If you only read the books that everyone else is reading, you can only think what everyone else is thinking.

Haruki Murakami, Norwegian Wood

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 24
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1563 / 27
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9 - Hầm Mộ
u huynh Peter quay về làm phận sự của mình tại nhà thờ lớn trong khi chúng tôi ngồi chờ mặt trời lặn. Ông Andrew bảo tôi rằng lối tốt nhất để xuống khu hầm mộ là qua cửa hầm rượu của một ngôi nhà bỏ hoang gần với nhà thờ lớn; sau khi trời tối chúng tôi ít có khả năng bị phát hiện hơn.
Thời gian mỗi lúc mỗi trôi đi, tôi mỗi lúc một thêm lo lắng. Khi trò chuyện với huynh Peter và ông Andrew, tôi đã cố gắng ra giọng thật tự tin, nhưng quả thực Quỷ Độc làm tôi sợ chết khiếp. Tôi mải lục lọi trong túi của Thầy Trừ Tà, tìm lấy bất cứ thứ gì khả dĩ giúp ích được.
Tất nhiên, tôi đem theo sợi xích dài bằng bạc mà thầy dùng để trói phù thủy và quấn sợi xích ấy quanh eo mình, giấu dưới vạt áo. Nhưng tôi biết việc có khả năng quật xích quấn quanh cây cột gỗ là một lẽ, còn làm điều này với Quỷ Độc lại là lẽ hoàn toàn khác. Tiếp đến là muối và sắt. Sau khi chuyển hộp nhóm lửa lên túi áo khoác, tôi đổ đầy hai túi quần thụng của mình – muối vào túi bên phải, sắt vào túi bên trái. Hai thứ này trộn lại có tác dụng lên hầu như mọi thứ ám lấy bóng tối. Đấy là cách cuối cùng tôi đối phó với mụ phù thủy già, Mẹ Malkin.
Tôi không nghĩ hai thứ này lại đủ mạnh để tiêu diệt một kẻ quyền năng như Quỷ Độc; nếu mà có tác dụng như thế thì hẳn Thầy Trừ Tà lần trước đã xử lý hắn rồi, một lần dứt điểm. Tuy nhiên, lúc này tôi tuyệt vọng lắm rồi nên sẵn sàng thử mọi cách, và chỉ mang theo hai thứ ấy cùng sợi xích bạc cũng đã khiến tôi thấy vững dạ hơn. Dù sao đi nữa, lần này tôi có định tiêu diệt Quỷ Độc đâu nào, mà chỉ là để tránh né hắn để kịp giải thoát cho thầy tôi thôi.
Cuối cùng, với thanh trượng của Thầy Trừ Tà bên tay trái cùng túi đồ của thầy lẫn hai chiếc áo choàng bên tay phải, tôi đi theo ông Andrew qua những con phố tối om về hướng nhà thờ lớn. Trên xa kia, bầu trời đầy mây và không khí có mùi như thể cơn mưa chẳng xa đây là mấy. Tôi đang bắt đầu thấy ghét Priestown rồi, với những con phố hẹp trải đá cuội và những mảnh sân sau nhà có tường bao bọc. Tôi nhớ những rặng đồi đá và vùng không gian mở bao la. Giá như giờ này tôi đang ở Chipenden, trở lại những bài học thường ngày cùng Thầy Trừ Tà! Thật khó chấp nhận được rằng cuộc đời tôi ở nơi chốn ấy có thể đã chấm dứt mất rồi.
Khi chúng tôi tiến gần đến nhà thờ lớn, ông Andrew dẫn cả hai vào một trong những ngõ hẻm chật chội giữa phần hậu của những căn nhà phố liền kề. Ông dừng bước trước một cánh cửa, chậm rãi nhấc then cài lên và gật đầu ra hiệu cho tôi đi vào trong khu sân sau nho nhỏ. Sau khi đã cẩn thận đóng cửa lại, ông bước lên cửa sau của ngôi nhà, lúc này đang tối thui.
Một lát sau, ông xoay chìa khóa trong ổ và chúng tôi bước vào trong. Khóa cửa lại, ông đốt lên hai ngọn nến và trao cho tôi một ngọn.
“Căn nhà này bị bỏ hoang hơn cả hai mươi năm nay rồi,” ông bảo, “và nó cũng sẽ mãi như thế này thôi, vì như con nhận thấy rồi đấy, những người như em trai của ta không được thị trấn này chào đón. Căn nhà này đã bị một thứ ghê gớm gì đó ám, nên hầu như mọi người đều tránh xa nó ra, thậm chí đến chó cũng không đến gần.”
Ông Andrew nói đúng về việc đang có thứ gì đó ghê gớm trong ngôi nhà này. Thầy Trừ Tà đã khắc một ký hiệu vào mặt trong của cánh cửa hậu.
Đấy là ký tự Gamma trong tiếng Hy Lạp, được sử dụng để chỉ hoặc là một hồn ma hoặc vãn hồn. Chữ số bên phải là số 1, cho thấy đây là một hồn ma cấp độ I, đủ nguy hiểm để có thể khiến vài người loạn trí.
“Tên của hắn là Matty Barnes,” ông Andrew giảng giải, “và hắn ta đã sát hại bảy người trong trấn này, có thể còn nhiều hơn thế nữa. Hắn có hai bàn tay to tướng và thường dùng tay bóp cổ nạn nhân đến chết. Nạn nhân chủ yếu là phụ nữ. Người ta bảo hắn đem nạn nhân của mình về đây và siết chết họ ngay trong chính căn phòng này. Cuối cùng một trong những người phụ nữ ấy chống trả lại và dùng kim cặp tóc đâm vào mắt hắn. Hắn chết dần chết mòn do nhiễm trùng máu. Lúc xưa John định khuyên bảo hồn ma này chuyển đi nơi khác nhưng rồi chú ấy có kế hay hơn. Chú ấy luôn có dự định một ngày nào đó sẽ quay lại nơi này để đối phó với Quỷ Độc, và chú ấy muốn đảm bảo rằng lối đi xuống hầm mộ từ nơi này lúc nào cũng sẵn sàng. Không ai lại muốn mua một ngôi nhà bị ma ám cả.”
Thốt nhiên tôi cảm thấy không khí trở lạnh hơn và ngọn nến của chúng tôi bắt đầu chao đảo. Có thứ gì đấy đang ở gần và mỗi giây mỗi tiến đến sát hơn. Trước khi tôi kịp hít thêm một hơi nữa thì thứ ấy đã trờ tới. Thật ra tôi không thể trông thấy nó nhưng tôi cảm giác được có một thứ đang lẩn khuất trong bóng tối nơi góc kia phòng bếp; một thứ gì đó đang nhìn chằm chằm vào tôi.
Việc tôi thật sự không thể nhìn thấu càng làm cho mọi chuyện tệ hơn. Những hồn ma có uy lực mạnh mẽ nhất có thể chọn để cho mình được nhìn thấy hay không. Hồn ma của Matty Barnes đang phô diễn cho tôi thấy nó mạnh đến mức nào bằng cách luôn ẩn mình, đồng thời lại cho tôi biết nó vẫn đang theo dõi tôi. Còn nữa, tôi có thể cảm nhận được tà tính của nó. Nó đang mong cho chúng tôi gặp phải điều không may và chúng tôi phải biến khỏi nơi đây càng sớm càng tốt.
“Phải chăng ta đang tưởng tượng, hay là trong này bỗng nhiên trở lạnh hơn thế này?” ông Andrew hỏi.
“Trời lạnh quá ấy mà,” tôi đáp, chẳng đề cập gì đến hồn ma. Chẳng việc gì phải làm cho ông ấy thêm bồn chồn lo lắng hơn hiện giờ.
“Thế thì ta đi tiếp thôi nào,” ông vừa bảo vừa dẫn lối đến phía những bậc cấp đi xuống hầm rượu.
Ngôi nhà này là kiểu nhà liền kề điển hình trong các thị trấn của Hạt: hai phòng đơn ở tầng trên và hai phòng tầng dưới với một rầm thượng dưới mái chìa. Và cánh cửa dẫn xuống hầm rượu trong bếp ở ngay vị trí như căn nhà ở Horshaw, nơi mà đêm đầu tiên sau khi tôi trở thành chân học việc Thầy Trừ Tà từng mang tôi đến. Căn nhà đó bị một vãn hồn ám, và để thử tôi xem có đủ khả năng theo nghề này không, Thầy Trừ Tà đã lệnh cho tôi đi xuống hầm rượu vào lúc nửa đêm. Đấy là một đêm tôi sẽ không bao giờ quên được; giờ đây nghĩ lại vẫn còn khiến tôi rùng mình.
Ông Andrew cùng tôi bước qua các bậc cấp để xuống hầm rượu. Sàn nhà lát đá trống trơn, chỉ có một chồng chăn và thảm cũ. Trông chúng cũng khá khô ráo nhưng lại bốc mùi ẩm mốc. Ông Andrew đưa cho tôi cây nến của mình rồi nhanh nhẹn lôi chồng thảm sang bên, để lộ ra cách cửa sập bằng gỗ.
“Có nhiều lối để đi xuống hầm mộ,” ông nói, “nhưng đây là lối dễ dàng và ít rủi ro nhất. Con sẽ không bắt gặp mấy người dòm ngó quanh đây đâu.”
Ông nhấc cánh cửa sập lên và tôi có thể thấy những bậc cấp bằng đá dẫn vào bóng tối. Mùi đất ẩm và mùi mủn bốc lên. Ông Andrew lấy lại cây nến rồi bước xuống trước, bảo tôi đứng chờ một chốc. Rồi ông gọi với lên, “Xuống đi con, nhưng cứ để cửa mở. Có lẽ chúng ta phải vội thoát ra khỏi đây đấy!”
Tôi để chiếc túi của Thầy Trừ Tà cùng với hai chiếc áo choàng lại hầm rượu và đi theo ông ấy, tay vẫn nắm chặt thanh trượng của thầy mình. Khi xuống đến nơi, tôi ngạc nhiên thấy mình vẫn còn đứng trên mặt nền trải đá cuội chứ không phải là bùn nhão như mình tưởng. Khu hầm mộ cũng được lát nền tinh tươm như những con phố trên kia. Liệu có phải đã có rất nhiều người từng sinh sống tại nơi này trước khi thị trấn được dựng nên không; những người đã thờ phụng Quỷ Độc ấy? Nếu thế thì những con phố trải đá cuội của Priestown đã được sao chép lại từ những lối đi dưới hầm mộ này.
Ông Andrew khởi bước mà không nói lời nào, làm tôi có cảm giác ông ấy chỉ muốn làm cho xong việc thôi. Tôi biết mình cũng muốn thế.
Thoạt đầu đường hầm đủ rộng cho hai người bước đi bên cạnh nhau, nhưng trần hầm chèn đá lại quá thấp nên ông Andrew phải bước cúi đầu về phía trước. Chẳng trách sao Thầy Trừ Tà gọi những người nọ là “Người Lùn”. Những người xây nên khu vực này chắn chắn là nhỏ bé hơn người dân ở đây nhiều.
Chúng tôi đi chẳng được bao xa thì đường hầm bắt đầu thu hẹp lại; có đôi chỗ còn bị móp méo, như thể nhà thờ lớn và những tòa nhà trên xa kia đã ép căn hầm vẹo hẳn đi. Thỉnh thoảng những phiến đá cuội được dùng để lợp trần và lát tường đã bong tróc đi mất, để cho bùn lầy thấm qua và rỉ xuống tường. Xa xa vọng lại tiếng nước nhỏ giọt và tiếng ủng của chúng tôi vang vọng trên nền đá.
Không lâu sau đấy, lối đi còn bị thu hẹp hơn nữa. Tôi buộc phải đi sau lưng ông Andrew, và lối đi của chúng tôi chia thành hai nhánh đường hầm thậm chí còn nhỏ hơn. Sau khi rẽ sang nhánh bên trái, chúng tôi bước vào một ngách trên mé tường trái. Ông Andrew dừng lại giơ nến lên để soi sáng một phần bên trong. Tôi kinh hoàng nhìn trân trối vào những gì mình vừa thấy. Có hai dãy kệ đầy nhóc xương: những xương sọ với hốc mắt trống lổng, xương đùi, xương cánh tay, xương ngón tay và cả những loại xương tôi không nhìn ra được là xương gì, xương đủ kích cỡ, lẫn lộn vào nhau. Và đều là xương người!
“Hầm mộ có đầy những ngăn chứa xác như thế này,” ông Andrew bảo. “Đi lạc dưới này lúc trời tối chẳng sung sướng gì đâu.”
Mà xương ấy cũng nhỏ bé nữa, giống như xương con nít. Chắc đây là những gì còn sót lại của Người Lùn rồi.
Chúng tôi đi tiếp và chẳng mấy chốc tôi nghe thấy tiếng nước chảy xối xả phía trước. Chúng tôi quành qua góc cua và đây, ngay trước mặt là một dòng nước trông giống một con sông nhỏ hơn là một khe suối.
“Dòng nước này chảy dưới con phố chính trước mặt nhà thờ lớn,” ông Andrew vừa nói vừa chỉ tay về dòng nước đen ngòm, “và chúng ta phải băng qua đó...”
Những bậc đá, tổng cộng chín bậc cả thảy, trơn nhẵn và phẳng lì nhưng mỗi bậc đá chỉ chớm trồi khỏi mặt nước.
Một lần nữa ông Andrew lại dẫn đường đi trước, nhẹ nhàng thoải mái bước từ bậc đá này sang bậc kia. Qua đến bên kia rồi ông dừng bước, quay lại quan sát tôi hoàn tất phần bước của mình.
“Tối nay thế là còn dễ,” ông bảo, “nhưng sau khi trời mưa lớn thì mực nước sẽ dâng lên cao hơn những bậc đá nhiều. Đến lúc đó sẽ có mối nguy thật sự vì bị nước cuốn đi đấy.”
Chúng tôi bước tiếp và tiếng nước chảy nhỏ dần.
Ông Andrew đột ngột dừng phắt lại, nhìn qua vai ông tôi có thể thấy chúng tôi đã đến bên cánh cổng. Thật là một cánh cổng kỳ lạ làm sao! Tôi chưa từng thấy cánh cổng nào như thế này cả. Từ sàn lên đến tận trần hầm, từ vách này sang vách kia, một tấm lưới kim loại chắn toàn bộ đường hầm lại, ánh kim loại lóng lánh phản chiếu ánh sáng từ cây nến của ông Andrew. Có vẻ đây là một loại hợp kim chứa nhiều bạc và đã được một bác thợ rèn tay nghề cao chế tác. Mỗi một thanh chắn không phải được làm từ một ống kim loại đặc ruột mà là từ nhiều thanh mỏng hơn, xoắn lại với nhau theo hình xoắn ốc. Mẫu thiết kế rất phức tạp: cũng có thật nhiều hình dáng và hoa văn trang trí đấy, nhưng hễ tôi nhìn càng kỹ thì chúng dường như càng biến hóa khôn lường.
Ông Andrew quay lại đặt tay lên vai tôi. “Đến nơi rồi, đây là Cổng Bạc. Giờ con nghe này, chuyện này quan trọng đấy. Có thứ gì đang ở gần đây không? Thứ từ thế giới bóng tối ấy?”
“Cháu không nghĩ thế,” tôi đáp.
“Nói thế là chưa đủ đâu,” ông Andrew quát lại, giọng khe khắt. “Con phải biết cho chắc chứ! Nếu ta để cho sinh vật này sổng ra ngoài thì hắn sẽ hoành hành khắp Hạt, chứ không riêng gì các cha xứ không đâu.”
À, tôi không cảm thấy khí lạnh, thường là điều cảnh báo rằng những sinh vật bóng tối đang ở gần. Vậy nên đó là một dấu hiệu cho thấy mọi sự vẫn an toàn. Nhưng Thầy Trừ Tà đã luôn dạy tôi phải biết tin tưởng vào trực giác của mình, nên để chắc ăn gấp đôi tôi liền hít một hơi thật sâu và tập trung cao độ.
Chẳng có gì. Tôi không cảm nhận được gì cả.
“Không có gì đâu ạ,” tôi bảo ông Andrew.
“Con chắc không? Thật sự chắc chứ?”
“Chắc ạ.”
Đột nhiên ông Andrew quỳ thụp xuống cho tay vào túi quần thụng. Trên tấm màn lưới sắt có một khung cửa sổ uốn cong nhưng ổ khóa bé xíu của nó lại nằm sát đất và đấy là lý do vì sao ông Andrew phải cúi thấp đến thế. Ông thật cẩn thận tra chiếc chìa bé nhất vào ổ khóa. Tôi nhớ đến chiếc chìa to tướng treo trên tường trong xưởng khóa nhà ông. Hẳn bạn sẽ cho rằng chìa càng to càng quan trọng chứ gì, nhưng ở đây thì ngược lại mới đúng. Có thứ gì lại quan trọng hơn chiếc chìa tí xíu ông Andrew đang cầm trên tay kia chứ? Chiếc chìa đã giữ cho toàn Hạt này được an toàn khỏi tay Quỷ Độc.
Dường như ông Andrew phải chật vật lắm và cứ chỉnh tới chỉnh lui chiếc chìa mãi. Cuối cùng chiếc chìa cũng xoay và ông Andrew đẩy cửa mở ra rồi đứng dậy.
“Vẫn còn muốn làm việc này chứ?” ông hỏi.
Tôi gật đầu rồi quỳ xuống, đẩy thanh trượng qua cánh cửa mở rồi đi theo đấy, bò trên hai tay hai chân. Ngay lập tức ông Andrew khóa trái cửa sau lưng tôi và nhét chiếc chìa qua tấm lưới sắt. Tôi cất chìa vào bên túi quần bên trái, ém nó xuống mớ bột sắt.
“Chúc may mắn,” ông Andrew bảo. “Ta sẽ quay lại hầm rượu và chờ trong một tiếng phòng trường hợp vì lý do nào đấy mà con quay lại bằng đường này. Nếu con không xuất hiện thì ta sẽ trở về nhà. Ước gì ta có thể giúp đỡ được nhiều hơn. Con là cậu bé gan dạ đấy Tom à. Ta thực lòng mong mình có đủ can đảm để đi cùng con đấy.”
Tôi cảm ơn ông Andrew rồi tay trái cầm trượng, tay phải cầm nến, một mình dấn bước vào bóng tối. Loáng sau, nỗi kinh hoàng tột độ về những gì mình đang đảm nhiệm đè nghẹt lấy tôi. Tôi có điên không đây? Giờ đây tôi đang ở trong hang ổ của Quỷ Độc và hắn có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Nãy giờ tôi đang nghĩ gì thế nhỉ? Biết đâu hắn lại biết là tôi đang có mặt ở đây rồi ấy chứ!
Nhưng tôi hít vào thật sâu và tự trấn an mình với suy nghĩ rằng vì Quỷ Độc đã không nhào đến Cổng Bạc khi ông Andrew mở khóa, nghĩa là hắn không thể điều gì cũng tỏ tường. Và nếu khu hầm mộ này chằng chịt trùng trùng như người ta vẫn bảo, thì ngay lúc này đây có thể Quỷ Độc đang ở xa hàng bao nhiêu dặm. Nhưng thôi, tôi còn có thể làm gì khác hơn là phải tiếp tục bước tới chứ? Tính mạng của Thầy Trừ Tà lẫn của Alice đều tùy thuộc vào những gì tôi hành động.
Bước được khoảng một phút, tôi đến nơi đường hầm rẽ làm hai nhánh. Nhớ kỹ những gì huynh Peter đã chỉ cho mình, tôi chọn đi theo nhánh bên trái. Không khí xung quanh trở lạnh hơn và trực giác mách bảo rằng tôi không còn cô độc ở đây nữa. Xa xa phía trước, bên ngoài phạm vi ánh nến có thể rọi tới, thật nhiều hình thù dạ quang, hư ảo, nhỏ bé lượn quanh như những con dơi, vụt ra vụt vào những ngăn chứa xác dọc theo bức tường của đường hầm. Khi tôi tiến đến gần thì chúng lại biến mất. Chúng không đến thật gần tôi nhưng tôi biết chắc chúng là hồn ma của những Người Lùn. Những hồn ma này chẳng làm tôi bận tâm mấy; tôi chỉ không thể gạt được Quỷ Độc ra khỏi tâm trí mà thôi.
Tôi bước đến khúc quanh, và khi quành theo, rẽ sang hướng tay trái, tôi cảm nhận dưới chân mình có gì đấy khiến tôi sém chút trượt té. Tôi vừa giẫm lên một thứ mềm mềm dinh dính.
Tôi lùi lại, nhấc nến lên để nhìn cho rõ. Những gì tôi vừa nhìn ra làm hai đầu gối tôi lẩy bẩy và cây nến lập cập trên bàn tay run rẩy của tôi. Là một con mèo chết. Nhưng thứ làm tôi lo không phải là vì con mèo đã chết; mà là cái cách nó chết như thế nào.
Rõ ràng con mèo đã lần xuống hầm mộ để săn chuột nhưng lại gặp phải kết cuộc thảm khốc. Nó đang nằm ẹp bụng xuống đất, hai mắt lồi hẳn ra ngoài. Con vật tội nghiệp đã bị ép cho bẹp dí đến nỗi cả người nó chẳng nơi nào dày hơn một phân. Nó bị bẹp dúm dính xuống nền đá nhưng chiếc lưỡi thè ra ngoài vẫn còn lấp lánh nên chắc là nó đã chết chưa được lâu lắm. Tôi rùng mình hoảng sợ. Con mèo này đúng là bị “chẹt” rồi. Nếu tên Quỷ Độc tìm thấy tôi, chắc chắn rồi số phận tôi cũng sẽ như thế.
Tôi nhanh chóng bước đi, mừng vì mình đã bỏ lại cảnh tượng kinh khủng ấy sau lưng, và cuối cùng tôi cũng đến được dãy bậc cấp bằng đá dẫn lên cánh cửa gỗ. Nếu huynh Peter nói đúng thì đằng sau cánh cửa ấy là hầm rượu của nhà dòng.
Tôi leo lên những bậc cấp và sử dụng chìa khóa của Thầy Trừ Tà. Ngay sau đấy tôi liền đẩy được cánh cửa mở ra. Khi vào được trong hầm rượu rồi, tôi đóng cánh cửa sau lưng lại nhưng không khóa.
Hầm rượu này rất rộng, đầy những vại bia lớn và hàng dãy hàng dãy những giá chưng rượu rỉ sét bụi bặm chất toàn là chai, một số chai chắc hẳn đã ở đây từ lâu lắm rồi – chúng bị mạng nhện chăng đầy. Dưới này im lặng tuyệt đối, và trừ phi là có ai đó đang ẩn nấp mà quan sát tôi, bằng không thì nơi đây dường như tịnh không một bóng người. Đương nhiên là ngọn nến chỉ chiếu sáng được một khoảnh nhỏ xung quanh tôi, còn từ những vại bia gần nhất trở đi là bóng tối đen đặc có thể che giấu bất cứ thứ gì.
Trước khi rời khỏi nhà ông Andrew, huynh Peter đã bảo với tôi rằng các cha xứ chỉ xuống hầm rượu này mỗi tuần một lần để lấy rượu vang mà họ cần, và rằng hầu hết các cha đều chẳng muốn đi xuống hầm mộ làm gì bởi lẽ nơi ấy có Quỷ Độc. Nhưng huynh Peter không dám chắc lắm về thuộc hạ của tên Phán Quan: bọn chúng không phải là dân địa phương và chẳng hiểu biết gì nhiều nên không biết sợ. Không chỉ là thế; bọn họ tự tiện lấy bia uống và chắc chắn là sẽ không bằng lòng với chỉ một vại mà thôi.
Tôi thận trọng đi dọc hầm rượu, cứ khoảng mỗi mười sải bước thì dừng lại nghe ngóng. Rốt cuộc tôi cũng nhìn thấy cánh cửa dẫn ra hành lang và ngay đấy, trên trần hầm bên trái, ngay sát trên tường, là một cửa sập bằng gỗ to lớn. Ở nhà chúng tôi cũng có cánh cửa sập tương tự. Nông trại của gia đình tôi từng có thời được gọi là Nông trại Nhà Ủ Bia vì nơi ấy cung cấp bia cho những nông trại và tửu quán lân cận. Như lời huynh Peter đã giải thích, cánh cửa sập này được dùng để mang các thùng vại và sọt bia ra vào hầm rượu mà không phải nhọc công thông qua nhà dòng. Và huynh ấy cũng nói phải về việc lối cửa sập này sẽ là lối thoát dễ dàng nhất. Nếu ra theo lối này thì rủi ro là có khả năng tôi sẽ bị nhìn thấy, nhưng còn quay ngược trở lại phía Cổng Bạc nghĩa là chắc chắn phải đối mặt với Quỷ Độc, với lại sau khi bị bắt giam, Thầy Trừ Tà hẳn sẽ không còn đủ sức đối phó với hắn. Mà đâu chỉ có thế, còn phải tính đến lời nguyền của Thầy Trừ Tà nữa chứ. Dù cho thầy có tin hay không thì cũng không đáng để thách thức số phận làm gì.
Có vài vại bia to dựng ngay bên dưới cửa sập. Tôi đặt cây nến lên một vại bia và dựa thanh trượng vào một bên, leo lên một vại bia khác và với được tới ổ khóa, ổ này được lắp vào ngay trong cánh cửa sập bằng gỗ để người ta có thể mở được cửa từ bên trong lẫn bên ngoài. Ổ khóa cũng khá đơn giản và chiếc chìa của Thầy Trừ Tà lại phát huy tác dụng, nhưng tạm thời lúc này tôi để cho cánh cửa sập đóng lại, phòng trường hợp ai đó bên trên lại nhìn thấy.
Tôi mở khóa cửa dẫn ra hành lang cũng dễ dàng chẳng kém, chầm chậm xoay chìa khóa để không phải gây ra tiếng động nào. Việc này khiến tôi nhận ra Thầy Trừ Tà đã may mắn xiết bao khi có một người anh trai làm thợ khóa.
Tiếp đến, tôi đẩy cửa mở để bước ra một hành lang lát đá hẹp và dài. Hàng lang vắng lặng, nhưng khoảng trước đấy hai mươi bước về phía tay phải, tôi có thể nhìn thấy ánh đuốc bập bùng treo trên mắc sát tường phía trên cánh cửa đang đóng kín. Đấy phải là phòng lính canh mà huynh Peter đã cảnh báo trước cho tôi. Xa hơn nữa dọc theo hành lang là cánh cửa thứ hai, và qua cánh cửa ấy là những bậc cấp bằng đá dẫn lên những căn phòng bên trên.
Tôi từ từ đi dọc hành lang về phía cánh cửa thứ nhất, hầu như là nhón chân nhẹ nhàng và nép hẳn vào góc tối. Khi đã đến gần phòng lính canh, tôi có thể nghe thấy âm thanh từ trong ấy vọng ra. Có người ho, người cười rồi cả những tiếng nói chuyện rì rầm.
Thình lình tim tôi vọt phắt lên. Tôi nghe được tiếng nói trầm khàn rất gần nơi cửa nhưng trước khi tôi kịp lẩn đi, cánh cửa đã bị đẩy tung ra. Suýt chút nữa cánh cửa đập vào tôi nhưng tôi đã nhanh chóng né ra sau và nép người vào bức tường đá. Nhiều tiếng ủng nặng nề bước ra hành lang.
“Ta phải quay lại với công việc của mình,” một giọng nói tôi nhận ra được vang lên. Là giọng của tên Phán Quan và hắn ta đang nói với ai đấy đứng ngay bên trong lối cửa.
“Cho vài ngươi đi bắt huynh Peter về đây,” hắn ta nói tiếp, “và mang hắn lên chỗ ta khi ta xong việc với những tên khác. Có thể Cha Cairns đã làm chúng ta sổng mất một tên tù nhân nhưng hắn biết ai là kẻ có tội, ta sẽ bảo cho hắn biết thế. Với lại ít ra hắn còn chút khôn ngoan mà đi báo cáo lại với ta. Hãy trói tay tên tu huynh của chúng ta ngược ra sau lưng, đừng có nhẹ tay đấy. Hãy làm cho dây thừng cứa vào da thịt hắn để hắn biết chính xác là mình đang phải đối mặt với điều gì! Sẽ tốn nhiều hơn là chỉ đôi ba lời lăng mạ, chuyện này thì ta đảm bảo. Sắt nung nóng rồi sẽ chóng làm cho hắn mở miệng thôi!”
Đáp lại lời hắn là một tràng cười hố hố tàn nhẫn từ đám lính gác. Rồi cơn gió lùa chiếc áo choàng dài màu đen của tên Phán Quan phấp phới sau lưng hắn khi hắn đóng cửa lại và nhanh nhẹn bước về phía những bậc cấp ở đầu kia hành lang.
Nếu hắn quay lại thì sẽ nhìn thấy tôi ngay! Trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ hắn sẽ dừng chân bên ngoài xà lim của những tù nhân, nhưng tôi nhẹ cả người khi thấy hắn tiếp tục leo lên các bậc cấp và đi khuất tầm mắt.
Huynh Peter đáng thương. Ông ấy sẽ bị bắt tra khảo nhưng tôi chẳng có cách nào cảnh báo cho ông ấy biết. Mà tôi chính là tù nhân mà tên Phán Quan vừa đề cập đến. Bọn chúng sẽ tra tấn ông ấy vì ông ấy đã thả cho tôi tự do! Không chỉ thế – Cha Cairns đã kể cho tên Phán Quan biết về tôi. Giờ đây, khi đã bắt được Thầy Trừ Tà, tên Phán Quan ấy sẽ đi lùng sục tôi thôi. Tôi phải giải cứu cho thầy của mình trước khi quá muộn cho cả hai thầy trò.
Khi ấy, sém chút tôi đã phạm một sai lầm to lớn khi bước qua hành lang đi đến xà lim; tuy nhiên, cũng vừa đúng lúc ấy tôi nhận ra rằng mệnh lệnh của tên Phán Quan sẽ được thi hành ngay lập tức. Quả là thế, cánh cửa phòng lính canh lại bật mở và hai tên đàn ông bước ra vừa khua khoắng dùi cui vừa sải dài về phía những bậc cấp.
Khi cánh cửa được người ở trong phòng đóng lại, tôi bị phơi bày mồn một nhưng vận may của tôi một lần nữa lại mỉm cười khi những tên lính gác ấy không ngoái đầu lại. Sau khi bọn chúng đã leo lên các bậc cấp và đi khuất dạng, tôi chờ thêm một đỗi cho tiếng ủng từ xa của bọn chúng chìm dần và cho tim mình thôi không nện thình thình nữa. Chỉ đến khi đó tôi mới nghe thấy tiếng người lao xao ở xà lim phía trước. Có ai đó đang khóc; người khác ngân nga cầu nguyện. Tôi vội vã lao đến phía phát ra âm thanh cho đến khi chạm phải một cánh cửa kim loại nặng trịch, một phần ba phần trên cùng của cánh cửa là những song sắt dựng đứng.
Tôi giơ nến lên sát những chấn song và ghé mắt nhìn vào. Dưới ánh nến nhập nhoạng, khu xà lim trông rất kinh nhưng mùi bốc ra còn khiếp hơn nữa. Có khoảng hai mươi người bị nhồi nhét trong khoảng không nhỏ bé ấy. Vài người đang nằm dài trên sàn trông như đang ngủ. Vài người khác đang ngồi tựa lưng vào tường. Một người phụ nữ đang đứng gần cửa sắt và âm thanh tôi nghe thấy là giọng của bà ta. Tôi đã đoán là bà ta đang cầu nguyện nhưng thực ra bà ta đang lầm rầm những điều vô nghĩa với hai mắt trợn ngược như thể những gì vừa trải qua đã làm cho bà mất trí.
Tôi không nhìn thấy Thầy Trừ Tà cũng như Alice, nhưng thế không có nghĩa là họ không ở trong đấy. Đây đích thực là những tù nhân rồi. Những tù nhân của tên Phán Quan sắp sửa bị đưa đi thiêu sống.
Không lãng phí thì giờ, tôi đặt thanh trượng xuống, mở khóa và chầm chậm mở cửa ra. Tôi muốn đi vào trong tìm Thầy Trừ Tà và Alice, nhưng trước khi cánh cửa kịp mở ra hết, người đàn bà đang lầm rầm kia đã tiến tới trước chắn ngang lối của tôi.
Bà ta gào lên điều gì đó, khạc bao nhiêu từ ngữ vào mặt tôi. Tôi không hiểu bà ta đang nói gì nhưng bà ta lại quá lớn tiếng đến nỗi tôi phải liếc ra sau về phía phòng lính canh. Chỉ trong vòng vài giây, những người khác đã kéo cả lại sau lưng bà, đẩy bà ta ra trước, về phía hành lang. Bên trái bà ta là một cô gái, trông không lớn hơn Alice là mấy. Cô gái có đôi mắt to nâu và khuôn mặt phúc hậu, thế nên tôi quay sang hỏi cô.
“Tớ đang tìm một người,” tôi bảo, giọng chỉ như đang thì thào.
Trước khi tôi kịp nói thêm gì khác, cô gái hé môi ra như thể định nói, để lộ ra hai hàm răng gãy đôi ba chiếc, những chiếc còn lại đen sì vì sâu. Thay vì nói ra thành tiếng, một tràng cười lớn tiếng thoát ra khỏi cổ họng cô ta, và ngay lập lức dấy lên một cơn gào rú từ những người xung quanh mình. Những người này đã bị tra tấn và trải qua bao nhiêu ngày, thậm chí là hàng tuần, bị đe dọa phải chết. Yêu cầu họ nói chuyện lý lẽ hay giữ bình tĩnh chẳng có ích gì cả đâu. Đủ kiểu ngón tay chọc vào tôi, còn một người đàn ông to lớn lêu nghêu tay chân dài thòng với đôi mắt thất thần thì túm chặt tay tôi giật lên giật xuống vì biết ơn.
“Cảm ơn! Cảm ơn!” ông ta gào lên, nắm tay ông ta chặt đến nỗi tôi nghĩ ông ấy sẽ bóp nát xương tôi mất.
Tôi cố gắng giằng tay ra, nhặt thanh trượng lên và bước lùi vài bước. Kể từ lúc này, bất cứ khi nào đám lính gác cũng sẽ nghe thấy vụ lao xao này rồi đi ra hành lang để tìm hiểu. Lỡ Thầy Trừ Tà và Alice không ở trong xà lim ấy thì sao? Lỡ hai người họ đang bị giam giữ ở nơi khác thì thế nào?
Giờ thì đã quá muộn, bởi do bị phía sau thô bạo đùn tới trước, tôi đang lùi qua phòng lính gác, rồi thêm vài giây sau, tôi đã bị đẩy đến cánh cửa mở vào hầm rượu. Tôi liếc ra sau nhìn dòng người đang nối đuôi mình. Ít nhất bây giờ không ai đang la lối gì nhưng vẫn còn nhiều tiếng động hơn là tôi muốn. Tôi chỉ hy vọng là đám lính canh đang quá lo chè chén. Chắc bọn chúng đã nhàm tai với những âm thanh từ tù nhân rồi; hẳn chúng không nghĩ rằng sẽ có một cuộc phá ngục.
Khi đã vào được đến hầm rượu, tôi leo lên đứng thăng bằng trên một vại bia, nhanh tay đẩy cánh cửa sập lên. Qua cánh cửa mở toang, tôi nhác thấy thanh trụ đá của bức tường phía ngoài nhà thờ lớn, một đợt gió lạnh và hơi ẩm thốc vào mặt tôi. Trời đang mưa nặng hạt.
Những người khác lóp ngóp bò lên vại bia. Người đàn ông lúc nãy nói cảm ơn giờ lại thô bạo huých tôi qua một bên bằng cùi chỏ và bắt đầu chui qua cửa sập. Lát sau, khi đã ra được bên ngoài, ông ta chìa tay về phía tôi, tỏ ý muốn kéo tôi lên.
“Nào!” ông ta rít lên.
Tôi do dự. Tôi muốn xem xem Thầy Trừ Tà và Alice ra khỏi xà lim chưa đã. Nhưng đến đấy thì quá muộn rồi vì một người phụ nữ đã leo lên vại bên cạnh tôi và vươn tay về phía ông kia, ông này chẳng hề ngần ngại tóm lấy cổ tay bà ta để kéo bà qua cánh cửa sập.
Sau đấy tôi chẳng còn cơ hội nào nữa. Còn bao nhiêu người khác, nhiều người gần như là ẩu đả nhau trong cơn tuyệt vọng muốn thoát ra ngoài. Nhưng không phải ai cũng như thế. Một người đàn ông khác ngã một vại bia xuống và lăn nó đến kề sát vại đang đứng thẳng để tạo thành một bậc bước giúp cho việc leo lên dễ dàng hơn. Ông lại giúp một bà lão leo lên đứng vững để người đàn ông bên trên chầm chậm kéo bà lên trên.
Những tù nhân đang thoát ra ngoài qua cửa sập, nhưng những người khác vẫn tiếp tục ùa vào hầm rượu, tôi liên tục nhìn về phía họ, hy vọng một trong những người ấy có thể là Thầy Trừ Tà hay Alice.
Một ý nghĩ bất chợt lóe lên. Ngộ nhỡ một trong hai người họ bệnh nặng hay quá yếu nên không thể rời khỏi xà lim thì sao nhỉ?
Chẳng còn lựa chọn nào khác. Tôi phải quay lại xem sao thôi. Tôi nhảy xuống khỏi vại bia, nhưng muộn mất rồi: có tiếng thét váng rồi những giọng giận dữ. Tiếng ủng nện sầm sập dọc theo hành lang. Một tên lính gác to lớn vạm vỡ vừa huơ dùi cui vừa đẩy cửa vào hầm rượu. Hắn nhìn quanh rồi rống lên một tiếng điên tiết, lao thẳng về phía tôi.
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc