lại.
“Vậy thì bất kể ông ấy ở đâu, các bạn cũng có thể dẫn tôi tới chỗ của ông ấy,” cô ra lệnh cho họ.
Ruta Skadi đã bốn trăm mười sáu tuổi, với tất cả tự tôn và tri thức của một nữ hoàng phù thủy trưởng thành. Cô thông minh hơn bất cứ người sống ngắn ngủi nào, nhưng cô không hề có một ý nghĩ dù là nhỏ nhất nào về việc trông cô giống như một đứa trẻ ra sao bên cạnh những giống loài cổ xưa này. Cô cũng không biết nhận thức của họ trải rộng như những sợi tơ mảnh đến những vùng xa xôi hẻo lánh nhất trên vũ trụ, những vùng mà cô thậm chí chưa bao giờ mơ tới; hoặc biết rằng cô nhìn thấy họ dưới hình dạng người chỉ bởi vì mắt cô muốn vậy. Nếu cô nhận thức được hình dạng thật sự của họ, thì họ sẽ có vẻ giống như tòa kiến trúc hơn là cơ thể, như những cấu trúc khổng lồ do trí tuệ và cảm xúc tạo l
Nhưng họ không mong đợi gì hơn: cô ta còn quá trẻ.
Ngay lập tức họ vỗ cánh bay dần lên cao, cô cũng lao vụt lên cùng với họ, lướt trên những tiếng cánh vỗ lao xao trên không để thưởng thức tốc độ và sức mạnh như được thêm vào chuyến bay của cô.
Họ bay suốt đêm. Những vì sao trên đầu họ nhạt dần và biến mất khi ánh rạng đông bắt đầu hiện lên. Khi ánh sáng mặt trời xuất hiện, thế giới như bừng sáng, họ bay qua bầu trời xanh trong không khí trong lành, ngọt ngào và ẩm ướt.
Ban ngày những thiên thần ít bị nhìn thấy hơn mặc dầu dáng vẻ lạ lùng của họ là rất rõ ràng. Ánh sáng mà Ruta Skadi nhìn thấy không phải là ánh sáng mặt trời đã bắt đầu chiếu lên đỉnh núi mà là ánh sáng từ nơi nào đó.
Tràn đầy sinh lực, họ vẫn tiếp tục bay và cô cũng bay theo không biết mệt mỏi. Cô thấy vui sướng cực độ khi biết mình có thể ra lệnh cho những hình dạng bất tử này. Cô thấy niềm vui tràn ngập máu thịt của cô, trên nhành thông trầy xước mà cô cảm nhận được trên da mình, cả cơn đói lúc này và sự hiện diện của con nhân tinh đáng yêu của cô; dưới mặt đất kia là tất cả sinh vật, từ cây cối đến muông thú; cô vui thích vì giống như họ, và vì biết rằng khi cô chết, da thịt cô sẽ nuôi dưỡng những cuộc sống khác như chúng đã từng nuôi dưỡng cô. Một niềm vui nữa là cô sẽ được gặp Asriel.
Một đêm nữa trôi qua, những thiên thần vẫn tiếp tục bay… Tầng khí đã thay đổi, không tốt hơn mà cũng không xấu hơn, Ruta Skadi biết rằng họ đã bay qua thế giới này đến một thế giới khác. Cô không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra.
“Thiên thần à!” cô gọi khi cảm thấy sự thay đổi trong không khí. “Làm cách nào mà chúng ta đã rời khỏi thế giới mà tôi đã tìm ra các bạn? Đường biên giới ở đâu thế?”
“Có nhiều chỗ không thể nhìn thấy được trong không khí,” tiếng trả lời vọng tới. “Những cái cổng vào một thế giới khác. Chúng tôi có thể nhìn thấy chúng, nhưng cô thì không.”
Ruta Skadi không nhìn thấy những cái cổng, nhưng cô cũng không cần, phù thủy có thể định hướng tốt hơn là chim muông. Ngay khi những thiên thần nói, cô để ý tới ba đỉnh núi lởm chởm răng cưa ở phía dưới và cố nhớ chính xác hình dáng đó. Từ bây giờ, cô có thể tìm lại nó nếu cần, mặc cho những thiên thần này muốn nghĩ gì.
Họ bay cao hơn, đột nhiên, cô nghe thấy có giọng nói: “Ngài Asriel đang ở thế giới này, ông ấy đang xây một pháo đài…”
Họ bay chậm dần, rồi bay vòng quanh như những con đại bàng trên không trung. Ruta Skadi nhìn theo hướng một thiên thần đang chỉ. Những ánh sáng đầu tiên của một ngày đang le lói ở phía đông mặc dù những vì sao vẫn sáng lấp lánh trên bầu trời đen như nhung. Ánh sáng ngày một rõ hơn; một ngọn núi hùng vĩ nhô lên ở phía sau với những tảng đá đen có đỉnh nhọn hoắt, những phiến đá mỏng xen lẫn những đỉnh núi lởm chởm răng cưa cứ chồng đống vào nhau như sau một thảm họa vũ trụ vậy. Nhưng ở đỉnh núi cao nhất, nơi đầu tiên đón nhận những tia nắng đầu tiên của mặt trời rạng rỡ lại đứng sừng sững một pháo đài có tường bao quanh làm bằng đá bazan, cao bằng một nửa ngọn đồi, chỉ có thể đo được nó bằng cách tính thời gian bay mà thôi.
Khi trời vẫn còn tối, dưới pháo đài khổng lồ là những ánh lửa bập bùng từ những lò luyện kim, Ruta Skadi có thể nghe được cả những tiếng quai búa cách đó vài dặm và tiếng của những cối xay gió lớn. Từ mọi hướng, hướng nào cô cũng thấy những đôi cánh của các thiên thần đang bay tới, không chỉ có mỗi thiên thần mà còn những chiếc máy nữa, những chiếc máy có cánh bằng thép đang lướt nhanh như những con chim hải âu lớn, những khoang kính nhỏ phía dưới lập lòe như cánh rồng, những tiếng kêu o o của khí cầu zepơlin giống những con ong nghệ khổng lồ—tất cả đang hướng tới pháo đài mà Ngài Asriel đang xây ở trên dãy núi ngay rìa thế giới.
“Ngài Asriel ở đó sao?”
“Đúng, ông ấy ở đó,” những thiên thần đáp.
“Vậy ta hãy bay đến gặp ông ấy. Các bạn hãy làm người hộ giá cho tôi.”
Họ tuân lệnh, sải rộng đôi cánh bay về phía pháo đài có viền vàng, với cô phù thủy háo hức bay đằng trước.
Chiếc La Bàn Vàng Chiếc La Bàn Vàng - Philip Pullman Chiếc La Bàn Vàng