Nghịch cảnh là thước đo giá trị của một con người. Tôi trở nên mạnh mẽ hơn sau những khủng hoảng trong cuộc sống.

Lou Holtz

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1751 / 26
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7 - Câu Chuyện Của Alice
hừng đâu một giờ đồng hồ sau, chúng tôi đang gõ lên cửa nhà dòng. Cha Stocks và Thầy Trừ Tà đã về tới đây, thoạt tiên thầy tôi rất tức giận vì tôi đã một mình bỏ đi đâu mất.
Khi chúng tôi ngồi quây quần quanh bàn bếp, tôi để ý thấy tấm gương trên bệ lò sưởi đã được xoay vào tường. Trời vẫn còn tối nên rõ ràng cha Stocks đã khôn ngoan cẩn thận để không bị đám phù thủy theo dõi.
Thầy tôi bắt tôi phải kể thật tường tận chi tiết về những gì đã xảy ra, và đến lúc tôi kể xong, cha Stocks đã đặt hai bát súp nóng hổi lên bàn. Vì rõ là thầy tôi vẫn chưa muốn đối mặt với đám phù thủy, nên hình như chúng tôi chẳng cần nhịn đói làm gì, thế là tôi thật lòng biết ơn đánh ực cạn bát súp.
Tất nhiên là, mặc dù đã giải thích làm thế nào chúng tôi chạy thoát khỏi bọn Mouldheel, tôi vẫn không nhắc đến việc Alice đã trò chuyện với mụ phù thủy quá cố. Tôi cho rằng Thầy Trừ Tà không muốn nghe đến loại chuyện ấy. Đối với thầy, đấy sẽ là một dẫn dụ cho thấy Alice vẫn còn gần gũi với gia đình cô gái đến thế nào và chúng tôi không được tin tưởng cô ra sao.
“Được rồi anh bạn,” thầy vừa nói vừa nhúng một lát bánh mì giòn rụm vào bát súp nghi ngút khói của mình, “cho dù khởi sự là con quá điên rồ vì đã một mình đi theo con nhãi ấy, tuy nhiên thật mừng là đầu xuôi đuôi lọt. Nhưng giờ ta muốn nghe Alice nói,” Thầy Trừ Tà đưa mắt nhìn Alice. “Vậy con hãy bắt đầu từ đầu và kể cho ta nghe mọi điều đã xảy ra trước khi Tom tìm thấy con. Không bỏ sót chi tiết nào dù là nhỏ nhất nhé, biết đâu nó lại rất quan trọng.”
“Cháu mất suốt một ngày một đêm lùng sục khắp nơi trước khi bị bọn Mouldheel tóm được,” Alice mở lời. “Tuy nhiên chừng đó thời gian cũng đủ để tìm ra thông tin. Cháu đã tìm đến Agnes Sowerbutts, một trong mấy bà cô của cháu, và cô ấy đã kể cho cháu nghe gần hết mọi chuyện. Có vài điều sờ sờ ra trước mắt. Chẳng khó khăn gì để hiểu chuyện gì đang xảy ra ở nơi ấy. Nhưng có những điều khác lại thật bí ẩn. Như cháu đã kể với Tom, anh Jack cùng gia đình anh ấy đang bị giam trong hầm ngục dưới tháp Malkin. Chuyện này có lạ gì đâu. Cũng chẳng ngạc nhiên khi nhà Malkin là bọn gây ra chuyện này. Mấy chiếc rương của Tom cũng đang ở trong ấy. Và bọn chúng đang gặp khó khăn với mấy chiếc rương lớn. Bọn chúng dễ dàng mở được vài cái hộp nhỏ, nhưng không cách nào đụng vào mấy chiếc rương lớn. Bọn chúng cũng không biết trong rương ấy có gì. Chỉ biết là thứ gì đấy rất đáng sở hữu…”
“Mà trước hết là làm sao bọn chúng lại biết đến mấy chiếc rương ấy?” Thầy Trừ Tà cắt ngang.
“Bọn chúng tạo cho mình một ‘nhà tiên tri’,” Alice đáp. “Gọi hắn là Tibb. Tên này có thể nhìn thấu mọi việc từ xa, nhưng lại không thể nhìn vào trong mấy chiếc rương. Chỉ biết số rương ấy rất đáng mở ra thôi. Hắn cũng biết Tom nữa: hắn nhìn thấu tương lai và nghĩ Tom là mối đe dọa thực thụ. Còn nguy hiểm hơn cả ông đấy,” cô gái gật đầu về phía Thầy Trừ Tà. “Không thể để Tom trưởng thành. Bọn Malkin ấy muốn Tom phải chết. Nhưng trước hết chúng muốn có chìa khóa của Tom đã – để chúng mở được mấy chiếc rương của mẹ cậu ấy.”
“Cái kẻ được gọi là nhà tiên tri là ai thế?” Thầy Trừ Tà hỏi, giọng thoáng chút khinh bỉ. “Hắn có sinh ra lớn lên trong Hạt này không?”
Thầy tôi không tin có ai có khả năng nhìn thấu tương lai, nhưng tôi đã từng chứng kiến vài điều khiến tôi nghĩ không chừng thầy mình đã lầm. Mẹ tôi đã viết thư cho tôi trước khi thầy trò tôi đối mặt với tên Quỷ Độc ở Priestown lần cuối. Bà đã dự đoán những gì có thể xảy đến, và bà đã đúng.
“Được sinh ra trong Hạt này ạ, theo một kiểu nào đấy, nhưng Tibb không phải là con người,” Alice đáp. “Chỉ cần nhìn qua một cái là ông sẽ biết ngay thôi…”
“Con nhìn thấy hắn rồi à?” Thầy Trừ Tà hỏi.
“Vâng ạ, cả Tom cũng thấy nữa. Bọn cháu nhìn thấy hắn trong gương thôi. Chủ yếu bọn Mouldheel giam cháu trong một tầng hầm, trong đấy toàn gương, để bọn chúng có thể để mắt theo dõi. Nhưng pháp lực của Tibb quá mạnh nên hắn đã dùng một trong những chiếc gương của bọn Mouldheel để bói và theo dõi. Hắn đã trông thấy cháu trong ấy, nhưng điều quan trọng hơn là hắn biết Tom đã giải cứu cho cháu. Hắn xấu xí lắm, răng sắc nhọn. Nhỏ thó nhưng lại mạnh và nguy hiểm. Với lại mỗi bàn chân hắn chỉ có ba ngón thôi. Không đâu, hắn không phải là con người – chuyện này thì quá rõ rồi.”
“Thế thì hắn từ đâu ra? Trước đây ta chưa từng nghe đến hắn,” thầy tôi bảo.
“Kỳ Lễ Hội Ma vừa rồi tộc Malkin hòa hoãn với nhà Deane và cả hai hiệp hội phù thủy đã cùng nhau hợp lại để tạo ra Tibb. Bọn họ bỏ một cái đầu lợn lòi vào vạc để nấu lên. Đun thật nhừ toàn bộ da thịt và não của con lợn để tạo ra cơ bắp. Mỗi thành viên của hiệp hội nhổ mười ba lần nước bọt vào trong vạc. Rồi bọn chúng đem cho một con lợn nái ăn hết. Khoảng bảy tháng sau đấy bọn chúng rạch bụng con lợn và Tibb từ trong đấy bò ra. Từ bấy đến nay hắn chẳng to lớn hơn là mấy, nhưng sức hắn còn mạnh hơn một người đàn ông trưởng thành.”
“Nghe cứ như truyện nhảm trong mơ hơn là đời thực,” Thầy Trừ Tà nhăn nhó kinh tởm, giọng thầy hằn vẻ miệt thị. “Con nghe chuyện này từ đâu thế? Từ bà cô của con đấy à?”
“Một phần thôi ạ. Phần còn lại là từ ba chị em nhà Mouldheel – Mab, Beth và Jennet. Bọn chúng tóm được cháu khi cháu đang quanh quất ven làng Bareleigh. Nếu không phải vì Tom thì chắc chắn bọn chúng đã kết liễu cháu rồi. Cháu cố thuyết phục bọn chúng thả cháu đi. Bảo cháu không còn thuộc về gia đình mình nữa. Nhưng bọn chúng làm cháu đau ghê lắm. Buộc cháu phải tiết lộ những điều cháu không muốn. Xin lỗi nhé Tom, nhưng tớ không cách nào khống chế được. Tớ đã nói cho bọn chúng nghe về cậu, về chuyện cậu sẽ đến Pendle theo cách nào để giải cứu cho gia đình cậu. Thậm chí tớ còn nói cho Mab biết cậu đang ở đâu nữa. Tớ thật sự xin lỗi nhưng tớ không thể không khai…”
Nước mắt bắt đầu long lanh trong mắt Alice, tôi bước sang đặt tay mình lên vai cô.
“Không hề gì đâu mà,” tôi an ủi.
“Thêm một chuyện nữa cậu cần phải biết,” Alice cắn nhẹ môi dưới trước khi hít vào một hơi. “Trong lúc tớ làm tù nhân của bọn Mouldheel thì tộc Deane và Malkin có ghé qua thăm hỏi. Chỉ vài người trong mỗi tộc thôi. Bọn chúng ngồi quanh đống lửa ngoài trời – tớ ở cách đấy khá xa nên hầu như không nghe được bọn chúng nói gì, nhưng tớ nghĩ bọn chúng đang cố thuyết phục Mab giúp sức làm điều gì đấy. Nhưng rõ ràng tớ có thấy Mab lắc đầu đuổi bọn chúng đi.”
Thầy Trừ Tà cau mày không hiểu. “Tại sao tộc Malkin và Deane lại nói chuyện với một con nhãi ranh về những việc như thế?” thầy hỏi.
“Đã có nhiều thứ thay đổi kể từ lần cuối thầy ở đây đấy, John ạ,” cha Stocks trầm ngâm chiêm nghiệm. “Hiệp hội phù thủy Mouldheel đang ngày càng trở nên hùng mạnh và bắt đầu tỏ ra là một thách thức to lớn với hai tộc còn lại. Vả lại kẻ đảm đương cho vấn đề này chính là thế hệ trẻ. Mab cao lắm là mười bốn tuổi nhưng con bé này lại độc ác hơn cả một mụ phù thủy gấp đôi tuổi mình. Con nhãi ấy đã là kẻ cầm đầu cho cả tộc rồi nên mọi kẻ khác đều e sợ nó. Người ta đồn Mab là một tay chiêm bói tài tình và có thể đoán biết chuyện tương lai chuẩn xác hơn bất cứ phù thủy nào từ trước đến nay. Có lẽ tên Tibb này là thứ mà bọn Malkin đã tạo nên để đối chọi lại với quyền lực đang ngày càng gia tăng của Mab.”
“Thế thì chúng ta nên hy vọng Mab sẽ không thay đổi ý định mà gia nhập với mấy hiệp hội kia,” Thầy Trừ Tà ủ rũ nói. “Như con nói ấy, Tibb có thể nhìn thấy mọi vật từ xa,” thầy hướng lời mình về phía Alice. “Đấy có phải một kiểu đánh hơi từ xa không?”
“Là đánh hơi từ xa gộp với chiêm bói,” Alice giải thích. “Nhưng không phải lúc nào hắn cũng làm trò này được. Cần phải uống lấy máu người còn sống…”
Một sự nín lặng bao trùm căn phòng. Tôi có thể nhận thấy cả cha Stocks lẫn Thầy Trừ Tà đều đang suy nghĩ về những gì vừa được thốt ra. "Chiêm bói" là thuật ngữ đám phù thủy dùng để nói đến sự tiên tri. Thầy Trừ Tà không tin vào chuyện này nhưng tôi có thể thấy là thầy mình lo lắng vì Tibb đã biết đến mấy chiếc rương của mẹ tôi. Càng nghe thêm nhiều chuyện thì tình hình dường như càng xấu hơn. Ngay từ lần đầu tiên khi Thầy Trừ Tà cảnh báo cho tôi biết chúng tôi sẽ đi đến Pendle để đối đầu với đám phù thủy, tôi đã có những mối nghi ngại lo sợ rất lớn rồi. Làm sao thầy tôi đối đầu với bao nhiêu phù thủy như thế được? Và giờ đây chúng tôi biết phải làm gì khi Jack và gia đình anh ấy đang là tù nhân trong hầm ngục dưới tháp Malkin?
“Sao bọn chúng lại bắt anh ấy cùng gia đình nhỉ?” tôi hỏi. “Chúng đã lấy được mấy chiếc rương rồi mà. Tại sao bọn chúng không bỏ lại Jack cùng gia đình chứ?”
“Nhiều khi phù thủy ra tay chỉ vì chúng xấu xa,” Alice đáp. “Chúng có thể dễ dàng giết sạch mọi người trước khi rời khỏi nông trại. Có khả năng như vậy lắm. Nhưng chủ yếu chúng bắt mọi người đi vì họ là người nhà của cậu. Chúng cần chìa khóa, và bắt cóc con tin là một cách để chúng tạo áp lực lên cậu.”
“Giờ thì chúng ta biết Jack, Ellie cùng Mary đang ở đâu rồi,” tôi thốt lên, cơn giận dữ nóng lòng trong tôi trỗi dậy. “Chúng ta sẽ làm gì để giải thoát cho mọi người đây? Và sẽ làm như thế nào?”
“Con này, ta nghĩ chúng ta chỉ có thể làm được một chuyện,” Thầy Trừ Tà đáp. “Ta tìm kiếm sự giúp đỡ. Kế hoạch của ta là dùng cả mùa hè lẫn mùa thu để nhũng nhiễu các kẻ thù của chúng ta; cố gắng gây chia rẽ giữa các tộc. Giờ đây chúng ta phải hành động nhanh gọn. Cha Stocks đã đề nghị một chuyện mà ta không hẳn là thích lắm, nhưng cha đã thuyết phục được ta rằng đấy là cách duy nhất chúng ta có thể có chút mảy may cơ hội để cứu lấy gia đình của con.”
“Cũng có rủi ro đấy, ta khuyến cáo con thế. Nhưng chúng ta còn lựa chọn nào khác đâu?” cha Stocks hỏi. “Trong ba ngôi làng ấy có vài con người xấu xa sinh sống, những người tự nguyện hoặc khiếp sợ các hiệp hội phù thủy nên đã ra sức trợ giúp cho bọn phù thủy. Và tất nhiên còn có thêm đám đàn ông trong các tộc ấy. Rồi dù bằng cách nào đó chúng ta có thể tấn công và vượt qua được bọn chúng, thì tòa tháp Malkin cũng kiên cố vô cùng. Tháp này được xây từ loại đá hảo hạng của Hạt, còn có hào lũy bao quanh cùng một chiếc cầu kéo và sau cầu là cánh cửa gỗ chắc nụi tán đinh sắt. Thực ra thì đấy là một tòa lâu đài cỡ nhỏ.
“Vậy nên Tom à, ta đề nghị thế này. Ngày mai con cùng ta đi đến ngôi nhà lớn ở Read để thưa chuyện cùng vị quan tòa địa phương ở đấy. Với tư cách là người thân của những ai đã bị bắt cóc, con sẽ phải chính thức đâm đơn khiếu nại. Tên vị quan tòa là Roger Nowell và cho đến khoảng năm năm trước thì ông ta là Chánh án Tối cao vùng Caster. Ông ta là một công tôn, dưới hiệp sĩ một bậc, và cũng là một người hiền lành, chính trực. Chúng ta sẽ xem xem liệu có thuyết phục được ông ta ra tay không.”
“Phải đấy,” Thầy Trừ Tà nói thêm vào, “và suốt thời ông ta tại nhiệm ở Caster, không một mống phù thủy nào được đem ra xét xử. Nhưng chúng ta đều biết, dù sao thì những kẻ bị khép tội thường toàn là bị cáo buộc sai, nhưng chuyện này cho chúng ta biết khá rõ về ông ta. Con thấy đấy, ông ta không tin vào phép phù thủy. Ông ta là một kẻ duy lý. Một người chỉ biết nghe theo lý lẽ thường tình. Đối với ông ta, phù thủy chỉ đơn giản là không tồn tại…”
“Làm sao ông ta có thể nghĩ như thế khi đang sinh sống tại Pendle chứ có phải nơi nào khác đâu?” tôi hỏi.
“Có những người đầu óc bảo thủ lắm,” thầy tôi trả lời. “Và việc làm ông ta mãi bảo thủ như thế mang lại lợi ích cho những tộc tại Pendle. Vậy nên ông ta không được chứng kiến hay nghe thấy những gì có thể khiến ông ta nảy sinh dù chỉ là chút mảy may nghi ngờ.”
“Nhưng mà, dĩ nhiên, chúng ta sẽ không đâm đơn tố cáo về bất cứ trò phù thủy nào cả,” cha Stocks vừa nói vừa lôi từ trong áo thụng ra một mảnh giấy và giơ lên. “Cướp bóc và bắt cóc là những gì mà ngài Nowell sẽ hiểu. Ở đây ta có lời kể từ hai nhân chứng đã trông thấy anh trai con cùng gia đình bị mang đi qua Hộc Goldshaw trên đường đến tháp Malkin. Hôm qua ta đã thảo ra lời chứng của họ để họ đóng dấu xác nhận. Con biết đấy, không phải ai ở trong vùng Tam Giác Quỷ cũng đồng hội đồng thuyền với đám phù thủy hay lo sợ cho tính mạng của họ đâu. Nhưng ta đã hứa với họ rằng họ sẽ được giấu tên. Bằng không mạng sống của họ sẽ không đáng giá bằng một cọng rơm. Nhưng từng này cũng đã đủ khiến ngài Nowell ra tay hành động.”
Tôi không lấy làm vui vẻ gì với giải pháp vừa được kiến nghị. Thầy Trừ Tà cũng đã tỏ thái độ dè chừng rồi. Nhưng phải có gì đó được tiến hành mà tôi thì không thể nghĩ ra một kế hoạch thay thế nào khác.
Căn nhà nhỏ của cha Stocks có bốn phòng trên lầu nên có đủ chỗ tá túc cho ba người khách. Chúng tôi ngủ được vài giờ rồi thức dậy lúc hừng đông. Và rồi, sau bữa sáng với món thịt cừu nguội ngắt, Thầy Trừ Tà cùng Alice ở lại nhà trong khi tôi đi theo cha xứ xuôi về nam. Lần này chúng tôi theo lộ trình hướng tây, du hành cùng đồi Pendle ở bên tay trái chúng tôi.
“Read nằm ở phía nam Sabden đấy, Tom ạ,” cha xứ giảng giải, “nhưng dù chúng ta có đang đi về phía làng Bareleigh, đây là lối mà ta sẽ đi. Như thế an toàn hơn. Tối hôm đấy con thật may mắn khi đã đi xuyên qua trũng ấy mà vẫn còn toàn mạng…”
Tôi đang du hành mà không mang theo áo choàng lẫn trượng để khỏi thu hút ánh nhìn vào mình. Đây không những là cái nôi của phù thủy mà cả ngài Nowell cũng không tin vào pháp thuật phù thủy, nên chắc chắn ông ta cũng không dành nhiều thời giờ cho mấy kẻ trừ tà hay chân học việc đâu. Tôi cũng chẳng mang theo thứ vũ khí nào có thể dùng để chống lại thế lực bóng tối. Tôi tin tưởng cha Stocks sẽ mang chúng tôi đến Read an toàn rồi sẽ quay về trước lúc hoàng hôn. Vả lại, theo như cha đã giải thích, thì chúng tôi đang đi trên phía sườn đồi an toàn hơn kia mà.
Sau chừng một giờ đồng hồ, chúng tôi dừng lại làm thỏa cơn khát với nước lạnh từ dòng suối. Sau khi uống đầy nước, cha Stocks tháo vớ tháo ủng ra, ngồi xuống bên bờ suối ngâm đôi chân trần vào dòng nước cuồn cuộn chảy.
“Thoải mái quá đi mất,” cha nói và nở nụ cười.
Tôi gật đầu mỉm cười đáp lại. Tôi ngồi gần bờ suối nhưng chẳng buồn tháo ủng ra. Hôm ấy là một buổi sáng dễ chịu: mặt trời đang dần xua đi cái lạnh trong không khí, còn bầu trời không gợn chút mây. Chúng tôi đang ngồi tại nơi khung cảnh đẹp như tranh vẽ và những rặng cây gần bên cũng không chắn mất quang cảnh đồi Pendle. Hôm nay ngọn đồi trông khác lạ, có vẻ như thân thiện hơn, trên sườn đồi xanh ngắt điểm xuyết những đốm trăng trắng, một số đốm lại còn đang dịch chuyển.
“Trên này nhiều cừu ghê cơ,” tôi vừa lên tiếng vừa hất đầu về phía ngọn đồi. Gần đấy hơn, bên kia con suối, cả cánh đồng tràn ngập cừu lẫn tiếng be be, đa phần là các chú cừu non trưởng thành lớn phổng sớm bị tách khỏi mẹ. Nghe có vẻ tàn nhẫn thật, nhưng nghề nông là một sinh kế và đám cừu này sẽ có kết cục trong hàng thịt mà thôi.
“Phải,” cha xứ đáp. “Đây nhất định là vùng chăn nuôi cừu, ngành mang lại của cải cho xứ Pendle này đấy. Chúng tôi sản xuất ra loại thịt cừu ngon nhất trong Hạt này và có những nhà làm ăn rất phát đạt. Nhưng cũng phải nói lại, vẫn còn sự nghèo đói đối trọng lại với sự hưng thịnh này. Rất nhiều người kiếm được miếng bỏ bụng nhờ ăn xin. Một trong những việc khiến ta thấy thật sự thỏa nguyện khi làm cha xứ là cố giảm bớt sự thiếu thốn ấy. Thật ra là ta biến thành người đi xin. Ta xin các giáo dân bỏ tiền vào đĩa lạc quyên. Ta xin áo quần và thực phẩm. Rồi ta phân phát lại cho kẻ nghèo. Việc rất đáng công đáng sức.”
“Đáng công sức hơn là làm kẻ trừ tà ư, thưa cha?” tôi hỏi.
Cha Stocks mỉm cười. “Tom này, đối với ta, câu trả lời ắt là vậy. Nhưng mỗi người đều phải đi theo con đường của riêng họ …”
“Điều gì đã khiến cha quyết định rằng làm cha xứ có ý nghĩa hơn làm kẻ trừ tà ạ?” tôi hỏi.
Cha Stocks nhìn tôi chăm chăm một đỗi, đoạn ông cau mày. Hình như cha sẽ không trả lời câu hỏi ấy và tôi e là sự thẳng thừng của mình đã khiến cha phật lòng. Nhưng rốt cuộc rồi cha cũng trả lời, có vẻ như ông cẩn thận lựa chọn từng chữ một.
“Chắc là vào khoảnh khắc khi ta nhận ra rằng mọi thứ đang trở nên đen tối đến thế nào. Ta đã chứng kiến John Gregory phải lao động cật lực ra sao, phải đương đầu với hết hiểm họa này đến nguy cơ kia. Liên tục phải liều mạng, ấy vậy mà chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề thực thụ – là vấn đề về quỷ dữ ở ngay chính trong tâm thế giới, thật bao la đến nỗi chỉ mỗi việc đương đầu không thôi cũng đã không xuể. Nhân loại đáng thương như chúng ta đây cần sự giúp đỡ từ một quyền năng cao hơn. Chúng ta cần sự giúp đỡ từ Chúa…”
“Vậy cha tuyệt đối tin vào Chúa ư?” tôi hỏi. “Không chút nghi ngờ nào à?”
“Ồ, quả vậy đấy Tom ạ. Ta tin vào Chúa trời và không mảy may nghi ngờ gì cả. Ta cũng tin vào sức mạnh của lời khấn nguyện. Vả chăng, nghề nghiệp của ta cho ta cơ hội để giúp kẻ khác. Đấy là lý do vì sao ta trở thành cha xứ.”
Tôi gật gù rồi mỉm cười. Đây là một câu trả lời quá đầy đủ từ một con người tốt bụng. Tôi chưa quen biết cha Stocks được lâu nhưng đã thấy thích ông rồi, và tôi có thể hiểu vì sao Thầy Trừ Tà gọi ông ấy là bạn.
Chúng tôi tiếp tục chuyến hành trình, cuối cùng, chúng tôi đến được một cánh cổng; bên trong cổng ấy là những vạt cỏ mênh mông xanh ngắt với những chú hươu hung nhẩn nha gặm cỏ. Mấy lùm cây trồng rải rác trên vạt cỏ, dường như là được đặt vào những vị trí để làm cho vui mắt.
“Ta đến nơi rồi,” cha Stocks bảo. “Đây là công viên Read.”
“Nhưng ngôi nhà lớn ở đâu vậy ạ?” tôi hỏi. Chẳng thấy bóng dáng bất cứ tòa nhà nào làm tôi thắc mắc liệu tòa nhà có nằm khuất sau rặng cây nào đó chăng.
“Đây chỉ mới là ‘trảng hươu’ thôi Tom à – tên gọi khác của một công viên thả hươu ấy. Toàn bộ vùng đất này thuộc về điền trang Read. Phải đi thêm chập nữa chúng ta mới tới được gần dinh thự cùng sân vườn bên trong. Và đây là nơi cư ngụ thích hợp với một người một thời từng là Chánh án Tối cao của toàn Hạt.”
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương