We read to know we are not alone.

C.S. Lewis

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 24
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1563 / 27
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11 - Phiên Xử Thầy Trừ Tà
ánh cửa cọt kẹt mở ra và ánh nến tràn ngập căn phòng. Tôi nhẹ cả người khi thấy đó là ông Andrew.
“Ta nghĩ sẽ tìm ra con dưới này mà,” ông nói. Ông mang theo một gói đồ nhỏ. Vừa bỏ túi đồ xuống và đặt cây nến cạnh tôi, ông hất đầu về phía Alice, lúc này vẫn đang nằm quay lưng về phía chúng tôi và say ngủ, mặt tựa lên hai bàn tay.
“Thế còn đây là ai vậy?” ông hỏi.
“Cô ấy từng sống gần Chipenden ạ,” tôi đáp. “Tên cô ấy là Alice. Thầy Gregory không có đây. Bọn chúng đã mang thầy lên lầu trên để thẩm vấn.”
Ông Andrew buồn bã lắc đầu. “Huynh Peter đã nói thế rồi. Con không thể nào kém may mắn hơn thế nữa đâu. Chờ thêm nửa tiếng nữa hẳn John đã quay trở lại xà lim cùng những người khác. Còn với tình hình này, mười một người trốn thoát, nhưng chẳng bao lâu sau thì năm người bị bắt trở lại. Lại có thêm tin xấu nữa đây. Tay chân của tên Phán Quan đã bắt lấy huynh Peter ngay trên phố sau khi ông ấy rời khỏi cửa tiệm của ta. Ta đứng tại cửa sổ tầng trên nên trông thấy. Như vậy nghĩa là chỗ của ta trong thị trấn này coi như tiêu rồi. Chắc tiếp theo bọn chúng sẽ đến bắt ta nhưng ta sẽ chẳng luẩn quẩn lại đây để trả lời tra khảo làm gì đâu. Ta vừa cho khóa cửa tiệm. Dụng cụ của ta đã chất hết lên xe và ta sẽ đi xuống hướng Nam, quay trở về Adlington, nơi ta từng làm việc.”
“Cháu xin lỗi, bác Andrew ạ.”
“Thôi, lỗi phải gì. Ai lại không gắng sức giúp đỡ em ruột mình cơ chứ? Vả lại với ta như thế cũng không tồi gì đâu. Cửa hàng chỉ là được thuê lại thôi và nghề của ta là ở đầu ngón tay ta đây này. Ta sẽ luôn tìm được việc làm mà. Đây này,” ông vừa nói vừa mở gói đồ ra, “ta mang đến chút đồ ăn cho con đây.”
“Mấy giờ rồi thế ạ?” tôi hỏi.
“Khoảng vài ba tiếng trước bình minh. Ta đánh liều lắm mới đến đây. Sau vụ chộn rộn vừa rồi cả nửa thị trấn đã tỉnh giấc. Rất nhiều người đang tề tựu tại tòa đại sảnh ở đường Fishergate. Sau những gì xảy ra tối qua, tên Phán Quan sẽ tổ chức một phiên tòa phán xét chóng vánh những tù nhân mà hắn còn giữ lại được.”
“Tại sao hắn không chờ đến ban ngày ban mặt chứ ạ?” tôi hỏi.
“Khi đó thì sẽ còn nhiều người hơn nữa đến dự,” ông Andrew đáp. “Hắn muốn xử cho xong trước khi có thêm bất cứ sự chống đối thực sự nào. Vài người dân trong thị trấn phản đối những việc hắn đang làm. Còn về vụ hỏa thiêu sẽ là vào tối nay, sau khi trời tối, trên ngọn đồi trọc ở Wortham, mạn Nam bờ sông. Tên Phán Quan sẽ mang theo rất nhiều binh lính được vũ trang phòng trường hợp có rắc rối xảy đến. Vì thế nếu con còn tỉnh táo, con nên ở đây đến đêm rồi lên đường bỏ đi cho rồi.”
Trước khi ông Andrew kịp mở gói đồ ra, Alice đã xoay người về phía chúng tôi và ngồi dậy. Có lẽ cô gái ngửi được mùi thức ăn, hay là nãy giờ đã nghe hết chuyện nhưng chỉ giả vờ như đang ngủ thôi. Có vài miếng giăm bông, bánh mì mới ra lò và hai quả cà chua to mọng. Chẳng nói được lời cảm ơn nào với ông Andrew, Alice lao vào ăn ngay, và tôi chỉ do dự một tí thôi rồi cũng hòa vào cùng cô ấy. Tôi đang rất đói và dường như lúc này chẳng có lý gì phải nhịn đói nữa.
“Thôi ta đi đây,” ông Andrew bảo. “Tội nghiệp cho John, nhưng giờ đây chúng ta chẳng thể làm gì nữa rồi.”
“Chẳng đáng cho chúng ta thử giải cứu thầy ấy một lần nữa ư?” tôi hỏi.
“Không, con đã làm quá nhiều rồi. Đi đến bất cứ đâu gần với nơi xử án cũng đều quá nguy hiểm. Và chóng thôi, dưới sự canh gác của lính có vũ trang, John tội nghiệp và những người còn lại sẽ xuất hiện, sau đó bị giải đến Wortham để chịu tội thiêu sống cùng những kẻ bất hạnh đáng thương kia.”
“Nhưng còn về lời nguyền thì sao ạ?” tôi nói. “Chính bác đã bảo là thầy ấy bị nguyền sẽ phải chết một mình dưới lòng đất, chứ đâu phải trên ngọn đồi trọc đâu cơ chứ.”
“Ôi, cái lời nguyền ấy. Ta cũng như John thôi, chẳng tin vào ba thứ ấy đâu. Ta chỉ là hết cách ngăn chú ấy truy đuổi tên Quỷ Độc khi mà tên Phán Quan đang ở trong thị trấn. Không, ta e là số phận của em trai ta đã bị định đoạt rồi nên con hãy bỏ trốn đi. Có lần John bảo ta là có một thầy trừ tà đang hoạt động đâu đó gần Caster. Anh ta chịu trách nhiệm từ vùng biên giới Hạt cho đến tận phương Bắc. Con cứ nhắc đến tên của John đi, biết đâu anh ta lại thu nhận con vào. Anh ta từng là chân học việc của John đấy.”
Gật đầu một cái xong, ông Andrew quay mình bước đi. “Ta sẽ để cây nến lại cho con. Chúc lên đường may mắn nhé. Và khi nào cần một thợ khóa khéo tay, con biết phải đến đâu rồi đấy.”
Dứt lời, ông cất bước rời đi. Tôi lắng nghe tiếng bước chân ông leo lên các bậc thang của hầm rượu và đóng cửa hậu lại. Một đỗi sau, Alice đang liếm hết nước quả cà chua vương trên những ngón tay. Chúng tôi đã ăn hết mọi thứ – cả vụn bánh mì cũng chẳng còn.
“Alice này,” tôi bảo, “tớ muốn đi đến phiên xử án. Chắc sẽ có cơ hội tớ làm được gì đó để giúp Thầy Trừ Tà. Cậu đi cùng tớ chứ?”
Mắt Alice mở lớn. “Làm gì đó à? Cậu đã nghe ông ấy nói rồi đấy. Chẳng thể làm được gì nữa đâu, Tom à! Làm sao cậu chống lại được đám lính có binh khí chứ? Không đâu, tỉnh trí chút đi. Không đáng để mạo hiểm như thế, đúng không? Với lại, sao tớ lại phải giúp cơ chứ? Lão Gregory ấy sẽ không làm chuyện tương tự cho tớ đâu. Lão sẽ để mặc tớ bị thiêu chết, thật đấy!”
Tôi chẳng biết phải đối đáp lại như thế nào. Lời cô ấy cũng có phần đúng đấy chứ. Tôi từng hỏi Thầy Trừ Tà về việc giúp Alice và thầy đã từ chối. Thế là, thở dài sườn sượt, tôi đứng dậy.
“Đằng nào tớ cũng sẽ đi,” tôi bảo với Alice.
“Đừng Tom, đừng để tớ ở dưới này. Khi còn có con ma ấy nữa...”
“Tớ tưởng cậu không sợ cơ mà.”
“Tớ đâu có sợ. Nhưng lần rồi lúc thiếp đi tớ cảm thấy như nó bắt đầu siết lấy cổ tớ. Nếu cậu không có đây, chắc nó sẽ còn làm nhiều trò hơn nữa.”
“Vậy thì đi cùng tớ nào. Sẽ không nguy hiểm đến thế đâu vì trời sẽ vẫn còn tối. Với lại nơi ẩn náu tốt nhất là giữa đám đông người mà. Đi nào, làm ơn đấy. Cậu thấy sao?”
“Có kế hoạch gì không?” Alice hỏi. “Có điều gì cậu chưa nói cho tớ biết không?”
Tôi lắc đầu.
“Tớ cũng nghĩ thế,” cô ấy đáp.
“Alice này, tớ chỉ đi xem sao thôi mà. Nếu tớ không thể giúp gì được, chúng ta sẽ rời đi ngay. Nhưng tớ sẽ không bao giờ tha thứ cho mình nếu tớ ít nhất còn không cố thử.”
Ngập ngừng miễn cưỡng, Alice đứng dậy. “Tớ sẽ đến xem qua thôi đấy,” cô nói. “Nhưng cậu phải hứa với tớ là nếu tình hình quá nguy hiểm thì chúng ta phải quay về ngay lập tức. Tớ rành tên Phán Quan hơn cậu. Tin tớ đi, chúng ta không nên gây rắc rối ngay trước mũi hắn.”
“Tớ hứa,” tôi đáp.
Để chiếc túi và thanh trượng của Thầy Trừ Tà lại hầm rượu, chúng tôi khởi hành đến Fishergate, nơi phiên xử diễn ra.
Ông Andrew nói là nửa thị trấn này đã thức giấc. Nói thế hơi quá, nhưng vào lúc sáng sớm như thế này đúng là có thật nhiều ánh nến hấp háy đằng sau những màn cửa và cũng thật nhiều người dường như đang vội vã băng qua những con phố tối thui cùng hướng với chúng tôi.
Tôi gần như cho là chúng tôi sẽ không đến được đâu gần tòa nhà cả, rằng đám lính gác sẽ xếp dọc dài ở bên ngoài, nhưng ngạc nhiên sao khi tôi chẳng thấy thuộc hạ nào của tay Phán Quan sất. Những cánh cổng gỗ to lớn rộng mở và một đám đông đứng đầy lối vào cửa, tràn cả ra đường phố bên ngoài, như thể không còn đủ chỗ cho mọi người đứng hết vào trong vậy.
Tôi thận trọng dẫn đường tiến tới, lòng mừng vì bóng đêm vẫn còn đó. Khi đến được phía sau đám đông rồi, tôi mới nhận ra cũng không đến nỗi ken chặt người như thoạt đầu có vẻ là thế. Trong sảnh đường, cả bầu không khí nồng gắt mùi hôi thối khiến người ta buồn nôn. Sảnh chỉ là một căn phòng lớn có nền lát đá, với mạt cưa được rải lưa thưa khắp mặt. Tôi không nhìn cặn kẽ qua những lưng người trong đám đông được vì đa phần họ đều cao hơn tôi, nhưng dường như phía trước có một khoảng rộng mà không ai muốn chen vào. Tôi chộp lấy tay Alice rồi len qua mọi người, vừa đi vừa kéo cô ấy theo bước mình.
Phía sau sảnh đường vẫn còn tối om nhưng phía trước đã được chiếu sáng bằng những ngọn đuốc lớn tại mỗi góc khán đài. Tên Phán Quan đang đứng trước đấy nhìn xuống. Hắn đang nói gì đấy nhưng giọng hắn nghe nghèn nghẹt.
Tôi nhìn khắp những người đứng quanh mình và trông rõ bao cung bậc cảm xúc trên gương mặt họ: giận dữ, buồn đau, cay đắng và buông xuôi. Có vài người tỏ vẻ căm ghét thấy rõ. Đám đông này chắc chủ yếu bao gồm những người chống đối việc làm của tên Phán Quan. Một vài người trong số họ biết đâu còn là thân bằng cố hữu của những kẻ bị buộc tội nữa ấy chứ. Trong một thoáng, suy nghĩ ấy tiếp cho tôi hy vọng rằng người ta sẽ cố làm một cuộc giải cứu nào đó.
Nhưng rồi hy vọng của tôi tiêu tan: tôi hiểu ra vì sao không có ai muốn tiến lên phía trước. Bên dưới khán đài là năm băng ghế dài với các cha xứ đang ngồi quay lưng lại, nhưng đằng sau bọn họ đối diện với chúng tôi là một hàng kép những người đàn ông mang khí giới với vẻ mặt hầm hầm. Một vài tên đang khoanh tay, những tên khác đặt tay hờ lên chuôi kiếm như thể chúng rất nóng lòng muốn tuốt kiếm ra khỏi vỏ. Không ai muốn đến gần bọn chúng cả.
Tôi liếc lên trần nhà và thấy một ban công cao thật cao chạy dọc hai bên sảnh đường; bao nhiêu khuôn mặt đang săm soi nhìn xuống, những hình ô van trắng xanh từ dưới đất trông lên thì hình nào cũng như hình nào. Trên đấy phải là nơi an toàn nhất và chắc chắn có được tầm quan sát tốt hơn. Phía tay trái tôi có những bậc thang nên tôi kéo tay Alice theo hướng ấy. Một loáng sau, chúng tôi đã di chuyển dọc theo ban công rộng lớn.
Ban công cũng không đông lắm và chúng tôi nhanh chóng tìm được một chỗ tựa vào hàng lan can khoảng giữa những cánh cửa và khán đài. Trong không khí vẫn là mùi hôi hôi tanh tởm ấy, giờ còn nồng nặc hơn khi chúng tôi đang đứng ở nền lát đá bên dưới. Thốt nhiên tôi nhận ra ấy là mùi gì. Gần như chắc chắn sảnh đường này thường được dùng làm chợ mua bán thịt. Mùi ấy là mùi máu.
Dưới khán đài không chỉ có mình tên Phán Quan. Ở phía sau, trong chỗ tối, là một nhóm lính gác đang bao quanh những tù nhân chờ tới phiên xét xử, nhưng ngay sau lưng tên Phán Quan là hai gã lính đang túm chặt trong tay một tù nhân đang khóc than. Là một cô gái vóc người dong dỏng có mái tóc đen dài. Cô ấy mặc một chiếc váy rách tả tơi và đi chân không.
“Là Maggie đấy!” Alice rít lên bên tai tôi. “Là cô gái cứ bị bọn chúng chọc kim vào người ấy. Tội nghiệp Maggie quá, thật chẳng công bằng gì cả! Tớ nghĩ là cô ấy đã trốn đi rồi chứ...”
Ở trên cao này âm thanh được truyền đi rõ hơn nên tôi có thể nghe lấy từng lời mà tên Phán Quan nói. “Chính miệng ả thừa nhận mình có tội!” hắn rống lên, giọng vừa to vừa ngạo nghễ. “Ả đã thú nhận tất cả và dấu ấn của Quỷ được tìm thấy trên da thịt ả. Ta phán tội cho ả bị trói vào giàn hỏa thiêu và thiêu sống. Và cầu mong Chúa Trời rủ lòng thương xót cho linh hồn của ả.”
Maggie bắt đầu nấc còn to hơn, nhưng một trong hai tên đang giữ lấy cô gái lại giằng lấy tóc cô và cô bị lôi xềnh xệch về lối cửa đi ra phía sau khán đài. Cô biến mất qua lối ấy chưa được bao lâu, một tù nhân khác mặc áo thụng đen với hai tay bị trói quặt sau lưng đã bị đẩy ra về phía quầng sáng của ánh đuốc. Trong một thoáng tôi tưởng mình nhìn lầm nhưng rõ là không phải.
Là huynh Peter. Tôi nhận ra ông ấy nhờ lớp tóc bạc mỏng tang rủ xuống cái đầu hói cùng nét gù gù của hai vai và tấm lưng. Nhưng khuôn mặt của ông đã bị đánh cho bầm dập và ròng ròng những máu khiến tôi khó mà nhận ra được. Mũi ông đã gãy, bị bẹp dí vào trong mặt, còn một mắt phải nhắm chặt thành một khe màu đỏ sưng vêu.
Trông thấy ông trong tình cảnh như thế làm tôi thấy kinh khủng quá. Tất cả là do tôi. Trước hết là vì ông ấy đã để tôi trốn thoát; sau đấy ông mách cho tôi biết cách lẻn vào xà lim để giải cứu Thầy Trừ Tà và Alice. Chịu bao khổ hình tra tấn như thế, hẳn là ông đã khai hết với bọn chúng rồi. Tất cả là lỗi do tôi, khiến tôi cảm thấy tội lỗi mình chất chồng.
“Tên này đã từng là một tu huynh, một đầy tớ trung thành của Giáo hội!” tên Phán Quan lại gào lên. “Nhưng giờ hãy nhìn vào hắn mà xem! Hãy nhìn vào tên phản bội này! Hắn là kẻ đã giúp đỡ cho kẻ thù của chúng ta và hiệp minh với những thế lực bóng tối. Chúng ta đã lấy được lời thú tội do chính tay hắn viết ra. Xem đây này!” hắn quát lên, tay giơ cao một mảnh giấy cho mọi người cùng thấy.
Chẳng ai có cơ may đọc được mảnh giấy ấy cả – mảnh giấy ấy nói gì mà lại không được. Cho dù đấy là lời thú tội đi nữa, chỉ cần nhìn qua mặt huynh Peter một lần là tôi đã biết huynh ấy bị đánh đập mới viết ra lời ấy. Thế không công bằng. Phiên tòa này chẳng có công đạo gì cả. Thầy Trừ Tà từng bảo tôi rằng những người bị đem ra xét xử trong lâu đài ở Caster, ít nhất họ còn được nghe luận tội – một quan tòa, một công tố viên và một người nào đó biện hộ cho họ. Nhưng ở đây thì tên Phán Quan tự mình làm tất thảy mọi chuyện!
“Hắn là kẻ có tội! Không còn gì phải bàn cãi,” hắn nói tiếp. “Do đó ta phán hắn bị đem xuống bỏ lại trong hầm mộ. Và cầu mong Chúa Trời rủ lòng thương cho linh hồn của hắn!”
Từ đám đông bỗng rộ lên tiếng há hốc kinh hoàng, nhưng lớn tiếng nhất là từ những cha xứ đang ngồi trên hàng ghế trước. Họ biết chính xác số phận của huynh Peter sẽ như thế nào. Ông ấy sẽ bị Quỷ Độc chẹt đến chết.
Huynh Peter cố nói gì đấy, nhưng môi của ông đã sưng quá rồi. Một trong những tên lính gác còng đầu ông lại trong khi tên Phán Quan nở một nụ cười tàn nhẫn. Bọn chúng lôi ông ấy đi về phía cửa phía sau khán đài, và ông vừa bị lôi đi chưa được bao lâu thì một tù nhân khác đã được kéo vào từ chỗ tối. Tim tôi như muốn chùng xuống tận ủng. Tù nhân ấy là Thầy Trừ Tà.
Thoạt nhìn, ngoại trừ vài ba vết bầm trên mặt, dường như Thầy Trừ Tà không phải trải qua giai đoạn khắc nghiệt như huynh Peter phải chịu. Nhưng rồi tôi để ý thấy một điều còn lạnh gáy hơn. Thầy đang nheo nheo mắt trước ánh sáng của những ngọn đuốc và trông hoang mang ngơ ngác, đôi mắt xanh lục của thầy trống rỗng. Trông thầy như mất trí. Như thể trí nhớ thầy đã mất sạch và thầy không còn biết mình là ai. Tôi bắt đầu băn khoăn không biết thầy đã bị đánh đập tàn tệ đến mức nào.
“Trước mắt các người là John Gregory!” tên Phán Quan la lớn, giọng vang dội khắp các bức tường. “Một môn đồ của Ác quỷ, không hơn, người bao nhiêu năm nay đã tiến hành công việc tà ma của hắn trong khắp hạt này, chiếm đoạt tiền nong của những người dân cả tin khờ khạo. Nhưng liệu tên này có chịu công khai từ bỏ ý định hay không? Liệu hắn có chấp nhận tội lỗi của mình mà cầu xin được tha thứ hay không? Không, hắn rất cứng đầu và sẽ không chịu thú tội. Giờ chỉ có nhờ đến ngọn lửa thì may ra hắn mới được gột rửa và được ban cho hy vọng cứu rỗi. Nhưng hơn thế nữa, không bằng lòng với những trò tà đạo mà mình có thể làm, hắn còn huấn luyện cho những người khác và sẽ tiếp tục làm thế. Này Cha Cairns, yêu cầu cha đứng lên đưa ra lời chứng nào!”
Từ hàng ghế đầu tiên, một cha xứ bước vào vùng sáng của ánh đuốc và tiến gần hơn đến khán đài. Ông ta đang quay lưng về phía tôi nên tôi không thể nhìn rõ mặt, nhưng tôi nhìn thấy băng tay của ông ta và khi ông ta mở miệng thì đấy chính là giọng nói mà tôi đã nghe thấy trong buồng xưng tội.
“Thưa đức ngài Phán Quan, John Gregory có mang theo một tên học việc khi bọn chúng ghé đến thị trấn này, kẻ mà hắn đã làm cho băng hoại. Tên nó là Thomas Ward.”
Tôi nghe thấy Alice há hốc gây ra tiếng rõ to còn hai đầu gối tôi bắt đầu run rẩy. Đột nhiên tôi ý thức được tình hình thật nguy hiểm làm sao khi mình ở trong sảnh đường này, rất gần với tên Phán Quan và những thuộc hạ mang gươm mang giáo của hắn.
“Nhờ hồng ân của Chúa mà thằng bé rơi vào tay tôi,” Cha Cairns nói tiếp, “và, nếu không phải vì huynh Peter can thiệp vào, để cho thằng bé thoát khỏi công lý, thì hẳn tôi đã trao thằng bé cho ngài đây tra khảo. Nhưng chính tôi cũng có tra hỏi nó đấy, thưa đức ngài, và nhận thấy thằng bé này đã được tôi luyện cho chây ì trước tuổi và chẳng có cách nào thuyết phục được nó chỉ bằng lời lẽ đơn thuần. Mặc dù tôi đã cố gắng hết sức, nó vẫn không nhìn nhận những lỗi lầm của con đường nó chọn, và việc này chúng ta phải trách tội John Gregory, người đã không bằng lòng với việc chỉ mình hắn tác nghiệp trò tà ma của hắn, mà còn chủ động làm hỏng cả thế hệ trẻ. Theo như tôi được biết, có hơn hai chục tên học việc đã qua tay hắn đào tạo, một vài tên trong số đó giờ đây còn tiếp bước nối nghiệp và hoạt động riêng lẻ. Cứ như thế nên điều tà ma độc địa vẫn còn phát tán khắp Hạt như bệnh dịch.”
“Cảm ơn Cha. Cha có thể ngồi xuống. Chỉ riêng lời chứng của Cha cũng đủ để buộc tội tên John Gregory rồi đấy!”
Khi Cha Cairns ngồi xuống lại, Alice túm lấy cùi chỏ tay tôi. “Thôi nào,” cô thì thầm vào tai tôi, “ở lại đây nguy hiểm lắm!”
“Không, làm ơn mà,” tôi thì thầm đáp trả. “Nán lại thêm chút nữa thôi.”
Nghe thấy tên mình bị nhắc đến có làm tôi sợ thật, nhưng tôi muốn nán lại thêm vài phút để xem chuyện gì sẽ xảy ra cho thầy mình.
“Hỡi John Gregory, với mi thì chỉ có một loại hình phạt duy nhất!” tên Phán Quan gầm lên. “Mi sẽ bị trói lên giàn hỏa và bị thiêu chết. Ta sẽ cầu nguyện cho mi. Ta sẽ cầu nguyện rằng đau đớn sẽ dạy cho mi biết những lầm lạc trên con đường mi chọn. Ta sẽ cầu nguyện rằng mi biết cầu xin Chúa tha thứ để cho, khi thân xác mi đã thiêu rụi, linh hồn mi sẽ được cứu rỗi.”
Tên Phán Quan nhìn thầy trừng trừng khi hắn lầm rầm cầu nguyện, nhưng làm thế cũng chẳng khác gì hắn đang quát gào vào vách đá. Sâu trong mắt Thầy Trừ Tà chẳng có vẻ thấu hiểu gì cả. Nói theo cách nào đấy điều này cũng là một may mắn vì dường như thầy chẳng hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Nhưng điều này cũng khiến tôi nhận thấy rằng, ngay cả khi tôi có cố gắng cứu được thầy đi nữa, có thể thầy sẽ chẳng bao giờ trở lại như xưa.
Một cục nghẹn dâng lên trong họng tôi. Ngôi nhà của Thầy Trừ Tà đã trở thành nhà mới của tôi. Tôi nhớ đến những bài học, những lần đàm đạo với Thầy Trừ Tà và cả những thời khắc đáng sợ khi chúng tôi phải đương đầu với thế lực bóng tối. Tôi rồi sẽ nhớ tất thảy những chuyện ấy, và ý nghĩ rằng thầy tôi sẽ bị thiêu sống cho đến chết bắt đầu làm mắt tôi nhòa đi.
Mẹ tôi đã nói đúng. Thoạt đầu tôi từng ngại ngần không muốn trở thành chân học việc của Thầy Trừ Tà. Tôi sợ nỗi cô đơn. Nhưng mẹ đã bảo tôi rằng tôi sẽ có Thầy Trừ Tà để nói chuyện cùng; rằng mặc dù thầy là thầy tôi, nhưng dần dà thầy sẽ trở thành bạn tôi. Ơ, tôi không biết liệu cái phần ấy có xảy đến chưa, vì thầy vẫn luôn hà khắc hung dữ với tôi, nhưng tôi biết chắc mình sẽ nhớ đến thầy lắm.
Khi đám lính gác lôi thầy vào lối cửa, tôi gật đầu với Alice, và vẫn cúi gằm không nhìn thẳng vào mắt ai, tôi dẫn đường đi dọc theo ban công xuống cầu thang. Ngoài kia tôi có thể thấy bầu trời đang dần trở sáng. Chẳng mấy chốc nữa, chúng tôi sẽ không còn được bóng đêm bao phủ và biết đâu lại có ai đấy nhận ra chúng tôi. Những con phố bắt đầu tấp nập hơn rồi, và đám đông tụ tập bên ngoài sảnh đường đã nhân lên còn hơn gấp đôi từ khi chúng tôi bước vào trong ấy. Tôi len lỏi qua đám đông để có thể nhìn xuống một bên tòa nhà, về phía cánh cửa mà các tù nhân được mang ra mang vào.
Liếc qua một lần là tôi biết tình hình này vô vọng. Tôi không thể trông thấy bất cứ tù nhân nào, nhưng điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì đang có ít nhất là hai mươi tên lính gác đứng gần lối cửa. Chúng tôi có cơ may nào khi chống lại nhiều tên như thế chứ? Với cõi lòng trĩu nặng, tôi quay sang nhìn Alice. “Ta quay về nào,” tôi bảo. “Có ở đây nữa cũng vô ích.”
Tôi nóng lòng quay lại hầm rượu nên bước rất nhanh. Alice đi theo tôi mà không nói một lời.
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc