If you only read the books that everyone else is reading, you can only think what everyone else is thinking.

Haruki Murakami, Norwegian Wood

 
 
 
 
 
Thể loại: Phiêu Lưu
Dịch giả: Phạm Hồng Chi
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 18
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1155 / 22
Cập nhật: 2017-04-04 13:33:18 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương X - Số Ba
ọ ngờ rằng hắn không có tim
R. Sabatini, SCARAMOUCHE
Corso có một sở trường hiếm thấy: gã có thể ngay lập tức biến một người xa lạ thành đồng bọn trung thành bằng một chút tiền boa, thậm chí chỉ bằng một nụ cười. Như đã thấy, có một vài điều ở gã – sự vụng về nửa có tính toán nửa không, cái dáng vẻ thỏ non thân thiện, vẻ bơ vơ lạ lõng không ra kiểu gì của gã – tất cả đều rất lôi cuốn. Điều này xảy ra với một vài người trong chúng ta. Và cũng xảy ra với Gruber, người gác cổng ở Louvre Concorde, người mà Corso có quan hệ làm ăn từ mười lăm năm trước. Gruber là người khô khan và điềm tĩnh, với mái tóc húi cua và biểu hiện của một tay chơi bài xì quanh năm suốt tháng trên khóe miệng. Trong cuộc rút quân năm 1944, khi y mười sáu tuổi và là quân tình nguyện Croatia trong sư đoàn Horst Wessel thứ mười tám, một viên đạn Nga đã xuyên vào xương sống y. Chuyện đó đã bắt y mang suốt đời tấm huân chương Chữ thập Sắt hạng hai và ba đốt sống nhân tạo. Đấy là lý do khiến y luôn đứng cứng quèo đằng sau cái bàn tiếp tân, giống như trên người có một chiếc coóc xê bằng thép.
“Tôi cần ông giúp một tay, Gruber.”
“Vâng, thưa ngài.”
Y hầu như rập gót khi đứng nghiêm. Chiếc áo jacket màu vàng đỏ hoàn hảo với những chìa khóa vàng trên ve áo khiến lão già tha hương này mang bộ dáng nhà binh, rất chi hợp khẩu vị dân Trung Âu trọ trong khách sạn. Sau khi hệ thống Đông Âu sụp đổ và cộng đồng sắc tộc Xlavơ tan rã, họ tới Paris ngắm nhìn quảng trường Champs-Elysées bằng nửa con mắt và mơ về Đế chế Thứ tư.
“La Ponte, Flavio, Quốc tịch Tây Ban Nha. Và cả Herrero, Liana cũng vậy, mặc dù cô ta có thể dùng cái tên Taillfer hay de Taillefer. Tôi muốn biết họ có trọ ở khách sạn nào trong thành phố hay không.”
Gã viết mấy cái tên lên một tấm các rồi đưa cho Gruber kèm theo năm trăm quan. Corso thường nhún vai khi đưa tiền boa hay tiền hối lộ, như muốn nói, “Thỉnh thoảng tôi sẽ lại làm thế này với ông.” Điều đó khiến nó trở thành một sự trao đổi thân thiết và bí ẩn, thật khó nói là ai đang giúp ai. Gruber thường lịch sự lẩm bẩm “Merci m’sieu” với những người Tây Ban Nha theo tua trọn gói, với người Ý mang cà vạt to, với người Mỹ đeo những cái túi mang tên hãng hàng không và đội mũ bóng chày để nhận được món tiền boa mười quan khốn khổ, lẳng lặng cầm tờ giấy bạc ngân hàng của Corso, thậm chí không buồn gật đầu. Chỉ có bàn tay y vẽ thành nửa vòng tròn lịch thiệp đặng nhét nó vào túi với vẻ nghiêm trang dửng dưng của một tay hồ ly dành cho dăm ba người vẫn còn biết luật chơi, như Corso. Gruber học nghề từ thuở một người khách chỉ cần nhướn mày là đủ khiến nhân viên khách sạn lon ton chạy tới. Cái chất châu Âu sang cả ngày xưa trong các khách sạn quốc tế nay đâu còn nữa, chỉ đôi ba người sành sỏi còn sót lại.
“Quý ông và quý bà đó ở cùng nhau?”
“Không biết.” Corso nhăn mặt. Gã tưởng tượng cảnh La Ponte mặc áo choàng thêu trong phòng tắm và bà góa Taillefer nằm trên giường với chiếc áo ngủ bằng lụa. “Tôi cũng muốn biết điều đó.”
Gruber hơi khom lưng. “Sẽ mất vài giờ, ông Corso.”
“Tôi hiểu.” Gã nhìn dọc hành lang dẫn tới phòng ăn. Cô gái vẫn đấy, hai tay đút túi, cái áo khoác len thô kẹp dưới nách, đang chăm chú xem một màn hình quảng cáo nước hoa và khăn lụa. “Cô ta thì sao?”
Người gác cổng lôi dưới bàn ra một tấm các.
“Irene Adler,” y đọc. “Hộ chiếu Anh, cấp hai tháng trước. Mười chín tuổi. Địa chỉ: 223B phố Baker, London.”
“Đừng đùa với tôi, Gruber.”
“Chẳng bao giờ tôi tùy tiện thế, thưa ông Corso. Đó là những điều được ghi trong này.”
Có một sự nhắc nhở, một gợi ý rất khéo từ nụ cười của tay cựu nhân viên lực lượng võ trang SS. Corso mới chỉ một lần thấy y cười: ngày bức tường Berlin sụp đổ. Gã nhìn Gruber với cái đầu trọc bạc trắng, cái cổ cứng đờ, hai tay chống vào mép bàn rất cân xứng. Châu Âu ngày xưa, hay phần còn lại của nó. Gruber đã quá già, chẳng còn hơi sức đâu trở về quê hương, cộng với nguy cơ chẳng còn tìm thấy những gì trong trí nhớ của y; không còn tháp chuông Zagreb, không còn những thôn nữ tóc vàng nồng nàn thơm mùi bánh mì mới, không còn những cánh đồng xanh với những dòng sông và những cây cầu y đã chứng kiến nổ tung hai lần – một lần khi y còn trẻ, trong khi chạy trốn quân du kích của Tito, và lần nữa trên ti vi, mùa thu 1991, khi có mặt những người theo phong trào dân tộc Serbia. Corso có thể tưởng tượng Gruber đứng trước chân dung bụi bặm Hoàng đế Franz Joseph trong phòng y, cởi chiếc jacket màu hạt dẻ với những chìa khóa vàng bé xíu trên ve áo như thể đó là tấm áo khoác của quân đội Áo Hung. Y có khi còn cho đĩa khúc quân hành của Radetsky vào máy hát, uống mừng bằng một cốc nước quả Montenegro và thủ dâm trong khi xem video về Nữ hoàng Sissy.
Cô gái không xem màn hình nữa mà nhìn Corso. 223B phố Baker, gã thầm nhắc lại và cảm thấy rất muốn cười phá lên. Có thể gã sẽ chẳng hề ngạc nhiên nếu một gã hầu nhỏ xuất hiện để tống đạt lời mời tới uống trà với Milady de Winter ở lâu đài If hay tới cung điện Ruritania để gặp gỡ Richelieu, giáo sư Moriarty hay Rupert de Hentzau. Từ khi chuyện này trở thành sự kiện văn học, dường như đó là việc tự nhiên nhất trên đời.
Gã mượn cuốn danh bạ điện thoại rồi tìm số của bà Nam tước Ungern. Rồi, mặc cho cô nhìn chằm chằm, gã bước tới phòng điện thoại công cộng ở hành lang xin một cuộc hẹn trong mấy ngày tới. Gã thử gọi số Varo Borja ở Toledo, không ai trả lời.
GÃ ĐANG XEM TI VI vặn nhỏ tiếng: một phim có Gregory Peck với những con hải cẩu quấn quanh, một vụ ẩu đả trên sàn nhảy khách sạn, hai con tàu buồn dọc đi bên nhau, sóng vỗ ầm ầm vào đuôi con tàu đang giương hết buồm lướt về phương Bắc, hướng về nền tự do địch thực bắt đầu chỉ cách bờ biển gần nhất mười dặm. Nơi cùi chỏ gã là một chai Bols – mực rượu nằm dưới vạch chuẩn cho phép – đứng gác trên cái bàn bên cạnh, trông như gã vệ binh già say rượu trước một trận đánh, giữa Chín cánh cửa và kẹp giấy đựng bản thảo Dumas.
Corso buông ly rượu, day day đôi mắt đỏ ngầu vì thuốc lá và rượu gin. Gã bày lên giường, với độ chính xác như một nhà khảo cổ, phần sót lại của cuốn thứ hai cứu được từ lò sưởi trong nhà Victor Fargas. Chẳng còn được bao nhiêu: tấm bìa cứng được lớp da bên ngoài bảo vệ ít hư hại hơn cả, nhưng phần còn lại thì chẳng gì hơn những lề giấy cháy thành than và dăm đoạn văn khó khăn lắm mới đọc được. Gã nhặt một mẩu giấy bị ngọn lửa nướng giòn đã ngả vàng:… si non obig.nem me. ips.s fecere,f.r q.qe die, tib. do vitam m.m sicut t.m… Hẳn là nằm ở góc bên dưới trang sách. Sau khi quan sát một hồi, gã tìm trang như thế ở cuốn số một. Đó là trang 89, và hai đoạn văn giống hệt nhau. Gã tiếp tục làm vậy với tất cả các đoạn còn lại, chỉ có thể xác định được mười sáu đoạn. Không thể tìm ra vị trí của hai mươi hai mẩu khác; chúng quá nhỏ hoặc quá nát. Mười một mẩu khác không có chữ, gã chỉ xác nhận được một trong số đó nhờ đoạn uốn số 7 của chữ số thứ ba nơi chỗ đánh số trang, trang 107.
Điếu thuốc cháy hết làm môi gã nóng bỏng. Dụi đầu mẩu vào cái gạt tàn, gã với chai gin tợp một ngụm. Gã đang mặc cái áo kaki vải bông cũ có những cái túi to đùng, tay áo xắn cao, đeo cái cà vạt nhăn nhúm. Trên ti vi, gã người Boston ôm một bà hoàng người Nga bên bánh lái của con tàu. Hai người đang lặng yên chuyển động cặp môi, hạnh phúc và đắm say dưới bầu trời Technicolor nhiều màu sắc. Trong buồng chỉ nghe thấy tiếng ồn từ những ô kính cửa sổ rung lên theo tiếng xe cộ ngoài đường chạy về phía Louvre, ở hai tầng bên dưới.
Nikon thích thứ đó. Corso còn nhớ nàng dễ dàng mủi lòng, một cô gái nhỏ đầy đa cảm, trước cảnh một cặp hôn nhau dưới bầu trời đầy mây, trong tiếng vĩ cầm và dòng chữ “The End” vắt ngang màn ảnh. Đôi khi, vẫn tóp tép nhai khoai tây rán đóng bao trong rạp chiếu bóng hay trước ti vi, nàng gục đầu vào vai Corso lặng lẽ khóc rất lâu, mắt đăm đăm nhìn màn ảnh. Lúc đó có thể là Paul Heinreid hát bài Merseillaise ở cà phê Rick; Rutger Hauer hấp hối gục đầu xuống sau viên đạn cuối cùng trong Blade Runner; John Wayne và Maureen O’Hara trước lò sưởi ở Innisfree; Custer và Arthur Kennedy trong đêm trước khi xảy ra chiến dịch Little Big Horn; O’Toole trong vai Jim bị quý ngài Brown lừa gạt; Henry Fonda trên đường tới O.K Corral; hoặc Mercello Mastroianni đứng dưới hồ nước ngập nửa người trong khu điều dưỡng, vớt cái mũ của một quý bà lên quơ đi quơ lại một cách trang nhã, điềm tĩnh, đắm chìm trong tình yêu một cặp mắt huyền. Nikon thích khóc về tất cả những thứ đó; nàng tự hào về những giọt nước mắt của mình. Thế nghĩa là em đang sống, sau đó nàng cười nói, mắt vẫn đẫm lệ. Vì em là một phần của thế giới và em lấy làm vui vì thế. Phim dành cho tất cả mọi người, chúng thật tập thể và bao dung, chúng làm cho lũ trẻ hân hoan khi chàng kỵ sĩ xuất hiện. Thậm chí sẽ hay hơn nếu được chiếu trên ti vi: hai người có thể cùng xem cùng bình luận. Còn những cuốn sách của anh thì thật ích kỷ. Cô độc. Thậm chí một số cuốn còn không thể đọc được. Chúng tan thành những mẩu vụn ngay khi ta mở ra. Một người chỉ quan tâm đến sách thì không cần ai khác, điều đó làm em sợ. Nikon ăn nốt miếng khoai rán cuối cùng rồi nhìn gã chăm chú, môi hé mở, tìm kiếm một dấu hiệu bệnh tật trên khuôn mặt gã mà rồi sẽ mau chóng tự bộc lộ. Đôi khi anh làm em sợ.
Kết cục có hậu. Corso bấm cái nút trên bộ điều khiển từ xa, hình ảnh trên ti vi liền biến mất. Bây giờ gã ở Paris, còn Nikon thì ở đâu đó tận châu Phi hay cùng Balkans chụp ảnh những đứa trẻ có đôi mắt buồn. Một lần trong quán bar, gã tưởng chừng thoáng được tin về nàng, trong âm thanh hỗn loạn của bom rơi đạn lạc. Những người tị nạn hoảng hốt vây quanh nàng, tóc nàng tết bím, một chiếc máy ảnh đeo trên cổ và một chiếc nữa giơ lên ngắm, đằng sau toàn khói và lửa. Nikon. Với tất cả những lời dối trá nàng chấp nhận không hề hỏi han, một kết thúc tốt đẹp quả thật là phi lý đến cùng cực. Những nhân vật chính nam và nữ sống hạnh phúc mãi mãi, và đoạn kết có vẻ như không còn gì để bàn cãi. Không có câu hỏi nào được đưa ra để hỏi hạnh phúc hay tình yêu kéo dài đến bao giờ trong cái sự “vĩnh hằng” vốn có thể chia theo tuổi thọ, năm tháng kia. Thậm chí là ngày. Cho tới khi kết cục đích thực, định mệnh không tránh được kia đến với họ, Nikon không chịu chấp nhận rằng sau đó hai tuần nhân vật nam chính có thể chết đuối khi thuyền của chàng đụng phải đá ngầm ở vùng biển phía Tây Xcốtlen. Hoặc rằng ba tháng sau nhân vật nữ chính bị tai nạn xe cộ. Hoặc rằng mọi thứ có thể khác đi theo hàng ngàn cách: một trong hai người có nhân tình, một trong hai người trở nên cay nghiệt và chán ngắt, một trong hai người muốn thoái lui. Có thể những đêm dài đầy nước mắt, im lặng và cô đơn rồi sẽ tiếp nối cái nụ hôn trên màn hình ấy. Có thể bệnh ung thư giết chết chàng trước tuổi bốn mươi. Có thể nàng vẫn sống rồi chết trong căn nhà của bố mẹ mình ở tuổi chín mươi. Có thể viên sĩ quan đẹp trai kia biến thành một phế nhân thảm hại, những vết thương của chàng trở thành một vết sẹo kinh khủng và trận chiến vinh quang của chàng bị mọi người quên lãng. Và có thể, già nua và bất lực, nhân vật chính nam và nữ chịu đựng những thử thách mà không có sức mạnh để chiến đấu hay bảo vệ chính mình, bị quăng quật tứ phía bởi sóng gió cuộc đời, sự ngu ngốc, thói ác độc và sự bất hạnh của thân phận con người.
Đôi khi anh làm em sợ, Lucas Corso.
©S.T.E.N.T
MƯỜI MỘT GIỜ KÉM NĂM đêm hôm ấy, gã tìm được đáp án cho ngọn lửa bí ẩn trong nhà Victor Fargas. Mặc dù điều đó không làm mọi chuyện sáng tỏ hơn. Gã vươn vai ngái ngủ nhìn đồng hồ. Lại liếc nhìn lần nữa những mẩu giấy trên tấm ga trải giường, gã thoáng bắt gặp mình trong tấm gương nằm cạnh tờ bưu thiếp cũ lồng trong khung gỗ có hình mấy tay khinh kỵ binh bên ngoài giáo đường Reims. Áo quần xộc xệch, râu ria không cạo, cặp kính nằm vẹo vọ trên sống mũi. Gã bật cười, một nụ cười cáu kỉnh, vặn vẹo, như chó sói, chỉ dành cho những dịp đặc biệt. Và đây là một dịp. Tất cả những mẩu vụn của Chín cánh cửa mà gã đã cố nhận dạng được đều có xuất xứ từ những trang có chữ. Không thấy dấu vết của chín tranh minh họa và trang đầu. Có hai khả năng: hoặc chúng bị thiêu trong ngọn lửa, hoặc – có khả năng hơn, khi xem xét tờ bìa bị xé – ai đó đã lấy chúng trước khi ném phần còn lại của cuốn sách vào lửa. Dù là ai đi nữa, một gã hay một ả, thì cũng rất khôn ngoan. Hoặc là một bọn. Có lẽ là, sau khi bất ngờ nhìn thấy La Ponte và Liana Taillefer ở cột đèn giao thông, gã sẽ phải tập cho quen dùng ngôi thứ ba số nhiều. Vấn đề là những đầu mối Corso đang lần theo có sai sót hay là do âm mưu của đối phương. Dù là sai sót hay âm mưu, bọn họ cũng đều rất tinh vi kỹ lưỡng.
Vừa nghĩ tới âm mưu, chợt tiếng chuông vang lên, Corso mở cửa và thấy cô gái đứng đó. Gã chỉ kịp giấu cẩn thận cuốn sách số một và bản thảo Dumas xuống dưới chăn. Cô vẫn mặc cái quần jean và áo pull như thường lệ, đi chân trần.
“Chào ông Corso. Hy vọng ông không định ra ngoài đêm nay.”
Cô không vào phòng mà vẫn đứng ở cửa, hai ngón tay cái thọc vào túi. Cô nhăn mặt như thể đang chờ đợi tin xấu.
“Cô khỏi cần đề phòng.” Corso cam đoan.
Cô cười, an ủi gã. “Em kiệt sức rồi.”
Gã quay lưng lại phía cô rồi bước tới cái bàn đầu giường. Chai gin trống rỗng, vì vậy gã tìm trong tủ rượu cho đến khi đắc ý đứng lên với một chai gin bé xíu trong tay. Gã dốc cạn rượu trong chai vào cái ly rồi tợp một ngụm. Cô gái vẫn đứng ở cửa.
“Họ lấy mất các bức tranh khắc. Cả chín bức.” Gã huơ cái chai về phía đám mẩu vụn của cuốn sổ 2. “Họ đốt phần còn lại để không bị lộ. Do vậy mà không phải tất cả đều bị cháy. Họ muốn bảo đảm còn một số mẩu vụn nguyên vẹn để cuốn sách chính thức được coi như bị hủy.”
Cô gái nghiêng đầu nhìn gã chăm chú. “Ông thật thông minh.”
“Tất nhiên. Đấy là lý do người ta cần có tôi.”
Cô gái đi mấy bước trong phòng. Corso nhìn đôi bàn chân trần đặt trên thảm, bên cạnh giường. Cô đứng đó xem những dòng chữ trên mẩu giấy cháy.
“Fargas không đốt cuốn sách,” gã thềm. “Ông ta không có khả năng làm chuyện như thế… Họ đã làm gì ông ta? Phải chăng ông ta tự tử, như Enrique Taillfer?”
Cô không trả lời ngay mà nhặt một mẩu giấy lên coi. “Hãy tự tìm câu trả lời,” cô nói. “Đấy là lý do người ta cần ông.”
“Còn cô?”
Cô vẫn im lặng đọc, cặp môi mấp máy như thể cô hiểu các từ ngữ. Khi đặt mẩu giấy xuống giường, nụ cười của cô quá già so với tuổi.
“Ông biết vì sao em ở đây rồi: Em phải trông nom. Ông cần em.”
“Tôi chỉ cần thêm rượu gin.”
Gã tự rủa mình rồi uống cạn cốc rượu, gắng sức che giấu vẻ bồn chồn lo lắng. Mặc xác nó. Màu xanh như ngọc, màu trắng sáng ngời, đôi mắt ấy cùng nụ cười ấy bừng lên trên nền da nâu, cái cổ trần ấm áp đầy sức sống ngẩng cao. Mày có tin nổi không, Corso. Ngay cả bây giờ, với bao nhiêu phiền não, mày vẫn đang nghĩ đến đôi tay rám nắng kia, cái cổ thanh mảnh kia, những ngón thật dài kia. Gã nhận ra dưới lần áo pull chật căng, bộ ngực cô tuyệt đẹp. Trước đó gã chưa có lúc nào quan sát nó cẩn thận. Gã hình dung chúng rám nắng và nặng trĩu dưới lớp vải bông, hình dung xác thịt tạo thành từ bóng tối và ánh sáng. Một lần nữa gã để ý hơn tới chiều cao của cô. Cô cao bằng gã. Có khi còn hơn.
“Cô là ai?”
“Một con quỷ,” cô đáp. “Con quỷ đang yêu.”
Rồi cười. Cuốn sách của Cazotte nằm trong cái tủ buýp phê, bên cạnh Hồi ký đảo Sainte Hélène cùng với một số giấy tờ. Cô nhìn nhưng không đụng vào chúng. Rồi đặt một ngón tay lên đó và quay lại Corso.
“Ông tin ma quỷ không?”
“Tôi được trả tiền để tin. Đại khái như trong việc này.”
Cô chậm rãi gật đầu, như thể đã biết gã sẽ trả lời thế nào. Cô tò mò nhìn Corso, miệng hé mở, đợi chờ một dấu hiệu hay cử chỉ mà chỉ cô mới hiểu.
“Ông biết vì sao em thích cuốn này không, Corso?”
“Không. Nói đi.”
“Bởi vì nhân vật chính là người thành thật. Mối tình của anh ta không phải là một trò bịp để vùi dập một linh hồn. Biondetta dịu dàng chung thủy. Những điều cô ngưỡng mộ ở Alvaro cũng giống như những điều con quỷ ngưỡng mộ ở loài người: lòng dũng cảm, tính độc lập…” Mi mắt cô cụp xuống trong một thoáng. “Khát vọng hiểu biết và sự minh mẫn.”
“Có vẻ như cô biết rất nhiều. Cô biết những gì về toàn bộ chuyện này?”
“Nhiều hơn ông tưởng tượng nhiều.”
“Tôi chẳng tưởng tượng gì sất. Mọi thứ tôi biết về con quỷ, những yêu và ghét của nó đều từ văn học: Thiên đường đã mất, Hài kịch thần thánh, Faust và Anh em nhà Karamazov.” Gã phác một cử chỉ mơ hồ, lảng tránh. “Tôi chỉ gián tiếp biết về Lucifer.”
Giờ thì cô nhìn gã vẻ chế giễu. “Vậy ông thích con quỷ nào hơn? Quỷ của Dante?”
“Không. Quá khủng khiếp. Quá Trung cổ đối với tôi.”
“Mephistopheles?”
“Cũng không phải. Hắn quá hài lòng với bản thân. Một gã gạt người quá đáng, giống như một luật sư lừa đảo… Dù gì đi nữa tôi cũng không bao giờ tin những người cười quá nhiều.”
“Còn con quỷ trong Anh em nhà Karamazov?”
Corso nhăn mặt. “Bần tiện. Một tên đầy tớ tầm thường với móng tay bẩn.” Gã ngừng lại. “Tôi nghĩ con quỷ tôi ưa là thiên thần sa đọa của Milton.” Gã nhìn cô vẻ thích thú. “Đó là điều mà cô muốn tôi nói.”
Cô mỉm cười khó hiểu, ngón tay cái vẫn để trong túi. Gã chưa thấy ai mặc quần jean như thế bao giờ. Tất nhiên cần có cặp chân dài như của cô. Cặp chân của một cô gái trẻ vẫy xe đi nhờ bên đường, ba lô dưới chân, đôi mắt xanh quá là xanh kia chứa toàn bộ ánh sáng trên thế gian này.
“Ông thấy Lucifer thế nào?”
“Tôi chẳng có ý kiến gì.” Corso nhăn mặt, hững hờ. “Lầm lì và lặng lẽ, tôi nghĩ thế. Chán ngắt.” Gã trở nên chua chát. “Trên ngai vàng trong lâu đài hoang phế. Giữa một vương quốc tiêu điều, lạnh lẽo, đơn điệu, chẳng có bất cứ chuyện gì xảy ra.”
Cô im lặng nhìn gã. “Ông làm em ngạc nhiên đấy, Corso,” cuối cùng cô nói.
“Tôi không biết vì sao. Ai cũng có thể đọc Milton. Kể cả tôi.”
Cô chậm chạp đi một nửa vòng tròn quanh cái giường, giữ khoảng cách cố định với nó cho tới khi đứng giữa gã và cái đèn. Hoặc do cố ý hoặc không, cái bóng cô trùm lên những mẩu vụn của Chín cánh cửa rải trên tấm ga.
“Ông vừa nói đến cái giá phải trả.” Lúc này mặt cô chìm trong bóng tối. “Niềm kiêu hãnh, tự do… Tri thức. Dù là ngay từ đầu hay khi kết thúc, ông vẫn phải trả giá cho mọi thứ. Thậm chí cho lòng can đảm, đúng không? Ông không nghĩ rằng cần rất nhiều dũng cảm để đối mặt với Thượng đế ư?”
Lời cô thầm thì êm như ru giữa cái tĩnh lặng tràn ngập căn phòng, thứ tĩnh lặng chui vào từ dưới cửa và qua những khe hở quanh cửa sổ.. Ngay cả tiếng ồn ào của xe cộ ngoài đường có vẻ cũng dịu đi. Corso nhìn một cái bóng rồi cái bóng tiếp theo. Đầu tiên là hình bóng cách điệu trên tấm ga giường và những mẩu vụn của cuốn sách, rồi đến thân người đứng ngược sáng. Gã băn khoăn không biết cái nào mới thực hơn.
“Cùng với tất cả những đại thiên sứ đó,” cô, hay cái bóng cô nói thêm. Câu nói mang theo vẻ cay đắng, một tiếng thì thào khinh bỉ, tiếng thở dài của kẻ bại trận. “Đẹp đẽ và hoàn chỉnh. Có kỷ luật như lũ Quốc xã.”
Vào thời điểm ấy cô không hề trẻ. Tựa như cô kiệt sức vì gánh nặng tuổi tác: một di sản mờ mịt, tội lỗi của những người khác, tội lỗi mà gã ngạc nhiên không thể xác định được là gì. Gã nghĩ có lẽ cả cái bóng trên giường lẫn hình người ngược sáng đều không phải là thực.
“Có một bức tranh ở bảo tàng Prado. Ông nhớ không, Corso? Những người đàn ông cầm dao đối mặt với các kỵ sĩ mang kiếm. Em luôn cho rằng thiên thần dọa lạc trong cơn bạo loạn trông cũng giống như thế. Cũng với vẻ mặt không còn gì để mất như đám người khốn khổ trong tay chỉ có mấy con dao đó. Lòng can đảm trong cơn tuyệt vọng.”
Cô vừa nói vừa khẽ chuyển mình đôi chút, chỉ vài phân, nhưng cử động ấy khiến cái bóng cô tiến gần Corso, như thể theo ý chí của chính nó.
“Cô biết chút gì về hắn không?” gã hỏi.
“Nhiều hơn là em muốn.”
Cái bóng cô lúc này hầu như chạm vào gã. Theo bản năng gã lùi lại, để lộ một khoảng sáng giữa họ ở trên giường.
“Hãy hình dung hắn,” cô nói vẫn với giọng mơ màng. “Người đẹp nhất trong những thiên thần đọa lạc một mình bày mưu tính kế trong cung điện trống rỗng… Bám víu vô vọng vào những lề thói mà hắn khinh thường nhưng ít nhất cũng cho phép hắn che giấu nỗi sầu. Che giấu thất bại của hắn.” Cô khẽ cười, buồn bã, như từ một nơi xa xăm. “Hắn để mất thiên đường.”
Bây giờ hai cái bóng đã tới với nhau và gần như trồi lên giữa những mảnh vụn của cuốn sách cứu được từ Quinta da Soledade. Cô gái và Corso, trên giường, với chín cánh cửa dẫn tới vương quốc của những bóng tối khác, hoặc có thể vẫn là bóng tối đó. Những tờ giấy cháy sém, những đầu mối không hoàn chỉnh, một bí ẩn nằm dưới mấy tầng màn chắn, của người thợ in, của thời gian, và ngọn lửa. Enrique Taillefer ở tận cuối một sợi dây lụa đu đưa đôi chân trong khoảng không. Victor Fargas úp mặt bập bềnh dưới mặt nước ao âm u. Aristide Torchia cháy bùng bùng ở Quảng trường Hoa, kêu tên cha, không trông lên thiên đường mà nhìn xuống đất dưới chân mình. Ông già Dumas ngồi viết trên đỉnh cao thế giới. Trong khi đó thì ở chính Paris này, rất gần với chỗ Corso đang có mặt, một cái bóng khác, bóng của vị Hồng y giáo chủ với thư viện tàng trữ rất nhiều sách về quỷ dữ, đang nắm giữ những manh mối của toàn bộ âm mưu.
Cô gái, hay đường nét ngược sáng của cô tiến lịa gần Corso. Chỉ một bước thôi, nhưng đủ để bóng gã biến mất bên dưới bóng cô.
“Cái đó tệ hơn cho những người theo hắn.” Corso phải mất một lúc mới hiểu cô định nói đến người nào. “Những người hắn lôi theo mình: chiến binh, người đưa tin, những đầy tớ do nghề nghiệp và do thiên bẩm. Một vài lính đánh thuê, giống như ông… Nhiều người thậm chí còn không nhận ra rằng họ đang lựa chọn giữa khuất phục và tự do, giữa Thượng đế và nhân loại. Do thói quen, với lòng trung thành mê muội của những chiến binh kiên tín, họ theo người cầm đầu nổi dậy và bị đánh bại.”
“Giống như đội quân lê dương mười ngàn người của Xenophon,” Corso đùa bỡn.
Cô im lặng một lát, ngạc nhiên vì độ chính xác của gã.
“Có lẽ,” cuối cùng cô nói. “Cô độc bên ngoài thế giới, họ vẫn hy vọng ngày nào đó lãnh tụ sẽ đưa họ về nhà.”
Corso cúi xuống tìm một điếu thuốc lá, và cái bóng gã lại hiện ra. Rồi gã bật ngọn đèn trên cái bàn đầu giường, đường nét tối sẫm của cô gái liền biến mất khi ánh sáng chiếu lên mặt cô. Đôi mắt sáng rực nhìn gã đăm đăm. Trông cô lại trẻ trung.
“Hết sức cảm động,” gã nói. “Tất cả những chiến binh già ấy đều đi tìm biển.”
Cô chớp mắt, như thể bây giờ, với khuôn mặt được chiếu sáng, cô không hiểu gã định nói gì. Không còn cái bóng trên giường nữa. Những mẩu sách chỉ là những mảnh giấy vụn cháy thành than. Gã chỉ việc mở cửa sổ, một cơn gió mạnh sẽ thổi chúng bay tung khắp phòng.
Cô mỉm cười. Irene Adler, 223B phố Baker. Quán cà phê ở Madrid, chuyến tàu, buổi sáng ở Sintra… Trận đánh thất bại, những người lính lê dương thua trận rút lui: cô quá trẻ làm sao nhớ được những chuyện như thế. Cô cười như một cô bé vừa láu lỉnh vừa ngây thơ, với những dấu vết mỏi mệt bên khóe mắt. Cô ngái ngủ và ấm áp.
Corso ngáp. Một phần của gã chồm lên cô, lột cái áo pull để lộ làn da rám nắng, cởi bỏ cái quần jean và dằn cô xuống giường, giữa những mẩu vụn còn lại của cuốn sách có thể triệu hồi sức mạnh của bóng tối. Rồi chìm đắm vào da thịt nóng hổi của cô, để tính sổ với Thương đế và Lucifer, với dòng thời gian trôi đi không khoan nhượng, với những oan hồn của chính gã, với cuộc đời và cái chết. Nhưng phần còn lại của gã chỉ đốt điếu thuốc rồi lặng lẽ nhả khói. Cô nhìn gã chăm chú hồi lâu như chờ đợi một cái gì, cử chỉ, một lời nói. Rồi cô chúc gã ngủ ngon và đi ra cửa. Nhưng tới cửa cô quay lại châm rãi giơ tay lên, lòng bàn tay hướng vào trong, ngón trỏ và ngón giữa giao nhau chĩa lên trên. Nụ cười vừa dịu dàng vừa bí ẩn, vừa vụng dại vừa hiểu biết. Giống như một thiên thần lạc loài lưu luyến trỏ về phía thiên đường.
©STENT
NAM TƯỚC PHU NHÂN FRIEDA UNGERN khi cười có hai lúm đồng tiền nhỏ bé ngọt ngào. Tựa như bà ta đã cười không ngừng suốt bảy mươi năm qua, và điều đó để lại một vẻ bao dung bất biến quanh mắt và miệng bà. Corso, một độc giả sớm khôn, đã biết từ hồi nhỏ rằng có nhiều loại phù thủy khác nhau: những mụ mẹ kế độc ác, thậm chí cả những mụ phù thủy già kinh tởm có mụn cóc trên mũi. Nhưng bất kể những điều nghe được về Nam tước phu nhân bảy mươi tuổi, gã vẫn không hiểu bà ta thuộc loại nào. Bà có thể là một trong những quý bà lớn tuổi sống trong mơ, bên ngoài thực tế, không bao giờ tiếp xúc với những điều khó chịu, nhưng đôi mắt thâm trầm, thông minh, nhanh nhạy, đầy hoài nghi lại phủ nhận ấn tượng đầu tiên ấy. Cả cái tay áo len đan trống rỗng phía bên phải với cánh tay cụt trên khuỷu cũng vậy. Ngoài ra thì bà ta thấp lùn đẫy đà như một giáo viên tiếng Pháp trong trường nội trú nữ. Tức là vào cái thời quý cô học nội trú còn tồn tại. Corso phỏng chừng như vậy khi nhìn mớ tóc xám túm lại thành búi sau gáy, đôi giày tồi tàn giống kiểu nam giới với đôi tất ngắn màu trắng.
“Rất vui được gặp, ông Corso.”
Bà ta chìa bàn tay duy nhất – yếu ớt và nhỏ bé như mọi bộ phận khác trên người – với vẻ mạnh mẽ khác thường và để lộ những lúm đồng tiền. Giọng nói nhẹ nhàng, Đức nhiều hơn là Pháp. Một Von Ungern đích thực, Corso nhớ đã đọc đâu đó, từng khét tiếng ở vùng Mãn Châu hay Mông Cổ trong những năm đầu thập kỷ hai mười. Là một viên quan tư lệnh, y đã tập hợp đám tàn quân Bạch vệ, Cô dắc, lính Tàu, bọn đào ngũ và kẻ cướp, để thành lập một mặt trận cuối cùng chống lại Hồng quân. Với những đoàn tàu bọc thép, họ cướp của, giết người, kết thúc bằng một đội xử bắn vào lúc bình mình. Có thể là một người bà con của bà ta.
“Ông ấy là em người ông của chồng tôi. Gia đình ông ấy có gốc Nga di cư sang Pháp với khá nhiều của cải trước khi cách mạng xảy ra.” Chẳng có chút luyến tiếc quá khứ hay tự hào gì trong giọng nói của bà. Tất cả đều là chuyện quá khứ, chuyện của người khác, gia đình khác, có vẻ bà ta muốn nói vậy. Những người xa lạ đã biến mất từ khi chưa có bà. “Tôi sinh ra ở Đức. Gia đình tôi mất hết dưới thời Quốc xã… Tôi lấy chồng ở Pháp sau chiến tranh.” Bà thận trọng gỡ một chiếc lá khô trên cái cây bên cửa sổ rồi khẽ cười. “Tôi không thể nào chịu đựng được những ám ảnh quá khứ bên nhà chồng: nỗi nhớ thương thành Saint Petersburg, sinh nhật Sa hoàng. Cứ như lúc nào cũng chuẩn bị đưa người chết đi chôn.”
Corso nhìn những cuốn sách xếp đầy trên bàn, lèn chặt trên giá. Gã ước tính chỉ trong phòng này đã có đến hàng ngàn cuốn. Hình như những cuốn hiếm nhất và quý nhất cũng ở đây, từ những ấn phẩm hiện đại đến những tập sách cổ bìa da.
“Thế còn tất cả những thứ này thì sao?”
“Đó là chuyện khác. Chúng là tài liệu nghiên cứu, không phải để thờ cúng. Tôi dùng chúng để làm việc.”
Thời buổi chó má, Corso tự nhủ, khi mà những mụ phù thủy hay bất cứ loại người gì nói về nhà chồng họ và đổi vạc dầu lấy thư viện, lấy những tủ tài liệu và một vị trí trong danh mục bestseller.
Qua ô cửa mở gã nhìn thấy sách trong những căn phòng khác và trên hành lang.. Sách và cây. Những chậu cây khắp nơi: trên bậu cửa sổ, trên sàn, trên những giá gỗ. Đây là một căn hộ lớn đắt tiền nhìn ra sông và, ở một thời điểm khác, ra giàn hỏa thiêu của Tòa án Dị giáo. Có những cái bàn đọc sách với những người trẻ tuổi trông giống sinh viên, và những bức tường phủ đầy sách. Những cuốn sách cổ kính mạ vàng ánh lên rực rỡ trong đám cây cối. Quỹ Ungern sở hữu bộ sưu tập lớn nhất châu Âu về thể loại sách huyền bí. Corso liếc nhìn mấy đầu sách gần gã nhất.Daemonolatria Libri của Nicholas Remy. Compendium Maleficarum của Francesco Maria Guazzo. De Daemonialitate et Incubus et Sucubus của Ludovico Sinistrari. Cùng với việc sở hữu một trong những danh mục sách quý nhất về bộ môn nghiên cứu ma quỷ và một quỹ mang tên người chồng Nam tước quá cô, Nam tước phu nhân Ungern nổi danh là một nhà văn viết sách về ma thuật và phép phù thủy. Cuốn sách mới đây nhất của bà, Isis, trinh nữ khỏa thân có mặt trong danh mục sách bán chạy nhất trong vòng ba năm. Việc Vatican công khai kết tội tác phẩm gây nên mối lo ngại đặt một vị thần dị giáo ngang hàng với Đức Mẹ, đã khiến cho doanh số bán tăng vọt. Cuốn sách được tái bản tám lần ở Pháp, mười hai lần ở Tây Ban Nha và mười bảy lần ở nước Ý Thiên Chúa giáo.
“Hiện giờ bà đang viết gì?”
“Một cuốn có tựa đề Ma quỷ, lịch sử và truyền thuyết. Một cuốn tiểu sử thuộc loại bất kính. Sẽ xong vào đầu năm tới.”
Corso dừng lại ở một hàng sách. Gã chú ý tới cuốn Disquisitionum Magicarum của Martin del Rio, ba tập do nhà Lovaina xuất bản lần đầu 1599-1600: một cuốn sách ma thuật thần bí cổ điển.
“Bà kiếm được cuốn này ở đâu?”
Frieda Ungern hẳn phải cân nhắc xem nêm cung cấp bao nhiêu thông tin, vì một lát sau bà ta mới trả lời.
“Trong lần đấu giá năm 89 ở Madrid. Tôi đã rất khó khăn mới ngăn được không cho Varo Borja đồng hương của ông giành được nó.” Bà thở dài như thể vẫn chưa hồi phục lại sau một nỗ lực như thế. “Và tiền bạc nữa. Tôi sẽ không thể thu xếp được nếu không có sự giúp đỡ của Paco Montegrifo. Ông biết ông ấy không? Một con người thú vị.”
Corso nở nụ cười méo mó. Gã không chỉ biết Montegrifo, người phụ trách chi nhánh Tây Ban Nha của sàn đấu giá Claymore, mà còn từng cộng tác với hắn trong vài vụ giao dịch không chính thức với lợi nhuận cao. Ví dụ như vụ bán cuốn Cormography của Ptolemy, một bản thảo chép tay gô tích từ năm 1456 đã biến mất một cách bí hiểm khỏi Đại học Salamanca không lâu trước đó, cho một nhà sưu tầm Thụy Sĩ. Montegrifo nhận là chủ nhân cuốn sách và dùng Corso làm người trung gian. Toàn bộ vụ việc được tiến hành khôn khéo và sạch sẽ, bao gồm cả chuyến đi tới xưởng của anh em Ceniza để gỡ bỏ cái tem bảo hiểm. Corso tự mình đưa cuốn sách tới Lausanne. Tất cả những việc này được tính vào khoản hoa hồng ba mươi phần trăm cho gã.
“Có, tôi biết ông ta.” Gã vuốt ve gáy mấy cuốn Disquisitionum Magicarum và tự hỏi không biết Montegrifo kiếm được gì trong vụ giúp Nam tước phu nhân đấu giá gian lận. “Còn về Martin del Rio, trước đây tôi chỉ một lần được xem một bản in, trong bộ sưu tập của các giáo sĩ dòng Tên ở Bilbao… Đóng bìa bằng một tấm da đơn. Nhưng cùng một lần xuất bản.”
Vừa nói gã vừa đưa tay vuốt dọc hàng sách, sờ vào vài cuốn. Có rất nhiều cuốn hay bọc da bê, da cá mập, giấy da cừu. Rất nhiều cuốn đã cũ và có vẻ đã sử dụng nhiều. Hầu như tất cả đều có dấu, những mảnh bìa trắng phủ kín chữ viết tay nhỏ và nhọn bằng bút chì. Tài liệu nghiên cứu. Gã dừng lại trước một cuốn sách trông quen mắt: màu đen, không nhan đề, năm dải băng nổi trên gáy. Cuốn số ba.
“Bà có cuốn này bao lâu rồi?”
Lúc này Corso là một người thần kinh vững. Đặc biệt là ở phân đoạn này của vở kịch. Nhưng gã đã phí cả đêm chọn lọc trong đám tro tàn của cuốn thứ hai và không thể ngăn cản bà Nam tước lưu ý đến một số điểm là lạ trong âm sắc của giọng gã. Gã nhận thấy cái nhìn nghi ngờ của bà ta bất kể hai lúm đồng tiền thân thiện trên khuôn mặt già song vẫn trẻ trung.
“Chín cánh cửa ư? Tôi không nhớ lắm. Lâu rồi.” Cánh tay duy nhất của bà vươn ra nhanh nhẹn và khéo léo cầm cuốn sách trên giá không chút khó khăn, rồi tựa gáy sách lên lòng bàn tay, mở ra trang đầu có dán một số nhãn sách trong đó có mấy cái rất cũ. Nhãn cuối cùng có những đường lượn trang trí với cái tên Von Ungern và ngày tháng ghi bằng mực. Thấy nó, bà gật đầu thương cảm. “Một món quà của chồng tôi. Tôi lấy chồng rất sớm. Ông ấy gấp đôi tuổi tôi. Ông ấy mua cuốn sách năm 1949.”
Đó là vấn đề với những mụ phù thủy thời hiện đại, Corso nghĩ: họ không có bất cứ bí mật gì. Mọi thứ đều ở ngoài sáng, bạn có thể đọc mọi thứ về họ trên Who’s Who hoặc trên những tờ lá cải. Nam tước phu nhân hay không cũng thế cả, tất cả rồi cùng thành ra thô lậu, nhạt phèo, thẳng tuột. Torquemada[1] chán chết đi được vì những thứ đó.
“Chồng bà có chia sẻ hứng thú với bà về những thứ này không?”
“Không một chút nào. Ông ấy không bao giờ đọc nổi một cuốn sách. Ông ấy chỉ làm sao cho mọi mơ ước của tôi đều biến thành sự thật, giống như thần đèn ấy.” Cánh tay cụt của bà ta thoáng run lên. “Một cuốn sách quý hay một cái vòng cổ bằng ngọc tuyệt hảo chẳng có gì khác nhau đối với ông ấy.” Bà ta ngừng lại và khẽ cười buồn. “Nhưng ông ấy là người vui tính, rất có khả năng quyến rũ vợ bạn bè. Và cocktail sâm banh ông ấy pha thì thật tuyệt.”
Bà im lặng một lúc nhìn quanh, như thể ông chồng còn để lại một ly đâu đó.
“Tự tôi sưu tập tất cả chỗ này,” bà nói thêm, khua tay về phía thư viện. “Từng cuốn một, cả ngần ấy cuốn. Thậm chí cả Chín cánh cửa cũng do tôi chọn, sau khi phát hiện nó trong catalô của một người phá sản từng ủng hộ Pétain. Chồng tôi chỉ việc ký séc.”
“Vì sao bà hứng thú đến thế đối với con quỷ?”
“Tôi từng gặp hắn ta. Lúc ấy tôi mới mười lăm, tôi thấy hắn ta rõ như đang nhìn ông bây giờ. Hắn đội mũ, áo cổ cứng và cầm gậy ba toong. Cực kỳ đẹp trai. Trông giống như John Barrymore vào vai Nam tước Gaigem trong Khách sạn lớn. Vậy là, như con ngốc, tôi yêu.” Bà ta lại trở nên trầm ngâm, bàn tay duy nhất thọc vào trong túi áo len, như đang hoài niệm những chuyện xa xưa. “Tôi nghĩ đó là lý do vì sao tôi không bao giờ thực sự cảm thấy khó chịu về tính lăng nhăng của chồng tôi.”
Corso nhìn quanh, như thể có ai đó khác trong phòng, rồi nói với giọng ra chiều bí mật.
“Nếu là ba thế kỷ trước bà đã bị thiêu sống vì kể ra chuyện này.”
Bà ta bật ra một tiếng cười vui vẻ từ trong cổ họng, cố ghìm mình không cười thành tiếng, và gần như vươn mình đứng trên đầu ngón chân để thì thầm cũng với giọng như vậy. “Ba thế kỷ trước, tôi sẽ không nói chuyện đó với bất kỳ ai. Nhưng tôi biết nhiều người sẽ sung sướng nếu đưa được tôi lên giàn lửa.” Bà lại cười, để lộ ra những lúm đồng tiền. Bà ta lúc nào cũng cười, Corso nghĩ. Nhưng đôi mắt sáng thông minh vẫn nhìn gã dò xét và cảnh giác. “Ngay cả bây giờ, trong thời nay và ở tuổi này.”
Bà ta đưa Chín cánh cửa cho gã rồi quan sát gã từ từ lật từng trang sách, mặc dù gã gần như không thể kiềm chế nỗi kích động muốn tìm xem có gì khác nhau ở chín bức tranh khắc gỗ. Gã thở phào nhẹ nhõm khi chúng còn nguyên vẹn. Thực tế là Thư mục tổng hợp của Mateu đã sai: không cuốn nào trong ba cuốn sách thiếu bức tranh cuối cùng. Cuốn thứ ba kém hơn cuốn của Varo Borja và cuốn của Victor Fargas trước khi bị ném vào lửa. Nửa bên dưới của nó từng bị ngấm nước và hầu hết các trang bị ố.. Bìa cũng cần làm sạch lại cẩn thận, nhưng cả cuốn nhìn bề ngoài vẫn đầy đủ.
“Ông muốn uống chút gì không?” bà Nam tước hỏi. “Tôi có chè và cà phê.”
Không phải là thuốc độc và cỏ lạ, Corso thất vọng tự nhủ. Thậm chí không có cả nước thuốc sắc.
“Cà phê.”
Đó là một ngày nắng đẹp, bầu trời xanh thẳm trên những ngọn tháp Nhà thờ Đức Bà gần đó. Corso bước lại bên cửa sổ, kéo rèm ra để xem cuốn sách rõ hơn. Ở hai tầng bên dưới, giữa những cây cối trơ trụi bên bờ sông Seine, cô gái ngồi đọc sách trên một ghế đá, mình khoác áo len thô. Gã biết đó là Ba người lính ngự lâm, gã đã thấy nó trên bàn khi hai người ăn sáng cùng nhau. Sau đó gã đi dọc theo phố Rivoli và biết rằng cô theo sau, cách mười lăm hai mươi bước. Gã làm như không biết, còn cô vẫn giữ khoảng cách ấy. Giờ thì gã thấy cô ngẩng lên. Hẳn cô nhìn rõ gã từ dưới đó, nhưng cô chẳng tỏ vẻ gì là nhận thấy gã. Lặng lẽ và không biểu lộ gì hết, cô nhìn gã rời khỏi cửa sổ. Khi gã lại nhìn ra ngoài cô đã cúi xuống cuốn sách rồi.
Có một thư ký, một phụ nữ trung niên, bưng những chiếc cốc dày di chuyển giữa những bàn và sách, nhưng Frieda Ungern tự mình lấy cà phê, mang theo hai cốc và một chiếc khay bạc, bà ta đi lại vẫn dễ dàng. Một cái liếc mắt của bà nói rằng không cần gã giúp, rồi họ ngồi xuống bên bàn, khay đặt giữa những cuốn sách, chậu cây, những giấy tờ và sổ ghi chép.
“Điều gì gợi ý cho bà thành lập quỹ này?”
“Là vì chuyện thuế. Hơn nữa, hay có người này người nọ tới đây, tôi có thể tìm được người cộng tác…” Bà cười buồn bã. “Tôi là người cuối cùng trong đám phù thủy, và tôi thấy cô đơn.”
“Bà không giống phù thủy chút nào.” Corso để lộ bộ mặt thích hợp, một con thỏ ngây thơ thân thiện. “Tôi đã đọc Isis của bà.”
Cầm tách cà phê trong tay, bà khẽ nhấc mẩu tay cụt lên, đồng thời nghiêng đầu như muốn vén lại mái tóc. Đó là một cử chỉ quyến rũ vô thức, xưa như trái đất song cũng không biết đến tuổi già, mặc dù nó không hoàn thiện.
“Ông có thích nó không?”
Gã đưa cái tách lên miệng và nhìn sâu vào mắt bà ta. “Rất thích.”
“Không phải mọi người đều thích. Ông biết L’Osservatore Romano nói gì không? Họ lấy làm tiếc vì Danh mục Sách cấm của Giáo hội không còn nữa. Và ông có lý.” Bà ta trỏ Chín cánh cửa mà Corso đặt cạnh bà ở trên bàn. “Nếu là ngày xưa tôi đã bị thiêu sống, giống như kẻ bất hạnh đã viết những tín điều của Satan.”
“Bà có thực sự tin vào ma quỷ không, Nam tước phu nhân?”
“Đừng gọi tôi là Nam tước phu nhân. Nghe kỳ cục lắm.”
“Bà muốn tôi gọi thế nào?”
“Tôi không biết. Bà Ungern. Hoặc Frieda.”
“Bà tin ma quỷ không, bà Ungern?”
“Đủ để hiến dâng cả cuộc đời, bộ sưu tập, quỹ này, bấy nhiêu năm làm việc và năm trăm trang tác phẩm mới của tôi.” Bà ta nhìn Corso vẻ hào hứng. Gã đã gỡ kính xuống lau. Nụ cười yếu ớt của gã bổ sung nốt hiệu quả. “Còn ông?”
“Mọi người cũng mới hỏi tôi như thế.”
“Tất nhiên. Ông đi khắp nơi hỏi về một cuốn sách cần phải đọc với đủ niềm tin.”
“Niềm tin của tôi khá hạn chế,” Corso đáp, mạo hiểm đầu tư một chút thành thực. Loại thành thực này thường mang lại lợi nhuận. “Kỳ thực tôi làm vì tiền.”
Những lúm đồng tiền lại xuất hiện. Cách đây nửa thế kỳ hẳn bà ta rất đẹp, gã nghĩ. Hai tay nguyên vẹn thả ra bùa mê hay gì đó, mảnh khảnh và ranh mãnh. Hiện giờ bà vẫn giữ được một chút gì của thời đó.
“Thật đáng thương,” Frieda Ungern bình luận. “Những người khác làm việc không mục đích, với niềm tin mù quáng vào nhân vật chính trong truyện. Albertus Magnus, Raymund Lully, Roger Bacon, không người nào bàn cãi về sự tồn tại của quỷ dữ, chỉ bàn về thực tính của hắn thôi.”
Corso sửa lại kính rồi mỉm cười hoài nghi hàm ý gì đó.
“Mọi thứ đã khác đi từ lâu rồi.”
“Ông không cần phải vòng vo thế. Quỷ thực sự tồn tại, không chỉ như một biểu tượng của cái ác mà còn là một thực thể tự nhiên. Ông thấy sao nào? Câu đó là của một vị Giáo hoàng, Paul VI, viết năm 1974.”
“Ông ta là dân chuyên nghiệp,” Corso điềm đạm trả lời. “Chắc ông ta có lý lẽ của mình.”
“Thực ra mọi chuyện ông ta làm là để khẳng định một quan điểm giáo điều: sự tồn tại của quỷ được xác lập ở Công đồng thứ tư tại Letran. Năm 1215…” Bà ta ngừng lại nhìn gã ngờ vực. “Ông có quan tâm tới các dữ kiện về học thuật không? Tôi mà cố gắng thì cũng có thể chữ nghĩa học thuật đầy mình đấy.” Những lúm đồng tiền lại xuất hiện. “Ngày xưa tôi luôn luôn muốn đứng đầu lớp. Là người thông minh nhất.”
“Tôi tin là vậy. Bà đã đoạt được mọi giải thưởng?”
“Đương nhiên. Và bọn con gái khác đều ghét tôi.”
Cả hai cùng cười. Corso cảm thấy giờ thì Frieda Ungern về phe với gã. Vì vậy gã lấy hai điếu thuốc từ trong túi áo khoác ra rồi chìa một điếu cho bà. Bà từ chối, liếc nhìn gã vẻ bồn chồn. Corso lờ đi và châm thuốc.
“Hai thế kỷ trước,” bà Nam tước tiếp tục khi Corso cúi xuống quẹt diêm, “sắc chỉ của Giáo hoàng Innocent VIII Sumnis Desiderantes Affectibus khẳng định rằng Tây Âu bị nhiễm độc từ ma quỷ và phù thủy. Vì vậy hai giáo sĩ dòng Dominic, Kramer và Sprenger, đã soạn thảo Malleus Malleficarium, một cuốn hướng dẫn cho các quan tòa dị giáo.”
Corso giơ ngón tay trỏ lên. “Lyon, 1519: Một cuốn khổ octavo theo phong cách gô tích, không có tên tác giả. Ít nhất trong bản in tôi biết.”
“Không tệ.” Bà ta nhìn gã ngạc nhiên: “Cuốn của tôi in sau.” Bà ta trỏ lên giá: “Nó kìa. Xuất bản năm 1668, cũng ở Lyon. Nhưng ấn bản đầu tiên thì từ năm 1486…” Bà hơi nhắm mắt, nhún vai. “Kramer và Sprenger cuồng tín và ngu ngốc. Malleus của họ là một mớ vô nghĩa. Thậm chí còn buồn cười, nếu hàng ngàn kẻ khốn khổ không bị tra tấn và đưa lên giàn lửa nhân danh nó.”
“Như Aristide Torchia.”
“Đúng. Như ông ta. Mặc dù ông ta còn lâu mới vô tội.”
“Bà biết những gì về ông ta?”
Bà Nam tước lắc đầu, uống nốt tách cà phê rồi lại lắc đầu. “Nhà Torchia là một gia tộc thương nhân Venice giàu có chuyên nhập khẩu giấy từ Tây Ban Nha và Pháp. Khi còn trẻ Aristide du lịch sang Hà Lan rồi học việc ở nhà Elzevir, những người này có quan hệ với cha anh ta. Anh ta ở đó một thời gian rồi chuyển đi Praha.”
“Chuyện đó tôi không biết.”
“Giờ thì ông biết rồi. Praha là thủ đô ma thuật và huyền học của châu Âu, giống như Toledo bốn thế kỷ trước… Ông có nhìn ra manh mối gì không? Torchia quyết định sống ở Saint Mary of the Snows, trung tâm ma thuật, ở gần quảng trường Jungmannove, nơi có tượng Jan Hus. Ông có nhớ Hus trên giàn thiêu không?”
“Từ đống tro tàn của tôi sẽ bay lên một con thiên nga các ông không thể nào thiêu đốt.”
“Chính xác. Nói chuyện với ông thật dễ chịu. Tôi cũng đoán ông biết chuyện đó. Chắc là nó có ích cho ông trong công việc lắm.” Bà Nam tước vô tình hít vào một ít khói thuốc lá. Bà nhăn mũi, nhưng gã vẫn thản nhiên. “Ta nói đến đâu rồi nhỉ? Phải rồi, Praha, màn hai. Torchia chuyển đến một ngôi nhà ở khu Do Thái gần đó, cạnh giáo đường Do Thái. Một khu vực nơi mà cửa sổ sáng lên hằng đêm và các thuật sĩ tìm kiếm công thức ma thuật của Golem[2]. Một thời gian sau ông lại chuyển đi, lần này là tới vùng Mala Strana…” Bà mỉm cười với gã, bí ẩn. “Những chuyện này ông thấy thế nào?”
“Giống như một chuyến hành hương. Hoặc dã ngoại, như ta nói bây giờ.”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” bà Nam tước đồng ý với vẻ hài lòng. Corso lúc này đã thực sự được chấp nhận và đang mau chóng leo lên đứng đầu lớp. “Thật sự là quá mức trung hợp khi Arsitide Torchia tới ba địa điểm tập trung toàn bộ những tri thức huyền bí thời đó. Lại chính là ở Praha với những đường phố còn vang vọng tiếng bước chân Agripa và Paracelsus[3], nơi tìm thấy bản viết tay cuối cùng về ma thuật Chaldea và những bí quyết của Pytagor đã mất tăm mất tích sau khi Metapontius bị giết.” Bà nghiêng mình về phía gã rồi thấp giọng: Cô Marple[4] sắp thổ lộ với bà bạn thân nhất rằng mình phát hiện xyanua trong món bánh điểm tâm. “Ở trong thành Praha ấy, ông Corso ạ, trong số những học giả hắc ám ấy, có những người luyện carmina tức là những câu thần chú, thuật gọi hồn và thuật giao tiếp với người chết.” Bà ngừng lại lấy hơi, trước khi thì thầm, “Và goety…”
“Thuật giao tiếp với quỷ.”
“Đúng vậy.” Bà ta ngả người lên lưng ghế tựa. Phấn khích vì tất cả những điều này, bà đang bộc lộ chính mình. Đôi mắt sáng rực, nói nhanh như thể có quá ít thời gian mà lại có quá nhiều điều cần nói. “Vào thời ấy, Torchia sống ở nơi tàng trữ những sách và tranh khắc còn tồn tại được sau bao chiến tranh, hỏa hoạn và bức hại… Những cuốn sách ma thuật còn sót lại mở ra cánh cửa của tri thức và sức mạnh: Delomelanicon, ngôn ngữ để triệu hồi bóng tối.”
Bà ta nói với một giọng bí ẩn, gần như diễn kịch, nhưng vẫn cười, như thể chính mình không hoàn toàn nghiêm túc về chuyện ấy, hoặc giả muốn nhắc nhở Corso duy trì một khoảng cách lành mạnh.
“Sau khi kết thúc thời gian học việc, Torchia trở về Venice,” bà tiếp tục. “Hãy ghi nhớ vì đây là điều quan trọng: bất chấp những nguy cơ sẽ phải đối mặt ở Ý, người thợ in bỏ lại sự an toàn tương đối ở Praha mà trở về quê. Ở đó ông ta xuất bản một loạt cuốn sách đưa ông ta lên giàn thiêu. Có thấy lạ không?”
“Có vẻ, như ông ta có một nghĩa vụ phải hoàn thành.”
“Đúng. Nhưng ai giao cho ông ta?” Bà Nam tước mở ra trang nhan đề của Chín cánh cửa. “Do đặc quyền và sự cho phép của bề trên. Đáng suy nghĩ, đúng không? Y như là Torchia đã tham gia một hội ái hữu bí mật ở Praha và được ủy nhiệm phát tán một thông điệp. Một thứ giáo nghĩa cần quảng bá.”
“Lúc trước bà đã nói: giáo điều của quỷ Satan.”
“Có thể. Sự thực là Torchia xuất bản Chín cánh cửa vào thời điểm xấu nhất. Từ năm 1550 đến 1666, những người theo thuyết nhân văn Platon mới và các phong trào thần bí bị thất bại trong cuộc chiến chống những tin đồn về tín ngưỡng ma quỷ. Những người như Giordano Bruno và John Dee bị thiêu sống hay bị hành hạ khổ sở đến chết. Với sự thắng thế của dự án Chống cải cách, tòa Dị giáo mở ra khắp nơi. Được thành lập với mục tiêu chống lại tà giáo, họ đặc biệt chĩa mũi dùi vào phù thủy và pháp sư các loại, nhằm biện minh cho sự hiện diện tối tăm hắc ám của mình. Huống hồ đây lại là một người thợ in giao dịch với ma quỷ… Phải nói là Torchia khiến cho mọi việc trở nên thật dễ dàng cho họ. Ông nghe nhé.” Bà giờ ngẫu nhiên vài trang sách. “Pot. M.vere im.go” Bà nhìn Corso. “Tôi đã dịch một số đoạn. Bộ mã khá đơn giản. “Tôi sẽ ban sự sống cho những hình hài bằng sáp,” nó có nghĩa là thế. “Và tháo tung vầng trăng, trả da thịt về cho những xác thân đã chết.” Ông nghĩ thế nào?”
“Khá ngây ngô. Có vẻ như mất mạng vì thứ đó thì thật ngu xuẩn.”
“Có lẽ. Chẳng ai biết. Ông có thích Shakespeare không?”
“Đôi khi.”
“Trên thiên đường và trên trái đất, Horatio ạ, có nhiều thứ hơn là triết lý của anh có thể tưởng tượng ra.”
“Hamlet là một người hết sức thất thường.”
“Không phải tất cả mọi người đều có khả năng hoặc xứng đáng tiếp cận những điều huyền bí này, thưa ông Corso. Như người xưa nói, cần phải hiểu và im lặng.”
“Nhưng Torchia thì không.”
“Ông biết là theo thần thoại của người Do Thái, Thượng đế có một cái tên thần bí và kinh khủng.”
“Tetragrammaton[5].”
“Đúng vậy. Sự hài hòa và cân bằng của vũ trụ dựa trên bốn chữ cái này…. Khi Thượng đẳng thần Gabriel cảnh báo với Mohammed: “Thượng đế bị bảy mươi ngàn màn chắn bằng ánh sáng và bóng tối che khuất. Và nếu những màn chắn này bị vén lên, ngay cả ta cũng sẽ bị hủy diệt! Nhưng Thượng đế không phải là người duy nhất mang cái tên ấy. Quỷ cũng có. Khi tụng niệm một tổ hợp những chữ cái xấu xa, kinh khủng, hắn ta sẽ trở về… và kéo theo những hậu quả khủng khiếp.”
“Đó chẳng phải điều gì mới. Nó có một cái tên còn cổ xưa hơn đạo Cơ đốc và đạo Do Thái: cái hộp Pandora.”
Bà ta nhìn gã vẻ hài lòng, như thể muốn cho gã điểm số tối đa.
“Rất tuyệt, ông Corso. Thực tế là qua nhiều thế kỷ chúng ta luôn nói về cùng một chuyện, nhưng với những cái tên khác nhau. Isis và đức Mẹ Đồng trinh Mary, Mitra và Jesus Christ, ngày hai mươi lăm tháng Chạp như là Giáng sinh hay ngày lễ Đông chí, sinh nhật của Thần mặt trời bất bại. Thử nhớ lại thánh Gregory mà coi. Ngay từ thế kỷ thứ bảy ông ta đã nhắc nhở các nhà truyền giáo vận dụng hợp chúng với đạo chính thống.”
“Nghe ra có mùi thương mại. Thực chất đó là một chiêu tiếp thị: cố lôi kéo khách hàng của người khác… Bà có thể nói với tôi bà biết gì về những cái hộp Pandora và những thứ tương tự không? Bao gồm cả khế ước với quỷ.”
“Pháp thuật phong ấn ác quỷ trong chai hay trong sách có từ rất xưa rồi. Gervase xứ Tilbury thế kỷ mười ba và Gerson ở thế kỷ mười bốn đều nhắc tới. Còn khế ước với quỷ có lịch sử còn xưa hơn: Từ Thánh thư Enoch đến Saint Jeronimus, qua thần thông của người Do Thái và các bậc thầy thông thái của Giáo hội. Đừng quên Giám mục Theophilus, người thực sự ‘say mê kiến thức’, nhà giả kim thuật truyền kỳ Faust, và Roger bacon. Hay Giáo haongf Sylvester II mà người ta đồn rằng từng cướp đoạt cuốn sách của người Saracen ‘chưa đựng tất cả những điều cần biết’.”
“Vậy thì đó là vấn đề đạt được tri thức.”
“Đương nhiên. Không có người nào bỏ ra nhiều công sức đến vậy, tự chuốc rắc rối về mình đến vậy, lang thang bên bờ địa ngục chỉ để giết thì giờ. Ngành ma quỷ học đồng nhất Lucifer với tri thức. Trong Sáng thế, quỷ đội lốt rắn đã thành công trong chuyện ngăn cản con người thôi đừng ngu ngốc nữa mà hãy đạt được nhận thức, tự do khát vọng, tính minh bạch, tri thức, với tất cả nỗi đau và sự bấp bênh do những thứ đó gây ra.”
Cuộc đối thoại tối hôm trước vẫn còn như mới khiến Corso không thể không nhớ đến cô gái. Gã nhặt cuốn Chín cánh cửa lên và, viện cớ muốn xem lại nó dưới ánh sáng tốt hơn, gã bước ra cửa sổ. Không có cô ở đó nữa. Gã ngạc nhiên nhìn đi nhìn lại đường phố, dọc theo bờ kè và những ghế đá dưới gốc cây, nhưng cũng không thấy. Gã bối rối nhưng không có thời gian nghĩ về chuyện đó. Frieda Ungern lại tiếp tục nói.
“Ông có thích chơi trò đoán chữ không? Ô chữ với những từ khóa? Về mặt nào đấy thì cuốn sách trong tay ông đúng là như thế. Giống như mọi sinh vật thông linh, quỷ vốn thích trò chơi, câu đố. Hành trình gian nan với những kẻ yếu đuối và bất lực rơi rụng giữa chừng, chỉ có những trí tuệ cao siêu – những người đã được khai trí – mới trở thành người chiến thắng.” Corso nhích lại gần bàn đặt cuốn sách xuống mở trang đầu ra. Con rắn ngậm đuôi mình quấn quanh thần cây. “Kẻ nào không thấy gì hết ngoài con rắn trong tranh đang nhai ngấu nghiến đuôi của nó thì không xứng đáng đi xa hơn.”
“Mục đích của cuốn sách này là gì?” Corso hỏi.
Bà Nam tước đặt ngón tay lên môi giống như kỵ sĩ trong bức minh họa thứ nhất. Bà cười.
“Thánh John ở Patmos nói điều đó dưới thời Ác thú Đệ nhị, trước trận quyết chiến sau cùng ở Armageddon, ‘chỉ riêng kẻ nào có dấu hiệu, có tên của Ác thú hay mã hiệu tên ông ta, mới có thể mua và bán’. Chờ đến đúng lúc, Luke (4:13) kể cho chúng ta ở cuối câu chuyện về sự cám dỗ rằng, con quỷ, sau ba lần bị khước từ, đã rút lui ‘chờ đến thời điểm thích hợp’. Nhưng con quỷ để lại vài lối đi cho người thiếu kiên nhẫn, bao gồm cả phương cách tìm đến hắn, để lập khế ước với hắn.”
“Để bán linh hồn cho hắn.”
Frieda Ungern cười khúc khích thân mật. Cô Marple cam đoan với những người bạn thân trong khi buôn chuyện về con quỷ. Bồ sẽ chẳng bao giờ đoán được những chuyện sau cùng của Satan đâu. Đây, đó, hay kia. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu, bà bạn Peggy thân mến của tôi ạ.
“Quỷ đã rút ra bài học,” bà nói. “Hắn trẻ trung và khờ dại, hắn mắc lỗi lầm. Các linh hồn chạy trốn vào phút cuối cùng qua cánh cửa giả, tự cứu mình nhờ tình yêu, lòng khoan dung của Chúa và những lời hứa giả dối khác. Vì vậy sau cùng hắn thêm vào điều khoản bắt buộc về chuyện hiến dâng cả thể xác và linh hồn khi đáo hạn, ‘tuyệt đối không được quyền chuộc lại, hay trông đợi lòng khoan dung của Chúa sau này.’ Điều khoản đó quả tình có thể tìm thấy trong cuốn sách này.”
“Quả là một thế giới tồi tệ,” Corso nói. “Ngay cả Lucifer cũng phải nhờ đến một cuốn sách nhỏ bé.”
“Ông phải hiểu. Ngày nay người ta giả dối mọi thứ. Kể cả linh hồn họ. Khách hàng của hắn lủi mất mà không tuân theo những nghĩa vụ trong hợp đồng. Quỷ chán ngán quá rồi nên hắn có đủ lý do để xử sự như vậy.”
“Còn gì khác trong cuốn sách này không? Chín bức họa có ý nghĩa gì?”
“Về nguyên tắc chúng là những ô chữ cần giải đáp. Khi vận dụng kết hợp với văn bản trong sách, chúng ban cho sức mạnh. Và cung cấp công thức kiến tạo cái tên ma thuật để làm cho Satan xuất hiện.”
“Nó hoạt động tốt chứ?”
“Không. Đó là đồ giả.”
“Bà đã tự mình thử chưa?”
Frieda Ungern có vẻ choáng.
“Ông nghĩ tôi ở tuổi này còn có thể đứng trong vòng tròn ma thuật cầu khấn quỷ vương ư? Cho tôi xin. Cho dù hắn ta rất giống John Barrymore năm mươi năm trước, và cũng đỏm dáng như thế. Ông có thể hình dung nỗi thất vọng ở tuổi tôi không? Tôi thà trung thành với những kỷ niệm thời son trẻ của mình còn hơn.”
Corso nhìn bà ta vẻ ngạc nhiên đầy nhạo báng. “Nhưng chắc là bà và con quỷ… Độc giả của bà tin rằng bà phạm tội phù thủy.”
“Vậy ư, thế thì họ nhầm rồi. Cái tôi cần ở quỷ là tiền bạc chứ không phải cảm xúc.” Bà ta nhìn ra cửa sổ. “Tôi đã tiêu hết gia tài của chồng tôi để xây dựng bộ sưu tập này, nên giờ tôi đành phải xoay sở sống bằng nhuận bút.”
“Nhuận bút không tồi, tôi chắc thế. Bà là nữ hoàng của các cửa hàng sách.”
“Nhưng cuộc sống tốn kém lắm, ông Corso. Rất tốn kém, nhất là khi phải xử trí với những người như ông bạn Montegrifo để có đượcc những cuốn sách hiếm mình muốn. Ngày nay Satan là một nguồn đem lại thu nhập cao, nhưng chỉ thế thôi. Tôi bảy mươi tuổi rồi. Không còn thời gian cho những mộng tưởng ngu ngốc viển vông, giấc mơ của các bà cô không chồng nữa… Ông hiểu chứ?”
Đến lượt Corso mỉm cười. “Thật tuyệt”
“Khi tôi nói cuốn sách này là giả,” bà Nam tước nói tiếp, “đó là vì tôi đã nghiên cứu nó rất kỹ. Có gì đó không ổn. Có những khe trống bên trong. Ý tôi muốn nói theo nghĩa ẩn dụ, vì cuốn sách của tôi thực ra là hoàn chỉnh. Nó từng thuộc về bà de Montespan, người tình của Louis XIV. Bà ta là một tín đồ của Satan và đã tìm cách biến nghi lễ ma quỷ thành hoạt động thường ngày trong lâu đài. Có một bức thư của bà de Montespan gửi bà de Peyrolles, một người bạn tâm phúc, trong đó bà ta phàn nàn về sự vô hiệu của cuốn sách, bà cho rằng cuốn này ‘có tất cả những điều mà các nhà thông thái chỉ rõ, nhưng cũng có những chỗ không đúng, một trò chơi chữ không bao giờ ghép được thành một chuỗi chính xác.”
“Còn ai sở hữu nó nữa?”
“Bá tước Saint Germain, sau đó ông ta bán cho Cazotte.”
“Jacques Cazotte?”
“Phải. Tác giả Con quỷ đang yêu, lên máy chém năm 1792. Ông biết cuốn đó?”
Corso thận trọng gật đầu. Những mắt xích rõ ràng đến mức khó tin.
“Tôi đọc rồi.”
Chuông điện thoại vang lên đâu đó trong căn hộ và tiếng bước chân người thư ký đi dọc theo hành lang. Tiếng chuông ngừng lại.
“Còn về Chín cánh cửa,” bà Nam tước tiếp tục, “dấu vết của nó chấm dứt ở ngay Paris, trong giai đoạn Kinh hoàng sau Cách mạng. Sau đó cũng có vài ba lúc người ta nhắc tới, nhưng rất mơ hồ. Trong một bài báo, Gérard de Nerval có nhắc qua tới nó, ông ta quả quyết rằng đã nhìn thấy nó ở nhà một người bạn.”
Corso khẽ chớp mắt sau cặp kính. “Dumas là bạn của bạn ông ta,” gã nhắc nhở.
“Đúng thế. Nhưng Nerval không nói là ở nhà ai. Sự thực là không ai thấy cuốn sách nữa cho đến khi bộ sưu tập của người cộng sự của Pétain được mang ra đấu giá, và tôi mua được nó…”
Corso không nghe tiếp nữa. Theo truyền thuyết, Gérard de Nerval treo cổ bằng một sợi dây lấy từ một cái áo choàng phụ nữ. Của bà de Montespan. Hay của bà de Maintenon? Bất kể là của ai thì cũng khiến gã không thể không bồn chồn liên tưởng đến sợi dây thòi ra từ cái áo choàng Enrique Taillefer mặc trên người.
Người thư ký đến bên cửa cắt đứt suy nghĩ của gã. Có người muốn gặp Corso trên điện thoại. Gã xin lỗi rồi đi qua những cái bàn đọc sách, ra ngoài hành lang đầy sách và cây. Trên một cái bàn đằng góc bằng gỗ óc chó có một cái điện thoại cổ bằng kim loại, ống nghe đã nhấc ra ngoài.
“A lô?”
“Ông Corso à? Irene Adler đây.”
“Tôi cũng đoán thế.” Gã quay nhìn hành lang trống phía sau. Người thư ký đã đi mất. “Tôi ngạc nhiên là cô không tiếp tục quan sát nữa. Cô gọi từ đâu vậy?”
“Từ quán bar góc đường. Có một người đàn ông đang theo dõi ngôi nhà. Vì thế em tới đây.”
Trong một thoáng gã gần như ngừng thở. Rồi nhe răng cắn một cái xước măng rô nơi móng tay. Chẳng sớm thì muộn sẽ có chuyện, gã nghĩ với sự nhẫn nhục ghê gớm. Người đó là một phần trong màn kịch, hay là một thứ đạo cụ. Rồi mặc dầu biết là không cần, gã vẫn nói:
“Mô tả hắn đi.”
“Đen, có ria và vết sẹo to trên mặt.” Giọng nói của cô êm dịu, không chút dấu vết nào của cảm xúc hay nhận thức về sự nguy hiểm. “Hắn đang ngồi trong chiếc BMW xám bên kia đường.”
“Hắn có thấy cô không?”
“Em không biết. Nhưng em thấy hắn. Hắn ở đây một giờ rồi. Ra khỏi xe hai lần. Lần đầu để nhìn biển tên trên cánh cửa, lần sau để mua một tờ báo.”
Corso nhè cái xước măng rô ra rồi mút ngón tay cái. Đau nhức. “Nghe đây. Tôi không biết có chuyện gì với người ấy. Thậm chí tôi không biết cô và người ấy có cùng một bọn hay không. Nhưng tôi không thích hắn ở gần cô. Không chút nào. Vậy nên hãy quay về khách sạn đi.”
“Đừng ngớ ngẩn, ông Corso. Em sẽ đến chỗ cần đến.” Cô nói thêm, “Gửi lời chào đến Treville,” rồi gác máy.
Corso làm một cử chỉ nửa bực tức nửa chế nhạo, bởi chính gã cũng đang nghĩ đến điều đó và không thích sự trùng hợp. Gã đứng đó một lát nhìn cái ống nghe trước khi treo nó lên. Đương nhiên, cô đang đọc Ba người lính ngự lâm. Thậm chí cô vẫn mở cuốn sách ra khi gã nhìn cô qua cửa sổ. Ở chương 3, vừa mới tới Paris và được ngài de Treville tiếp kiến, d’Artagnan, sĩ quan chỉ huy ngự lâm quân của nhà vua nhìn thấy Rochefort ngoài cửa sổ. Chàng chạy theo hắn, đụng vào vai Athos, quệt phải dây đeo súng của Athos và làm rớt khăn tay của Aramis. Gửi lời chào đến Treville. Đó là một trò đùa thông minh, nếu nó thực sự nhẹ nhàng. Nhưng Corso chẳng thấy nó vui tí nào.
Sau khi gác máy, gã đứng trong hành lang tối đen suy nghĩ một lúc. Có lẽ đó chính xác là cái mà người ta sự kiến gã sẽ làm: lao xuống cầu thang đuổi theo Rochefort, tay cầm kiếm, đớp miếng mồi hắn tung ra. Cú điện thoại của cô gái cúng là một phần của âm mưu. Hay có lẽ - chuyện này mới thực rắc rối – đó là lời cảnh báo về âm mưu, nếu quả thực có một âm mưu. Điều này có nghĩa là nếu cô không chơi gian lận – Corso quá kinh nghiệm để không thò tay vào lửa vì bất kỳ ai.
Thời buổi chó má, một lần nữa gã tự nhủ. Thời buổi điên rồ. Sau bấy nhiêu sách, phim và chương trình ti vi, sau khi đọc ở nhiều mức độ khác nhau đến thế, thật khó mà nói anh đang xem bản gốc hay bản in lại; khó biết hình ảnh là thật, là đảo chiều, hay cả hai, ở trong một phòng gương; khó biết ý định của tác giả là thế nào. Rất dễ rơi vào tình trạng hoặc thái quá hoặc bất cập với những lý giải của một người. Đây là một lý do nữa để ghen tị với cụ tổ gã với bộ ria lính cận vệ và mùi thuốc súng lãng đãng trên cánh đồng lầy lội cứ Flandre. Vào thời ấy một lá cờ là một lá cờ, Hoàng đế là Hoàng đế và một bông hồng là một bông hồng. Nhưng bây giờ, ít nhất cũng ở Paris này, đối với Corso một vài điều đã trở nên rõ ràng: ngay cả trong vai trò độc giả hạng nhì gã cũng chuẩn bị tham gia trò chơi chỉ đến một mức độ nào đó. Gã đâu còn tuổi trẻ, sự ngây thơ hay khát vọng lên đường chiến đấu ở một vị trí do đối thủ chọn, ba trận quyết đấu trong vòng mười phút, trong sân tu viện Carmelite hay bất kỳ chỗ quái quỷ nào. Khi tới lúc cần nói lời chào, gã bảo đảm sẽ tiếp cận Rochefort sao cho mọi thứ đều thuận lợi cho mình, nếu có thể thì từ phía sau, với một cái gậy sắt trong tay. Gã sắm vật đó từ sau lần xảy ra chuyện trong con phố hẹp ở Toledo, cùng với món nợ ứng trước ở Sintra. Corso sẽ lặng lẽ thanh toán nợ nần. Sẽ kiên nhẫn chờ đợi.
-----------------------
[1] Có lẽ nói tới Antonio de Torquemada (1957-1569), nhà văn Tây Ban Nha, song cũng có thể nói tới một số nhân vật lịch sử khác cùng họ Torquemada.
[2] Nê nhân-người bùn, theo truyền thuyết Do Thái, giống như người nhưng mạnh và khỏe hơn con người nhiều lần.
[3] Hai nhà nghiên cứu huyền học và thuật giả kim nổi tiếng thế kỳ 15-16.
[4] Cô Marple: thám tử nghiệp dư nổi tiếng trong nhiều tiểu thuyết của Agatha Christie.
[5] Gồm bốn chữ cái trong ngôn ngữ Do Thái cổ (Yod, He, Waw và He) ghép lại để chỉ Đức Cha toàn năng trên thiền đường hay Thượng đế như người ta vẫn gọi.
Câu Lạc Bộ Dumas Câu Lạc Bộ Dumas - Arturo Pérez-Reverte Câu Lạc Bộ Dumas