Cầu Chúa ban cho con sự thanh thản để chấp nhận những thứ con không thể thay đổi, sự caN đảm để thay đổi những thứ con có thể, và sự khôn khoan để phân biệt những cái có thể thay đổi và không thể.

Dr. Reinhold Niebuhr

 
 
 
 
 
Tác giả: Philip Pullman
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Golden Compass
Dịch giả: Nhật Thu
Biên tập: Gió
Upload bìa: Little rain
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Tập 2 - Ánh Sáng Phương Bắc - Chương 12 - Cậu Bé Mất Tích
ọ đi nhiều giờ trước khi dừng lại để ăn. Trong khi những người đàn ông nhóm lửa và đun tuyết lấy nước uống, Iorek Byrnison xem Lee Scoresby nướng thịt hải cẩu bên cạnh, John Faa nói chuyện với Lyra.
“Lyra, cháu có nhìn rõ mặt chiếc máy để đọc nó không?”
Mặt trăng đã lặn từ lâu. Ánh sáng từ hiện tượng cực quang sáng hơn ánh trăng, nhưng không thường xuyên. Tuy nhiên, mắt Lyra rất tinh, cô loay hoay trong chiếc áo choàng lông thú rồi rút gói bọc vải nhung ra.
“Vâng, cháu có thể nhìn nó rất rõ,” cô nói. “Nhưng dù thế nào thì đến bây giờ cháu cũng biết vị trí của hầu hết các biểu tượng rồi. Cháu sẽ hỏi nó chuyện gì, Ngài Faa?”
“Ta muốn biết người ta bảo vệ nơi này như thế nào, Bolvangar ấy,” ông trả lời.
Thậm chí không cần suy nghĩ, các ngón tay cô chuyển dời những chiếc kim đến vị trí chiếc mũ sắt, quái vật sư tử mình chim và chiếc nồi nấu kim loại. Cô cảm thấy tâm trí mình hướng về các ý nghĩa như một biểu đồ phức tạp ba chiều. Ngay lập tức chiếc kim dài bắt đầu quay vòng, quay ngược lại, rồi lại quay vòng, như một con ông đang bay lượn để báo chỗ có phấn hoa cho bạn cùng tổ. Cô bình tĩnh theo dõi theo, tập trung, không phải để biết kết quả mà biết rằng một ý nghĩa nào đó sắp được xác định, và bắt đầu trở nên rõ ràng. Cô để nó quay cho đến khi chắc chắn.
“Giống như lời vị nhân tinh của bà phù thủy đã nói, thưa Ngài Faa. Có một nhóm người Tartan đang canh giữ trạm, người ta chăng dây thép gai ở khắp mọi nơi. Họ không thực sự cho rằng sẽ bị tấn công. Đó là điều chiếc máy đọc biểu tượng nói. Nhưng Ngài Faa…
“Gì thế cháu?”
“Nó còn nói cho cháu biết điều gì đó nữa. Trong thung lũng bên cạnh có một ngôi làng ở gần hồ, cư dân ở đó đang bị một con ma quấy nhiễu.”
John Faa lắc đầu sốt ruột và nói, “Bây giờ thì điều đó không quan trọng với chúng ta. Chắc đó là một loại linh hồn nào đó lẩn khuất trong các khu rừng. Hãy nói lại ta nghe về bọn người Tartar. Ví dụ như họ có bao nhiêu người? Họ được trang bị loại vũ khí nào?”
Lyra ngoan ngoãn hỏi chiếc máy đọc biểu tượng rồi trả lời, “Có sáu mươi người đàn ông trang bị súng trường, họ có hai khẩu súng lớn hơn, kiểu súng thần công. Họ còn có cả máy ném lửa. Và… nhân tinh của họ đều là sói, chiếc máy nói như vậy.”
Lời nói của Lyra tạo nên sự xao động giữa những người Digan cao tuổi đã từng nam chinh bắc chiến khắp nơi.
“Người Sibirsk có nhân tinh là sói,” một người nói.
John Faa nói, “Tôi chưa từng gặp một người nào hung dữ hơn họ. Hãy hỏi ý kiến con gấu, nó là một chiến binh nhiều kinh nghiệm.”
Lyra không thể kiên nhẫn hơn, cô nói, “Nhưng Ngài Faa, con ma này… cháu nghĩ nó là con ma của một trong những đứa trẻ bị bắt cóc.”
“À, thậm chí là như vậy, Lyra ạ, ta không biết người nào có thể làm bất cứ điều gì với chuyện này. Sáu mươi người Sibirk có trang bị súng trường, và những chiếc máy ném lửa… Ông Scoresby, hãy bước qua đây nếu ông có thể, một lúc thôi.”
Trong khi người lái khinh khí cầu đến chỗ xe kéo, Lyra tụt xuống và nói chuyện với con gấu.
“Iorek, trước đây anh từng đi qua con đường này bao giờ chưa?”
“Một lần.” Nó nói với giọng trầm và thấp.
“Có một ngôi làng ở gần đây, đúng không?”
“Phía sau quả đồi,” nó nói, nhìn lên phía những ngọn cây.
“Có xa lắm không?”
“Với cô hay với tôi?”
“Với tôi,” cô trả lời.
“Quá xa. Với tôi thì không chút nào.”
“Vậy thì anh cần bao lâu để tới được đó?”
“Tôi có thể đi và về ba lần trước khi trời sáng.”
“Bởi vì, Iorek, nghe này: tôi có một chiếc máy đọc biểu tượng nói tôi biết mọi chuyện. Nó nói cho tôi về một điều gì đó quan trọng mà tôi cần phải làm ở ngôi làng đấy. Ngài Faa sẽ không cho tôi đến đó. Ông ấy chỉ muốn nhanh chóng tiếp tục lên đường. Tôi biết điều này cũng quan trọng. Nhưng trừ khi tôi đi và tìm ra, chúng ta sẽ không biết bọn Gà trống tây thực sự đang làm gì.”
Con gấu không nói gì cả. Nó đang ngồi trong tư thế giống con người, hai chiếc tay to bè gập lại trước ngực. Đôi mắt nâu sẫm của nó nhìn xuống cô đang đứng dưới mũi mình. Nó biết cô đang muốn một điều gì đó.
Pantalaimon nói, “Anh có thể đưa chúng tôi đến đó rồi sau đó đuổi theo đoàn xe kéo được không?”
“Tôi có thể. Nhưng tôi đã hứa với Ngài Faa là sẽ theo lệnh ông ấy, chứ không phải bất cứ người nào khác.”
“Nếu tôi được ông ấy cho phép thì sao?” Lyra hỏi.
“Vậy thì được.”
Cô quay đi và chạy trở lại trên nền tuyết.
“Ngài Faa! Nếu Iorek Byrnison đưa cháu qua ngọn đồi đến ngôi làng, chúng cháu sẽ có thể tìm ra nó là gì, rồi sau đó bắt kịp cả đoàn. Anh ấy biết hành trình chúng ta sẽ đi mà,” cô năn nỉ. “Cháu sẽ không đòi hỏi, trừ khi nó giống như trước đây cháu đã làm, Farder Coram, ông nhớ chứ, chuyện về con tắc kè hoa ấy? Lúc đầu cháu đã không hiểu, nhưng điều linh cảm đó đã đúng, và chúng ta đã nhanh chóng kiểm chứng được. Bây giờ cháu cũng có cảm giác tương tự. Cháu không thể hiểu chính xác điều nó muốn nói, cháu chỉ biết nó quan trọng thôi. Iorek Byrnison biết đường, anh ấy nói anh ấy có thể đi và về ba lần trước khi mặt trời mọc. Cháu sẽ càng an toàn nếu đi với anh ấy, phải vậy không? Nhưng anh ấy sẽ không đi nếu không được sự cho phép của Ngài Faa.”
Tiếp theo đó là sự im lặng. Farder Coram thở dài. John Faa cau mày và môi ông mím chặt dưới bóng chiếc mũ trùm đầu.
Trước khi ông lên tiếng, người lái khinh khí cầu chen vào, “Ngài Faa, nếu Iorek Byrnison đưa cô bé đi, cô bé sẽ được an toàn như khi đang ở đây với chúng ta vậy. Tất cả các con gấu đều trung thành, mà thôi thì đã biết Iorek nhiều năm, và chẳng có gì trên đời có thể khiến anh ấy phá bỏ lời hứa. Hãy giao nhiệm vụ trôm nom cô bé cho anh ấy, anh ấy sẽ làm được, không có một sai sót nào. Còn về tốc độ của chuyến đi, anh ấy có thể đi hàng giờ mà không thấy mệt mỏi.
“Nhưng tại sao không phải là vài người đàn ông khác đi?” John Faa hỏi.
“Vì họ sẽ phải đi bộ,” Lyra giải thích. “Không thể chạy xe kéo trên quả đồi đó được. Iorek Byrnison có thể đi nhanh hơn bất cứ người đàn ông nào trên địa hình đó, cháu cũng đủ nhẹ để không làm anh ấy phải đi chậm lại. Cháu xin hứa, Ngài Faa, cháu xin hứa sẽ không ở lại đó lâu hơn mức cần thiết, và không để lộ thông tin gì về chúng ta, hoặc vướng vào nguy hiểm nào.”
“Cháu có chắc là mình phải làm như vậy không? Chiếc máy đọc biểu tượng đó không đánh lừa cháu đấy chứ?”
“Nó không bao giờ làm vậy đâu, Ngài Faa, và cháu không nghĩ nó có khả năng đó.”
John Faa xoa cằm.
“Thôi được rồi, nếu tất cả mọi việc đều diễn ra suôn sẻ, chúng ta sẽ có thêm chút ít thông tin so với hiện tại. Iorek Byrnison,” ông gọi to, “anh có sẵn sàng làm theo yêu cầu của cô bé này không?”
“Tôi làm theo lệnh của ông, thưa Ngài Faa. Chỉ cần ông ra lệnh tôi đưa đứa trẻ này đến đó, tôi sẽ làm theo như vậy.”
“Tốt lắm. Anh có trách nhiệm đưa nó đến nơi nó muốn và làm theo lời nó ra lệnh. Lyra, ta đang giao nhiệm vụ cho cháu, cháu rõ chưa?”
“Rõ, thưa Ngài Faa.”
“Cháu hãy đi và tìm hiểu xem đó là thứ gì, khi đã tìm được, cháu phải quay về ngay lập tức. Iorek Byrnison, trong lúc đó thì cả đoàn sẽ đi tiếp, vì thế anh sẽ phải đuổi theo để bắt kịp chúng tôi.”
Con gấu gật gật chiếc đầu khổng lồ của mình.
“Có người lính nào trong làng không?” nó hỏi Lyra. “Tôi có cần đến bộ giáp sắt không? Chúng ta sẽ đi nhanh hơn nếu không có nó.”
“Không,” cô trả lời. “Tôi có thể chắc chắn về điều này, Iorek. Cảm ơn Ngài Faa, cháu hứa sẽ làm đúng như lời ông dặn.”
Tony Costa đưa cho cô một rẻo thịt hải cẩu sấy khô để nhai, rồi cùng với Pantalaimon đã biến thành một con chuột nằm trong chiếc mũ trùm đầu của cô, Lyra leo lên lưng con gấu lớn, nắm chắc lấy lông nó bằng đôi tay đeo găng và áp chặt hai khuỷu chân vào hai bên sườn đầy cơ bắp của nó. Lông nó dày một cách kỳ lạ, và cảm giác về sức mạnh to lớn như tràn ngập. Như thể cô không nặng chút nào, nó quay người và lướt nhanh theo con đường dài vòng quanh lên đồi rồi lẫn vào giữa những hàng cây.
Phải mất một lúc cô mới quen với kiểu đi này, rồi sau đó cô cảm thấy vô cùng vui sướng. Cô đang cưỡi trên lưng một con gấu! Hiện tượng cực quang chiếu sáng trên đầu họ với những vầng và quầng sáng. Khắp xung quanh là sự giá lạnh tê buốt của Bắc cực và sự im lặng tuyệt đối của phương Bắc.
Móng vuốt của Iorek Byrnison hầu như không tạo ra một tiếng động gì khi nó đạp trên nền tuyết. Những hàng cây ở đây khẳng khiu và cằn cỗi. Vì họ đang ở bên rìa của lãnh nguyên, nhưng cũng có những bụi cây nhỏ và gai. Con gấu giẫm lên chúng nhưng giẫm lên đám mạng nhện vậy.
Họ trèo qua quả đồi thấp, xung quanh là đám đá đen trồi lên trên mặt đất và nhanh chóng rời khỏi tầm mắt của những người đứng phía dưới. Lyra muốn nói chuyện với con gấu, nếu nó là con người thì cô đã có thể tâm sự với nó. Nhưng nó quá xa lạ, hoang dã và lạnh lùng đến mức cô e ngại. Gần như đây là lần đầu tiên trong đời cô phải e ngại trước một chuyện. Vì thế trong khi nó đi nhanh, đôi chân to lớn chuyển động không ngừng, cô ngồi im không nói gì cả. Dù sao có thể nó lại thích thế, cô nghĩ. Chắc hẳn cô chỉ như một đứa trẻ nghịch ngợm trong mắt một con gấu mặc áo giáp sắt.
Trước đây rất hiếm khi cô tự suy xét lại bản thân mình, và nhận thấy đó là một cảm giác thú vi nhưng không dễ chịu, rất giống với việc cưỡi trên lưng một con gấu, thực sự vậy. Iorek Byrnison đang bước đi rất nhanh, cả hai chân bước khỏi mặt đất cùng lúc, lắc lư bên này bên kia theo một nhịp điệu nhanh và mạnh. Cô nhận thấy mình không thể chỉ ngồi, cô phải cưỡi một cách linh động.
Họ đã đi được một giờ đồng hồ hoặc hơn thế nữa, Lyra đã lạnh cóng và đau đớn, nhưng hạnh phúc vô cùng, Iorek Byrnison đi chậm dần rồi dừng lại.
“Nhìn lên trên kia kìa,” nó nói.
Lyra ngước mắt lên và phải dụi mắt bằng phía bên trong của cổ tay, vì trời lạnh đến nỗi nước mắt làm mở cả mắt cô rồi. Khi đã có thể nhìn rõ ràng cô kinh ngạc trước cảnh tượng trên bầu trời. Hiện tượng cực quang đã giảm dần chỉ còn những ánh sáng le lói vàng vọt, nhưng những ngôi sao lại sáng rực như kim cương, ngang qua bầu trời tối đen rộng lớn dát đầy kim cương đó, hàng trăm, hàng nghìn những hình thù màu đen nhỏ xíu đang bay từ phía đông và phía nam về hướng bắc.
“Đó là những con chim phải không?” cô hỏi.
“Họ là các phù thủy,” con gấu trả lời.
“Các phù thủy! Họ đang làm gì thế?”
“Bay đến tham chiến ở một nơi nào đó, có thể là như vậy. Tôi chưa từng thấy cùng một lúc nhiều phù thủy đến mức này.”
“Anh có quen phù thủy nào không, Iorek?”
“Tôi từng làm việc cho vài người. Và đánh nhau với vài người. Đây là một cảnh tượng đáng làm cho Ngài Faa lo sợ. Nếu họ đang bay đi yểm trợ cho kẻ thù của các cô, tất cả các cô nên e sợ.”
“Ngài Faa sẽ không sợ hãi đâu. Anh cũng không sợ hãi, phải không?”
“Vẫn chưa. Khi tôi sợ hãi, tôi chế ngự nó. Nhưng tốt hơn chúng ta nên nói cho Ngài Faa về chuyện các phù thủy, bởi có thể những người đàn ông đó không nhìn thấy họ.”
Nó tiếp tục đi chậm hơn, cô cứ nhìn lên bầu trời cho đến khi mắt giàn giụa nước vì lạnh. Cô thấy dòng phù thủy bay về hướng bắc vẫn chưa kết thúc.
Cuối cùng Iorek Byrnison dừng lại và nói, “Ngôi là đây rồi.” Họ đang nhìn xuống một con dốc gồ ghề gãy gục dẫn xuống một nhóm những ngôi nhà gỗ bên cạnh một dài tuyết hẹp, Lyra cho rằng đó là một chiếc hồ. Một bến thuyền bằng gỗ cho thấy cô đã đoán đúng. Họ chỉ còn cách nơi đó chưa đầy năm phút.
“Cô muốn làm gì bây giờ?” con gấu hỏi.
Lyra tụt khỏi lưng nó và thấy khó mà đứng vững được. Mặt cô lạnh cóng, hai chân mỗi nhừ, nhưng cô bám chặt lấy lưng nó và đứng cho đến khi cảm thấy khỏe hẳn.
“Có một đứa bé hay một con ma hoặc thứ gì đó dưới ngôi làng này,” cô nói, “hay có thể gần đó, tôi cũng không biết chắc nữa. Tôi muốn đến và tìm nó rồi đưa về cho Ngài Faa cùng những người khác nếu có thể. Tôi nghĩ đó là một con ma, nhưng có khi chiếc máy đọc biểu tượng đã nói gì đó mà tôi không hiểu.”
Nếu nó không ở bên ngoài,” con gấu nói, “hẳn là nó có một chỗ trú ngụ.”
“Tôi không nghĩ là nó đã chết…” Lyra nói, nhưng cô không chắc chắn chút nào về việc đó. La bàng vàng đã chỉ vào điều gì đó, huyền bí và không tự nhiên, đang hoảng sợ. Nhưng cô là ai chứ? Cô là con gái của Ngài Asriel. Và ai đang dưới quyền chỉ huy của cô nào? Một con gấu dũng mãnh. Làm sao cô có thể tỏ ra mình đang sợ hãi được?
“Chúng ta cứ đến và xem xem,” cô nói.
Cô lại trèo lên lưng con gấu, nó bắt đầu đi xuống con dốc mấp mô, đi thật vững và không chạy nhanh nữa. Những con chó trong làng đánh hơi hay nghe thấy hay cảm nhận được có người đang đến, bắt đầu sủa lên đầy hoảng sợ; những con tuần lộc nuôi trong sân chạy cuống lên, sừng đập chan chát như những chiếc gậy gỗ. Trong không gian tĩnh lặng, mỗi cử động đều có thể nghe thấy từ khoảng cách rất xa.
Khi họ đến được căn nhà đầu tiên, Lyra nhìn trước nhìn sau, cố căng mắt nhìn vào bóng tối, vì hiện tượng cực quang đã giảm và mặt trăng còn lâu mới nhô lên. Thấp thoáng đây đó có ánh đèn dưới những mái nhà tuyết phủ dày, Lyra nghĩ cô đã nhìn thấy vài khuôn mặt tái xanh phía sau những ô cửa sổ, họ sẽ ngạc nhiên đến mức nào khi nhìn thấy một cô bé đang cưỡi trên lưng con gấu trắng vĩ đại.
Chính giữa ngôi làng có một khoảng đất trống bên cạnh bến tàu, nơi các con thuyền được cột lại và nổi lên thành từng đống do bị tuyết bao phủ. Tiếng chó sủa đinh tai, nhức óc, đúng như Lyra dự đoán, nó đã đánh thức tất cả người dân trong làng. Một cánh cửa bật mở và một người đàn ông tay cầm súng trường bước ra. Con nhân tinh sói của ông ta đến bên đống củi cạnh cửa làm mớ tuyết ở đó bay tóe tung.
Lyra lập tức tụt xuống, đứng chắn giữa ông ta Iorek Byrnison, ý thức được việc chính cô đã nói với con gấu không cần phải mang bộ giáp sắt đi theo.
Người đàn ông nói thứ tiếng cô không hiểu. Iorek Byrnison đáp lại bằng ngôn ngữ đó, làm ông ta sợ hãi rên lên.
“Ông ta nghĩ chúng ta là ma quỷ,” Iorek nói với Lyra. “Tôi sẽ nói gì đây?”
“Nói với ông ta chúng ta không phải là ma quỷ, nhưng chúng ta có những người bạn như thế. Và chúng ta đang tìm kiếm… cứ nói là một đứa trẻ được rồi. Một đứa trẻ kỳ lạ. Nói với ông ta như vậy.”
Con gấu vừa nói dứt lời, người đàn ông chỉ sang bên phải, thể hiện một nơi cách xa, và nói rất nhanh.
Iorek Byrnison nói, “Ông ta hỏi chúng ta có đến và đưa đứa trẻ đó đi không. Họ sợ nó. Họ đã cố đuổi nó đi, nhưng nó cứ quay lại.”
“Nói với ông ta chúng ta sẽ đưa nó đi, nhưng họ thật xấu bụng khi đối xử với nó như vậy. Nó đầu rồi?”
Người đàn ông giải thích, hoa chân múa tay một cách sợ hãi. Lyra sợ ông ta sơ ý làm cướp cò súng, nhưng ngay khi nói xong, ông ta lẩn vào nhà và đóng sầm cửa lại. Lyra nhìn thấy những khuôn mặt dòm ra từ những chiếc cửa sổ.
“Đứa bé đó đang ở đâu thế?” cô hỏi.
“Trong ngôi nhà để đựng cá,” con gấu nói với cô, và quay đầu đi xuống bến thuyền.
Lyra theo sau. Cô cảm thấy vô cùng hồi hộp. Con gấu đang đi đến một túp lều gỗ chật hẹp. Nó ngẩng cao đầu hít chỗ nọ chỗ kia, và khi đến được cửa, nó dừng lại nói, “Đây rồi.”
Tim Lyra đập nhanh đến nỗi cô gần như không thở nổi. Cô giơ tay lên gõ cửa, nhưng rồi cảm thấy thế thật kỳ cục, bèn hít một hơi sâu để gọi to, nhưng nhận thấy không biết phải gọi như thế nào. Ôi, trời tối quá! Đáng lẽ cô nên mang theo một cây đèn.
Nhưng dù sao cũng không còn sự lựa chọn nào khác, cô không muốn để con gấu thấy mình đang hoảng sợ. Nó đã nói về chuyện chế ngự lòng sợ hãi, đó là điều cô cần làm. Cô nâng chiếc chốt làm bằng sừng tuần lộc lên, giữ lấy then cửa và đẩy mạnh vào lớp băng đang chẹn chặt cửa. Nó hơi hé ra. Cô phải đá đống tuyết phía dưới cửa đi trước khi kéo cửa mở rộng. Pantalaimon chẳng giúp đỡ gì cả, nó chị chạy lên chạy xuống trong hình dáng con chồn ecmin, như một cái bóng trên nền tuyết trắng, kêu lên những tiếng hãi sợ.
“Pan, vì Chúa!” cô nói. “Biến thành dơi đi. Hãy vào và tìm giúp mình…”
Nhưng nó không làm theo, và cũng không nói gì cả. Cô chưa bao giờ thấy nó như vậy, ngoại trừ lần cô và Roger tráo đổi các đồng xu khắc hình nhân tinh vào các xương sọ khác nhau trong hầm mộ ở Jordan. Thậm chí trông nó còn sợ hãi hơn cả cô. Còn về phần Iorek Byrnison, nó nằm trên nền tuyết gần đó, quan sát trong im lặng.
“Ra đây đi,” Lyra nói với giọng to nhất cô dám nói. “Ra đây đi nào.”
Không có một âm thanh nào trả lời lại. Cô đẩy cửa rộng thêm một chút. Pantalaimon nhảy vào lòng cô, đầy giúi giụi vào người cô trong hình dạng một con mèo và nói, “Đi khỏi đây thôi! Đừng ở lại đây! Ôi, Lyra, đi nào! Quay về đi thôi!” Vừa cố gắng giữ chặt nó, cô vừa để ý thấy Iorek Byrnison đang đứng trên hai chân và quay lại nhìn thấy một bóng người đang hối hả đi xuống con đường từ trong làng ra, trên tay cầm một cây đèn. Khi đến đủ gần để nói chuyện, ông giơ ngọn đèn lên và giữ nó ngang mặt: một ông già có khuôn mặt to bè và nhiều nếp nhăn, đôi mắt gần như bị che lấp bởi hàng nghìn nếp hằn. Nhân tinh của ông ta là một con cáo Bắc cực.
Ông ta lên tiếng, Iorek Byrnison nói lại với Lyra:
“Ông ta nói đây không phải là đứa trẻ duy nhất bị như vậy. Ông ấy từng nhìn thấy những đứa khác ở trong rừng. Đôi khi chúng chết rất nhanh, đôi khi chúng lại không chết. Đức trẻ này sống rất dai, ông ta nghĩ vậy. Nhưng sẽ tốt hơn cho nó nếu nó chết đi.”
“Hãy hỏi ông ta liệu tôi có mượn ông ấy cây đèn được không?” Lyra nói.
Con gấu hỏi, người đàn ông đưa nó cho cô ngay lập tức, gật đầu lia lịa. Cô nhận ra ông ta đến là để mang cho cô cây đèn và cảm ơn ông ta, ông ta lại gật đầu rồi đứng lùi lại, cách xa khỏi cô, khỏi căn lều và con gấu.
Lyra đột nhiên nghĩ: nếu đứa bé là Roger thì sao? Cô ra sức cầu nguyện để điều đó không phải là sự thực. Pantalaimon đang bám chặt lấy cô, nó đã lại biến thành chồn ecmin. Những móng vuốt bé xíu của nó bám chắc vào tấm áo choàng của cô.
Cô nâng cao chiếc đèn, bước một bước vào căn lều, và nhìn thấy điều bọn Gà trống tây đang làm, và thực chất của việc hi sinh bọn trẻ đang phải chịu.
Cậu bé đang ngồi giúi vào một giàn treo những hàng cá đã moi ruột, tất cả đều cứng đơ. Cậu đang ôm chặt một miếng cá vào lòng như Lyra ôm chặt Pantalaimon, bằng cả hai tay, thật chặt, sát bên trái tim cô. Nhưng đó là tất cả những gì cậu có, một miếng cá phơi khô, bởi vì cậu bé không còn nhân tinh nữa. Bọn Gà trống tây đã tách nó khỏi cậu. Đó chính là sự chia cắt, và đây là một đứa trẻ bị chia tách.
Chiếc La Bàn Vàng Chiếc La Bàn Vàng - Philip Pullman Chiếc La Bàn Vàng