Bạn nhìn thấy sự việc và hỏi “Tại sao?”, nhưng tôi mơ tưởng đến sự việc và hỏi “Tại sao không?”.

George Bernard Shaw

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1751 / 26
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21 - Trở Về Downham
ột tin tốt lành đang chờ đón chúng tôi tại tháp. Alice đã tìm thấy thứ gì gì đấy mà cô bé thật sự tin rằng sẽ giúp chữa được cho Jack.
“Thuốc này lại khiến anh ấy ngủ say,” cô bé giải thích. “Nhưng loại này giúp chữa lành tâm trí chứ không phải là thể xác. Tất cả đều được viết sẵn đấy trong sổ ghi chép của mẹ cậu – pha chế như thế nào; liều lượng thảo dược cần dùng ra sao. Tất tần tật. Và mọi nguyên liệu đều ở trong rương, từng thứ một đều được dán nhãn.”
“Chị không biết cảm ơn em sao cho đủ nữa,” Ellie nói và mỉm cười nồng hậu với Alice.
“Chị đâu cần phải cảm ơn em – mà là mẹ của Tom cơ. Cũng phải mất biết bao năm trời mới nghiên cứu hết mọi thứ có trong rương ấy đấy,” Alice nói tiếp. “Nêu so với đây thì Lizzie Xương Xẩu chẳng biết quái gì cả.”
Jack vẫn ngủ tiếp đến mãi xế chiều và tất cả chúng tôi đều cảm thấy vô cùng lạc quan rằng, sẽ chẳng bao lâu nữa, người thức dậy sẽ là anh Jack của ngày xưa. Thế nhưng rồi chúng tôi nhận được tin xấu.
James quay về. Nhưng anh lại quay về một mình. Dân làng ở Downham quá khiếp sợ nên không muốn giúp đỡ.
“Cháu đã cố hết sức rồi ạ,” James mệt mỏi kể, “nhưng chẳng thể làm gì được hơn. Lòng can đảm đã rời khỏi họ mất rồi. Ngay cả Matt Finely, anh thợ rèn, cũng từ chối không chịu rời khỏi Downham.”
Thầy Trừ Tà buồn bã lắc đầu. “Thôi, nếu người ta không chịu tìm đến đây, thì chúng ta chỉ việc phải tìm đến họ. Nhưng ta không khả quan mấy đâu James ạ. Lần trước anh đã thuyết phục được họ và ta đã tin chắc rằng lần này anh lại có thể làm được như thế. Nhưng chúng ta sẽ phải thử thôi. Tối mai sẽ là lễ sabbath của Lễ Hội Mùa và chúng ta phải phá ngang lễ này bằng mọi giá. Chắc chắn mụ Wurmalde sẽ có mặt cùng lũ phù thủy kia, và ta nghĩ rằng đấy sẽ là cơ hội tốt nhất của ta để tìm ra và trói cho được mụ ấy.”
Thế là, ngay sau khi trời tối, chúng tôi sửa soạn quay lại Downham. Chúng tôi sẽ để Ellie, Jack và Mary lại trong tháp, nơi này mọi người sẽ được an toàn.
“Thôi,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, đưa mắt lần lượt nhìn James, Alice và tôi, “ta ước sao mình có được một phương cách dễ dàng hơn. Nhưng chuyện này phải được tiến hành thôi. Dù cho có xảy ra chuyện gì, thì chúng ta vẫn có một lợi điểm. Ngọn tháp này giờ đây nằm trong tay chúng ta và những chiếc rương cùng mọi thứ trong ấy đều được an toàn. Vậy nên chí ít thì chúng ta cũng đã đạt được những điều ấy.”
Thầy tôi nói phải ấy chứ. Hiện tại hai nữ yêu đang kiểm soát ngọn tháp này. Nếu được may mắn thì tôi sẽ sớm có thể quay lại tìm tòi qua những chiếc rương của mẹ một cách đường hoàng. Nhưng trước tiên – hy vọng là cùng với sự trợ giúp của dân làng Downham – chúng tôi phải đối đầu với các tộc phù thủy và phá tan lễ sabbath của bọn chúng trước khi nghi lễ có thể được tiến hành.
Vậy là một lần nữa chúng tôi rời khỏi tháp qua đường hầm. Trong lúc chúng tôi tiến lên phương bắc, một cơn gió ào ào từ phía tây bạt tới, không trung mang luồng khí lạnh. Đến Downham chúng tôi nghỉ qua phần đêm còn lại tại nhà cha Stocks, cố chợp mắt lấy vài giờ đồng hồ khi còn có thể. Thức dậy trước lúc bình minh để có thể gặp được những thanh niên trai tráng trước khi ngày làm việc của họ bắt đầu, chúng tôi không bỏ lỡ một giây phút nào đi gõ cửa từng nhà một trong làng, ráo riết tuyệt vọng cố gắng gầy dựng một đội quân. Tôi đi cùng Alice, chịu trách nhiệm những ngôi nhà ven làng và các nông trại gần đấy, trong khi Thầy Trừ Tà và James tập trung vào khu vực chính giữa làng.
Chúng tôi đến được ngôi nhà đầu tiên vừa kịp lúc nhìn thấy người trong nhà ấy bước ra ánh sáng hừng đông xam xám. Ông này là người lao động trên đồng, người xù xì cộc cằn, đang lấy tay chụi cặp mắt lờ đờ khỏi cơn buồn ngủ với viễn cảnh về một ngày lao động dài dặc mệt nhoài trước mặt. Ngay cả trước khi chúng tôi mở miệng, tôi có thể thấy là ông này sẽ chẳng buồn đoái hoài gì đến chúng tôi cả.
“Chiều nay tại nhà thờ sẽ có một buổi họp mặt đấy ạ,” tôi bảo ông ta. “Mọi đàn ông thanh niên trong làng đều được mời đến dự. Cuộc họp là để lên kế hoạch làm cách nào chúng ta có thể đối phó với mối đe dọa từ phù thủy. Tối nay chúng cháu phải xử lý bọn chúng...”
Đôi giày mũi nhọn của Alice chẳng giúp ích được gì. Đôi mắt người đàn ông nghi hoặc đảo qua đảo lại giữa đôi giày của cô bé và chiếc áo choàng cùng trượng của tôi. Tôi có thể nhận biết rằng ông ta chẳng thích vẻ bề ngoài của cả tôi lẫn Alice.
“Và ai là người tổ chức cuộc họp thế?” ông ta trịch thượng hỏi.
Tôi suy nghĩ thật nhanh. Tôi có thể dùng tên của James. Đến lúc này thì đa số mọi người đều đã biết tên anh ấy rồi, nhưng họ cũng vừa mới từ chối lời khẩn cầu của anh ấy đây thôi. Người đàn ông này có vẻ trông đã bồn chồn lắm rồi và nếu tôi nhắc đến Thầy Trừ Tà, thì chắc chắn tôi sẽ làm ông ta sợ chết khiếp mất. Lời nói dối buột ra khỏi môi tôi trước khi tôi kịp nghĩ.
“Cha Stocks ạ...”
Người đàn ông gật đầu khi nghe thấy tên ấy. “Tôi sẽ cố gắng hết sức để có mặt. Nhưng không thể hứa hẹn gì đâu nhé – tôi còn có cả một ngày bận rộn trước mắt đây.” Nói đoạn ông ta đóng sầm cửa, quay gót bước lên đồi.
Tôi quay sang Alice mà lắc đầu. “Tớ thấy khó chịu khi phải nói dối quá,” tôi bảo.
“Suy nghĩ như thế chẳng có ích gì đâu,” cô bé bảo tôi. “Chắc chắn là cậu vừa làm một việc đúng đắn rồi. Nếu cha xứ mà con sống, hẳn là ông ấy sẽ cho kêu gọi một cuộc họp thôi mà. Có gì khác biệt cơ chứ? Chúng ta chỉ là kêu gọi thay cho ông ấy, có thế thôi.”
Tôi gật gù không quả quyết lắm, nhưng kể từ thời khắc ấy bài bản đã được thiết đặt và trong mỗi lần tiếp theo tôi đều dùng tên của cha Sotcks. Khó mà phán đoán được sẽ có bao nhiêu người chịu đến tham gia buổi họp nhưng tôi không được lạc quan. Sự thật là, có những người còn không thèm ra mở cửa, một số người khác chỉ lầm bầm lý do khước từ, trong khi đó lại có một ông lão nổi đóa lên:
“Cái loại như chúng mày đang làm gì trong làng của bọn tao thế? Đấy là điều tao muốn biết,” ông ta vừa nói vừa nhổ nước bọt về phía đôi giày của Alice. “Trong quá khứ chúng tao đã bị ám ảnh sợ hãi quá lắm rồi, nhưng sẽ không như thế nữa đâu nhé! Cuốn xéo khỏi mắt ta ngay, đồ nhãi ranh phù thủy!”
Alice bình tĩnh chấp nhận tình huống và chúng tôi chỉ đơn giản là quay đi tiếp tục cuộc hành trình. Thầy Trừ Tà và James đã có được chút ít thành công hơn chúng tôi. Anh trai tôi bảo tất cả đều phụ thuộc vào anh thợ rèn. Anh này dường như đang lưỡng lự đôi đường, nhưng nếu anh ấy quả thật quyết định ủng hộ hành động, thì rất nhiều người khác sẽ theo gương anh ấy. Khi tôi kể cho Thầy Trừ Tà nghe về lời nói dối của tôi, thầy chẳng bình luận gì, chỉ gật đầu nhận biết, thế thôi.
Suốt phần ngày còn lại chúng tôi thấp thỏm chờ đợi. Thời gian đang cạn dần. Liệu những dân làng có xuất hiện đủ quân số cần thiết để cho chúng tôi cơ hội hay không? Nếu có, liệu chúng tôi có khả năng thuyết phục họ hành động? Còn nữa, liệu chúng tôi có đủ thời gian để đua đến đồi Pendle mà phá ngang nghi thức Lễ Hội Mùa không? Khi những ý nghĩ này đang còn quay cuồng trong đầu tôi, tôi chợt nhớ đến một chuyện khác: ngày 3 tháng Tám, hai ngày sau Lễ Hội Mùa, là sinh nhật của tôi.
Tôi nhớ đến những tiệc sinh nhật chúng tôi từng tổ chức lúc còn ở nông trại. Khi một thành viên trong gia đình đến ngày sinh nhật, mẹ tôi luôn nướng một ổ bánh đặc biệt. Tôi đã rời thật xa khỏi những thời khắc hạnh phúc ấy rồi. Làm sao tôi có thể nghĩ được điều gì ngoài mối nguy hiểm mà chúng tôi sẽ phải đối mặt khi màn đêm buông xuống cơ chứ? Dường như việc hy vọng quá nhiều từ cuộc đời này thật vô ích làm sao. Thời gian hạnh phúc như thời xa xưa ấy thuộc về một quãng đời ngắn ngủi làm trẻ thơ của tôi và giờ đây quãng đời ấy đã qua đi mất.
Khi mặt trời lặn xuống, chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi trong nhà thờ nhỏ hẹp chỉ có một dãy lối đi giữa hai hàng ghế. Chúng tôi tự lấy nến trong phòng chứa đồ lễ bé xíu và đặt nến lên bệ thờ lẫn những chân nến bằng kim lại dọc hai bên lối cửa vào.
Lâu thật lâu trước khi dân làng đầu tiên bồn chồn bước vào nhà thờ ngồi xuống hàng ghế phía sau, bầu trời đã ngả sang màu sắc màu đen sậm như vỉ than ở Horshaw. Vị khách đầu tiên này là một người quá tuổi trung niên bước đi khập khễnh – một người thích hợp cho việc vác bộ xương cốt rệu rã của mình ngồi nghỉ bên lò sưởi hơn là mạo hiểm đi đến đồi Pendle để chiến đấu trong một trận giao tranh đầy nguy hiểm. Những người khác nối tiếp theo, hoặc là đi một mình hoặc tụm năm tụm ba, nhưng thậm chí sau gần nửa tiếng đồng hồ mà vẫn chưa có nổi quá một tá. Từng người đàn ông giở nón ra khi bước vào. Hai trong số những người ngạo nghễ nhất gật đầu với James, nhưng không loại trừ một ai, tất cả đều tránh mắt nhìn về phía Thầy Trừ Tà. Tôi có thể cảm nhận được sự bồn chồn cùng cực từ họ. Những người đàn ông mang gương mặt sợ sệt, một số còn lập cập sờ sờ ra đấy mặc dù là không khí vẫn dịu mát, và trông như sẵng sàng tháo chạy thay vì chiến đấu. Tôi thấy có vẻ như chỉ cần thoạt trông thấy một phù thủy thôi thì những người này sẽ bỏ chạy tản mác đi mất tích.
Nhưng rồi, khi tình hình dường như không cứu vãn nổi, thì từ bóng tối bên ngoài vọng đến những giọng nói lao xao, rồi một anh thanh niên to lớn vận chiếc áo da cộc tay bước vào nhà thờ, dẫn đầu cho ít nhất là thêm hai tá dân làng nữa. Vì tôn trọng ngôi nhà linh thiêng của chúa, anh ấy dỡ mũ ra, và khi ngồi xuống chỗ của mình nơi hàng ghế đầu, anh ta lần lượt gật đầu với James rồi với Thầy Trừ Tà. Nãy giờ chúng tôi đang đứng bên trái bệ thờ bé nhỏ, gần sát vách tường, nhưng khi tất cả những người mới đến đều đã ổn định chỗ ngồi, Thầy Trừ Tà ra hiệu cho anh trai tôi, James bước lên trước đứng vào vị trí đối diện với lối giữa hai hàng ghế.
“Chúng tôi rất cảm kích vì mọi người đã bỏ thời gian chấp nhận phiền toái để đến đây lắng nghe chúng tôi tối hôm nay,” James mở màn. “Chúng tôi tuyệt đối không muốn mọi người phải đặt mình vào vòng nguy hiểm nhưng quả thật chúng tôi đang rất cần đến sự giúp đỡ của mọi người, và chúng tôi sẽ không cầu xin nếu những việc cần làm này tự chúng tôi có thể đảm đương được. Một cái ác kinh khủng đang đe dọa tất cả chúng ta. Trước lúc nửa đêm, sẽ có phù thủy kéo lên đồi Pendle. Những phù thủy đang có kế hoạch phóng thích một sự tai quái tột độ vào thế giới này. Chúng ta cần phải ngăn chặn bọn chúng.”
“Nếu tôi không lầm, thì lúc này đã có phù thủy trên ngọn đồi đó rồi,” anh thợ rèn lên tiếng. “Chúng vừa đốt lên đống lửa hiệu thật lớn mà cách hàng dặm vẫn có thể nhìn thấy được!”
Nghe thấy những lời này, vẻ lo lắng hằn sâu trên gương mặt Thầy Trừ Tà; thầy lắc lắc đầu và bước tới đứng cạnh James. “Thưa quý vị, tối nay có những việc vô cùng quan trọng phải được tiến hành,” thầy nói. “Thời gian gấp rút lắm rồi. Ngọn lửa hiệu bên trên đồi kia ra hiệu cho biết rằng bọn phù thủy đã sẵn sàng thực hiện công việc xấu xa của bọn chúng. Ngọn lửa đấy báo hiệu mối đe dọa đến quý vị, đến gia đình quý vị lẫn những gì mà quý vị quý trọng. Giờ đây lũ phù thủy nghĩ rằng bọn chúng đang sở hữu mảnh đất này. Chúng không còn thấy hài lòng khi phải thu mình trong những vùng thung lũng hẻo lánh nữa, chúng phô trương sự độc ác của chúng từ ngay trên đỉnh đồi Pendle! Nếu chúng ta không ngăn chặn chúng lại, bóng tối sẽ bao trùm nên mảnh đất này. Sẽ không ai trong chúng ta còn được an toàn – cả người mạnh lẫn kẻ yếu; cả người lớn lẫn em nhỏ. Chúng ta sẽ không thể được an lành yên ngủ trên giường của chúng ta. Thế giới này sẽ trở thành một chốn hiểm nguy, đầy nạn đói và dịch bệnh, và chính Quỷ Vương sẽ tunh hoàng ngang dọc khắp Hạt, trong khi đám phù thủy sẽ thống trị thế gian và rình rập con em quý vị. Chúng ta phải làm cho mảnh đất này được an toàn!”
“Ngôi làng của chúng tôi đang được an toàn đấy thôi!” anh thợ rèn quạc lại. “Và chúng tôi đã chiến đấu tận sức để đạt được điều ấy. Mà không chỉ có thế: nếu cần thiết, chúng tôi sẽ lại chiến đấu để bảo tồn được điều này. Nhưng tại sao chúng tôi phải liều mạng mình để làm cái việc đáng ra là nhiệm vụ của những kẻ khác? Đám đàn ông từ Roughlee, từ Bareleigh hay Hộc Goldshaw đâu cả rồi? Tại sao bọn họ không đánh đuổi những thứ thối nát từ chính khu vực của bọn họ? Tại sao lại phải là chúng tôi cơ chứ?”
“Bởi vì những người đàn ông chính trực còn lại trong những ngôi làng ấy là rất ít,” Thầy Trừ Tà đáp. “Thế lực bóng tối đã gặm nhấm quá sâu vào những vùng ấy và những vết thương hậu quả đã mưng mủ. Những ai căm ghét bóng tối có thể đã từng đấu tranh và thắng lợi. Giờ đây những tộc phù thủy đang thống trị và những người tốt hầu như đã dạt đi nơi khác – hay đã bỏ mạng trong những hầm ngục dưới tháp Malkin. Vậy nên giờ đây là cơ hội của các anh – có thể là cơ hội cuối cùng mà các anh có được – để chiến đấu chống lại bóng tối.”
Thầy Trừ Tà ngưng lời, một sự im lặng bao trùm. Tôi có thể thấy nhiều người tập trung tại đấy đang suy nghĩ rất lung về những gì thầy tôi vừa nói. Khi đấy thì một giọng nói giận dữ làu bàu vọng lên từ hàng ghế phía sau. “Cha Sotcks đâu rồi? Tôi tưởng chính cha ấy đã kêu gọi cuộc họp này cơ mà. Đấy là lý do duy nhất mà tôi đã tới đây!”
Là người nông dân làm công từ căn nhà đầu tiên mà tôi và Alice đã ghé qua. Là người đầu tiên mà tôi đã nói dối. Từ phía sau nhà thờ vọng đến tiếng lào xào. Dường như những người khác cũng có cùng cảm nhận.
“Chúng tôi đáng lẽ sẽ không nói cho mọi người biết chuyện này, sợ rằng nói ra sẽ làm cạn kiệt chút can đảm còn sót lại của quý vị,” Thầy Trừ Tà đáp. “Nhưng giờ đây thì cũng phải được nói ra thôi. Một người bạn chân thành của làng quê này đã chết trong tay một mụ phù thủy, là kẻ chủ mưu chính yếu trong toàn bộ rắc rối này. Một người bạn đã từng ra sức hơn ai hết để giữ cho gia đình quý vị được an toàn. Ta đang nói đến cha Stocks, cha xứ trong giáo hạt của quý vị. Và giờ đây ta nhân danh ông ấy, yêu cầu sự giúp đỡ của mọi người.”
Khi nhắc đến tên cha Stocks, mọi ngọn nến trong nhà thờ đồng loạt chấp chới và gần như là tắt phụt. Cửa đóng sập lại, tuy chẳng có cơn gió nào; chẳng vì lý do nào cả. Từ cộng đoàn giáo dân vọng ra những tiếng há hốc, và Finley, anh thợ rèn, gục đầu lên hai tay như thể đang cầu nguyện. Tôi rùng mình, nhưng khoảnh khắc ấy qua đi và những ngọn nến lại sáng lên không chút lay lắt. Thầy Trừ Tà chờ trong vài giây để cho tin tức choáng váng này được thẩm thấu rồi lại nói tiếp.
“Vậy nên giờ đây ta cầu xin quý vị. Nếu quý vị không làm việc này cho bản thân quý vị, thì hãy làm cho cha Stocks đáng thương. Hãy trả lại món nợ mà quý vị từng mắc với người đã hy sinh cuộc đời để chiến đấu chống lại bóng tối. Mụ phù thủy, kẻ đã ra tay hạ sát cha Stocks khi ông nằm đấy không chút khả năng kháng cự, có tên là Wurmalde, là một phù thủy thèm thuồng cả đến những mẩu xương của những người thân yêu quá cố của mọi người. Là một phù thủy mà, nếu chỉ có được một nửa cơ hội thôi, cũng sẽ uống cạn máu của con cái các người. Vậy hãy chiến đấu vì những người ấy và vì con cái của con cái quý vị. Hãy làm ngay! Hãy đấu tranh khi còn có thể. Trước khi đã quá muộn. Hoặc là như thế, hoặc là quý vị có kết cục như những người dân đáng thương trong các ngôi làng dưới phía nam...”
Matt Finley, anh thợ rèn, ngẩng đầu lên quắc mắt nhìn Thầy Trừ Tà. “Ông muốn chúng tôi làm gì nào?” anh hỏi.
“Lũ phù thủy có thể đánh hơi ra nguy hiểm đang đến gần và chúng sẽ biết là chúng ta đang đến,” Thầy Trừ Tà đáp lại, mắt không rời khỏi anh thợ rèn, “nên ta không cần phải lén lút làm gì. Một khi đã tiến vào, cứ náo động tùy thích. Nói thật thì càng ồn ào càng tốt! Anh thấy đấy, bọn chúng thường không đoán ra chính xác về con số. Chừng này các anh cũng đủ để gây ra mối đe dọa ghê gớm, nhưng chúng ta cần phải làm cho mối đe dọa ấy có vẻ lớn lao hơn thực tế. Bọn chúng sẽ không biết chúng ta có bao nhiêu mạng, và chúng ta có thể lợi dụng điều này làm lợi thế. Ngoài vũ khí ra chúng ta còn cần đến cả đuốc nữa.”
“Chúng tôi sẽ phải đối mặt với những gì ở trên ấy? Bao nhiêu tên?” Finley gặng hỏi. “Đa số những người đàn ông ở đây còn phải nuôi sống cả gia đình nữa. Chúng tôi cần biết cơ hội để chúng tôi còn toàn mạng quay về là bao nhiêu.”
“Về số lượng, ta thật không thể đoan chắc được,” Thầy Trừ Tà thừa nhận. “Ít nhất mỗi người chúng ta sẽ phải chọi hai đến ba tên, nhưng đấy không phải là điều đáng lo và khả năng rất lớn là đa số các anh sẽ thậm chí không phải đánh đấm gì. Dự định của ta chỉ là phá ngang trò mà bọn chúng đang cố làm rồi đuổi bọn chúng xuống đồi về hướng tây. Trong cơn hỗn loạn ấy ta sẽ đương đầu với Wurmalde và thế là kế hoạch độc địa của bọn chúng sẽ không có kết quả.
“Ta nghĩ các anh nên chia thành năm nhóm khoảng sáu người; mỗi nhóm tiến lên từ một vị trí khác nhau trên mạn đồi phía đông. James đây sẽ leo lên cao hơn một chút và châm đuốc của anh ấy. Đấy sẽ là hiệu lệnh cho các anh đốt lên đuốc của mình. Xong đâu đấy, hãy chậm rãi tiến lên đồi và đi vòng quanh về phía đống lửa hiệu. Còn một điều nữa – đừng dồn đống lại với nhau. Mỗi nhóm phải bằng cách nào đấy rải người ra – để bọn chúng tưởng là sẽ còn thêm những người khác không mang đuốc đang đi giữa các anh nữa. Như ta đã nói, bọn chúng sẽ chỉ có thể cảm nhận được mối đe dọa, chứ không biết được chi tiết tường tận những gì chúng đang đối mặt.
“Kế hoạch là vậy đấy. Nếu các anh có gì muốn nói, hãy nói ra ngay đi. Đừng ngại phải hỏi.”
Ai đấy phía sau nhóm người lên tiếng ngay lập tức: là người đàn ông lớn tuổi đầu tiên bước vào nhà thờ. “Ông Gregory này, liệu chúng tôi có gặp nguy hiểm bị tấn công từ...” ông ta lo lắng hỏi. Ông này chưa kịp nói hết câu thì Thầy Trừ Tà đã nhìn thẳng vào ông, người đàn ông chỉ khoa tay lên trời thốt lên một từ nữa: “chổi?”
Thầy Trừ Tà không cười, mặc dù tôi biết trong hoàn cảnh khác thì hẳn thầy đã dễ dàng rống lên cười rồi. “Không đâu,” thầy đáp. “Ta đã theo nghề này trong hằng bao nhiêu năm mà đến ta cũng chẳng buồn nhớ nổi, nhưng trong suốt thời gian ấy ta có thể thành thật mà nói rằng ta chưa từng thấy một mụ phù thủy nào cưỡi trên cán chổi mà bay cả. Đấy chỉ là một điều mê tín thường thấy nhưng cơ bản điều ấy không có thật.
“Lúc này bổn phận của ta là phải thông báo cho mọi người biết về các mối hiểm nguy nếu điều tồi tệ nhất có xảy đến. Hãy cảnh giác với mã tấu của bọn chúng. Bọn chúng sẽ cắt lìa đầu quý vị ngay khi chúng nhìn vào quý vị và đa số bọn chúng đều có sức mạnh kinh người – mạnh hơn nhiều những người cỡ trung bình trong quý vị. Vậy nên hãy cảnh giác với điều này. Đừng để bọn chúng đến quá gần. Nếu cần thiết, hãy sử dụng dùi cui gậy gộc của quý vị để chống trả.
“Ồ, còn một điều nữa. Đừng nhìn thẳng vào mắt bọn chúng. Một mụ phù thủy có thể thu phục quý vị vào quyền lực của chúng chỉ bằng một cái liếc mắt; mà cũng đừng lắng nghe những gì chúng nói. Và hãy nhớ, cũng còn phải đối mặt với vài tên đàn ông thành viên của các tộc nữa. Nếu thế thì quý vị cũng phải cảnh giác tương tự. Bọn chúng đã học hỏi rất nhiều từ đám đàn bà mà chúng giao du cùng. Bọn chúng sẽ không chiến đấu công bằng và sẽ sử dụng đủ loại chiêu trò đấy. Nhưng như ta đã nói, khả năng rất cao là sẽ thậm chí không diễn ra một trận đánh xáp lá cà đâu. Còn gì nữa không nào?”
Không ai nói năng gì nhưng Matt Finley đã thay mặt cả hội mà lắc đầu. Vẻ mặt anh trông nghiêm trọng và cam chịu như những người còn lại. Họ không muốn phải đối đầu với phù thủy nhưng lại chấp nhận sự thật vì gia đình của chính mình họ quả là không còn lựa chọn nào khác.
“Thôi,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, “chúng ta chẳng còn thời gian mà phí phạm nữa đâu. Bọn chúng đã đi lên đồi kia sớm hơn là ta tưởng. Nhưng chuyện gì xảy ra thì cũng đã xảy ra rồi, nên giờ chúng ta hãy đảm bảo sao cho chúng không còn làm được gì tệ hại hơn nữa. Cầu chúa ở cùng các người.”
Để đáp lại, một vài dân làng đưa tay làm dấu; những người khác thì cúi thấp đầu. Thầy Trừ Tà thật ra chưa khi nào nói thẳng rằng thầy có tin vào Chúa hay không. Nếu thầy có tin, thì đấy không phải là vị Chúa được mô tả trong giáo lý của Giáo Hội. Dù sao đi nữa, đây đích thị là điều đúng đắn nên nói ra, và trong chốc lát những nhóm người đều theo nhau rời khỏi nhà thờ để đi gom vũ khí tự tạo cùng đuốc.
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương