To choose a good book, look in an inquisitor’s prohibited list.

John Aikin

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 24
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1563 / 27
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8 - Câu Chuyện Của Huynh Peter
hòng bếp nằm phía cuối căn nhà, trông ra một khoảnh sân nhỏ lát đá. Khi bầu trời đang dần trở sáng, ông Andrew mời tôi ăn điểm tâm. Cũng chẳng có gì nhiều, chỉ một cái trứng và một lát bánh mì nướng. Tôi cảm ơn ông ấy nhưng buộc phải từ chối vì tôi vẫn đang còn nhịn đói. Nếu ăn vào nghĩa là tôi chấp nhận rằng Thầy Trừ Tà đã ra đi và rằng thầy trò chúng tôi sẽ không còn cùng nhau đối mặt với Quỷ Độc nữa. Nhưng dù sao tôi cũng chẳng thấy đói gì sất.
Tôi đã làm theo lời ông Andrew. Kể từ khi Thầy Trừ Tà bị bắt đi, tôi đã mải miết suy nghĩ làm thế nào chúng tôi có thể cứu lấy thầy. Tôi cũng nghĩ đến Alice nữa. Nếu tôi không bắt tay vào làm gì đó, cả hai người họ sẽ bị thiêu chết.
“Túi đồ của thầy Gregory vẫn còn ở trong phòng con tại quán trọ Bò Đen,” bỗng nhiên tôi chợt nhớ ra, quay sang bảo bác thợ làm khóa. “Với lại chắc là thầy còn bỏ lại trượng của thầy và áo choàng của hai thầy trò tại chỗ trọ. Bây giờ ta lấy lại những thứ ấy bằng cách nào ạ?”
“Ừ, việc này ta có thể giúp được,” ông Andrew đáp. “Nếu một trong hai chúng ta đi lấy thì mạo hiểm lắm, nhưng ta biết có người này có thể gom đồ về cho con. Để chút nữa ta sẽ giải quyết.”
Khi tôi đang quan sát ông Andrew dùng bữa, có tiếng chuông ngân lên từ đâu đó xa xa. Tiếng chuông nghe rầu rĩ và giữa mỗi hồi chuông là một khoảng lặng khá dài. Nghe thật tang thương, như tiếng chuông nguyện của đám táng.
“Có phải tiếng chuông từ nhà thờ lớn không ạ?” tôi hỏi.
Ông Andrew gật đầu, vẫn tiếp tục nhai chậm rãi. Trông như thể ông ăn chẳng ngon miệng gì, cũng như tôi đang cảm thấy vậy.
Tôi thắc mắc không biết đấy có phải tiếng chuông triệu gọi mọi người đến dự lễ sáng, nhưng trước khi tôi kịp hỏi được chừng ấy, ông Andrew đã nuốt miếng bánh mì nướng xuống mà bảo tôi, “Tiếng chuông này có nghĩa là lại có thêm một cái chết ở nhà thờ lớn hay nhà thờ nào khác trong thị trấn. Hoặc là thế, hoặc là một cha xứ đã qua đời ở nơi nào đó khác trong Hạt và tin dữ ấy vừa mới được truyền đến. Dạo gần đây trong trấn thường nghe thấy âm thanh này lắm. Ta e là bất cứ cha xứ nào thách thức thế lực bóng tối hay sự thối nát trong thị trấn chúng ta đều sẽ nhanh chóng bị trừ khử.”
Tôi rùng mình. “Có ai ở Priestown này biết nguyên nhân của thời kỳ đen tối là do Quỷ Độc không ạ?” tôi hỏi. “Hay chỉ có các cha xứ là biết thôi?”
“Chuyện về Quỷ Độc thì ai cũng biết cả. Ở khu vực gần sát với nhà thờ lớn nhất, hầu hết dân chúng đều cho xây gạch bít hết các lối cửa dẫn xuống hầm rượu nhà họ, và thói mê tín lẫn nỗi sợ hãi thì tràn lan. Ai lại có thể trách cứ được người dân cơ chứ khi họ thậm chí còn không thể đặt lòng tin vào những cha xứ của mình để được bảo vệ? Chả trách sao các giáo đoàn ngày một teo nhỏ,” ông Andrew vừa nói vừa lắc đầu thê lương.
“Bác làm xong chiếc chìa khóa chưa?” tôi hỏi.
“Rồi, nhưng chú John đáng thương giờ có cần đến nó nữa đâu.”
“Chúng ta có thể đấy,” tôi liến thoắng tuôn ra một mạch những gì mình sắp nói trước khi ông kịp ngăn tôi lại. “Khu hầm mộ chạy dọc ngay bên dưới nhà thờ lớn đến tận nhà dòng, vậy thì có thể có lối đi dẫn thẳng lên đến chỗ bọn họ. Chúng ta có thể đợi đến lúc trời tối, khi mọi người ngủ hết, để đột nhập vào nhà dòng vậy.”
“Chuyện này thật điên rồ,” ông Andrew lắc đầu thốt lên. “Khu nhà dòng rộng thênh thang, bao nhiêu là phòng ở trên lẫn dưới mặt đất. Thậm chí chúng ta còn không biết những tù nhân đang bị giam giữ ở đâu. Không chỉ là thế, còn có bọn người mang vũ khí canh gác nữa chứ. Con cũng muốn bị thiêu sống hay sao thế? Ta thì ta không muốn rồi đấy!”
“Cũng đáng để thử lắm mà,” tôi nài nỉ. “Bọn chúng không nghĩ là sẽ có người từ dưới lòng đất chui lên trên nhà khi mà dưới kia có tên Quỷ Độc đâu. Chúng ta có yếu tố bất ngờ làm lợi thế và biết đâu mấy tên lính gác còn ngủ gật nữa thì sao.”
“Không,” ông Andrew cương quyết lắc đầu. “Như thế là điên rồ. Không đáng để mất thêm hai mạng người nữa.”
“Vậy bác đưa cho cháu chiếc chìa để cháu tự làm.”
“Con sẽ không bao giờ tìm thấy đường đi khi không có ta đâu. Dưới đấy là cả một mê trận đường hầm đấy.”
“Vậy thì bác biết đường ạ?” tôi hỏi. “Trước đây bác đã từng xuống dưới ấy rồi ư?”
“Rồi, ta biết được đường đến tận Cổng Bạc thôi. Nhưng ta thì chỉ muốn đi xa đến đấy là hết mức. Mà cũng đã hai mươi năm rồi kể từ khi ta cùng John xuống đấy. Cái thứ quỷ dưới ấy suýt nữa đã giết chết John. Hắn cũng có thể giết luôn chúng ta ấy chứ. Con đã nghe thấy John nói rồi đấy thôi: hắn đang biến đổi từ một linh hồn, một thứ biến hình, thành ra thứ gì đấy chỉ có trời mới biết. Dưới đấy chúng ta có thể chạm trán với bất cứ thứ gì. Người ta từng đồn đại về những con chó ngoao hung tợn hằm hè nhe răng to tổ bố; về những con rắn độc. Quỷ Độc có thể đọc được tư tưởng của con, con hãy nhớ lấy, và có thể hiện hình thành những nỗi lo sợ hãi hùng nhất mà con có. Không, quá nguy hiểm. Ta không biết số phận nào đau đớn hơn đây – bị tên Phán Quan thiêu sống trên giàn hỏa, hay là bị Quỷ Độc chẹt đến chết. Đấy không phải là những lựa chọn mà một cậu bé phải quyết định lấy.”
“Bác đừng lo đến chuyện ấy ạ,” tôi bảo. “Bác cứ lo xử lý mấy ổ khóa còn cháu sẽ làm việc của cháu.”
“Nếu như em trai ta còn chịu không được thì con còn có hy vọng nào cơ chứ? Khi đấy em trai ta còn trong thời kỳ đỉnh cao phong độ, còn con bây giờ chỉ mới là một cậu bé.”
“Cháu không có ngốc đến nỗi đi cố mà tiêu diệt Quỷ Độc đâu ạ,” tôi đáp. “Cháu chỉ làm hết sức để đưa Thầy Trừ Tà đến nơi an toàn thôi.”
Ông Andrew lắc đầu. “Con đã theo thầy mình được bao lâu rồi?”
“Gần sáu tháng ạ.”
“Vậy sao,” ông Andrew bảo, “điều này giải thích tất cả rồi, phải không nào? Con có ý tốt, ta biết, nhưng chúng ta chỉ làm cho mọi chuyện thêm tồi tệ mà thôi.”
“Thầy Trừ Tà đã bảo cháu rằng chết vì bị thiêu là một cái chết kinh khủng. Là cái chết tồi tệ hơn hết thảy. Đấy là lý do vì sao thầy không tán thành việc thiêu chết phù thủy. Vậy tại sao bác lại để cho thầy phải chịu đau đớn ấy? Cháu xin bác, bác phải giúp cháu. Đây là cơ may cuối cùng cho thầy cháu đấy.”
Lần này ông Andrew chẳng nói thêm gì. Ông ngồi mãi nơi ấy, chìm đắm trong suy tư. Rốt cuộc khi ông đứng dậy khỏi ghế, ông chỉ bảo là tôi nên lánh mặt đi.
Có vẻ là dấu hiệu tốt rồi đây. Ít ra thì ông ấy không bảo tôi đi gói ghém đồ đạc.
Tôi ngồi sau nhà, bồn chồn chờ đợi khi buổi sáng chậm chạp trôi đi. Tôi đã chẳng chợp mắt được chút nào và đang mệt bã, nhưng sau những biến cố trong đêm rồi thì ngủ là chuyện tôi chẳng hứng thú muốn làm.
Ông Andrew đang làm việc. Hầu hết thời gian tôi nghe thấy tiếng ông loay hoay trong xưởng, nhưng thi thoảng cũng có tiếng chuông kính coong khi khách hàng ra vào cửa hiệu.
Khi ông Andrew quay trở vào bếp là đã gần giữa trưa. Mặt ông có vẻ gì đấy khang khác. Ông trông đăm chiêu. Và theo ngay sau lưng ông là một người khác!
Tôi đứng bật dậy, sém chút co giò bỏ chạy, nhưng cánh cửa hậu lại bị khóa mất rồi, còn chắn giữa tôi và lối ra cửa trước là hai người đàn ông. Nhưng rồi tôi nhận ra người lạ và thấy nhẹ cả người. Đấy là huynh Peter, ông ta đang mang theo túi của Thầy Trừ Tà, cả thanh trượng lẫn áo choàng của thầy trò tôi nữa!
“Không sao đâu cậu bé,” ông Andrew bước đến đặt tay lên vai tôi trấn an. “Bỏ cái vẻ lo lắng trên mặt đi rồi ngồi xuống nào. Huynh Peter là bạn đấy. Xem này, huynh ấy còn mang cho con vật dụng của John nữa kìa.”
Huynh Peter mỉm cười trao cho tôi chiếc túi, thanh trượng và hai chiếc áo choàng. Tôi nhận lấy, gật đầu cảm ơn, đặt mấy món ấy vào góc nhà rồi ngồi xuống. Cả hai người đàn ông đều kéo ghế từ bàn ra ngồi đối diện với tôi.
Huynh Peter là người gần như cả đời phải làm việc ngoài trời nên phần da trên đầu ông ấy bị nắng gió biến thành một sắc nâu đều khắp. Ông cao bằng ông Andrew nhưng không đứng thẳng được như ông ấy. Lưng và vai huynh Peter đã còng xuống cả, có lẽ vì bao nhiêu năm cắm mặt làm việc với đất cùng cuốc xẻng. Mũi của ông là nét khác biệt nhất, khoằm xuống như mỏ quạ, nhưng hai mắt lại cách xa nhau và lấp lánh ánh lên vẻ tốt bụng. Trực giác tôi mách bảo ông này là người tốt.
“E hèm,” ông lên tiếng, “con may mắn vì đêm qua ta chứ không phải ai khác là người rảo quanh đấy nhé, bằng không con đã bị nhốt lại trong xà lim rồi! Sau chuyện đó, Cha Cairns cho gọi ta lên ngay khi trời sáng và ta phải trả lời vài câu khó chịu. Hắn ta không được vui cho lắm và ta không chắc là hắn đã xong việc với ta chưa nữa!”
“Cháu xin lỗi ạ,” tôi đáp.
Huynh Peter mỉm cười. “Đừng lo gì cả, cậu nhỏ. Ta chỉ là một tên làm vườn có tiếng là bị lãng tai mà. Hắn sẽ không bận tâm đến ta lâu lắm đâu khi mà tay Phán Quan đang có quá nhiều người khác cần phải được thiêu sống.”
“Sao bác lại để cho cháu trốn thoát ạ?” tôi hỏi.
Huynh Peter nhướn mày. “Không phải tất cả các cha xứ đều bị Quỷ Độc điều khiển đâu con. Tôi biết ông anh họ của bác,” ông ta quay sang bảo với ông Andrew, “nhưng tôi không tin Cha Cairns đâu. Tôi cho là Quỷ Độc đã thâu tóm được hắn rồi.”
“Chính tôi cũng nghĩ thế đấy,” ông Andrew bảo. “John đã bị phản bội và tôi nghĩ hẳn Quỷ Độc là kẻ đứng đằng sau tất cả mọi chuyện. Hắn biết John là một mối đe dọa nên đã lợi dụng tên anh họ nhu nhược của chúng tôi để trừ khử chú ấy.”
“Vâng, tôi nghĩ bác nói đúng. Bác có để ý thấy tay hắn không? Hắn bảo phải băng bó như vậy là vì hắn bị phỏng nến, nhưng mà Cha Hendle cũng bị thương tương tự sau khi Quỷ Độc thâu tóm ông ta. Tôi nghĩ tên Cairns đã hiến máu mình cho cái thứ ấy rồi.”
Hẳn là tôi trông đang kinh hoàng lắm vì huynh Peter phải đến bên mà đặt tay lên vai tôi. “Đừng lo lắng con trai à. Trong nhà thờ lớn ấy vẫn còn sót lại vài người tốt, và dù có lẽ ta chỉ là một tu huynh hèn mọn nhưng ta vẫn coi mình là một trong những người tốt ấy và sẽ làm mọi việc phụng sự Chúa bất cứ khi nào có thể. Ta sẽ làm hết sức trong khả năng của mình để giúp cho con và thầy của con. Thế lực bóng tối chưa chiến thắng đâu! Vậy nên ta hãy bàn thẳng đến công việc nào. Bác Andrew bảo ta là con rất dũng cảm khi dám đi xuống khu hầm mộ. Có đúng thế không?” ông vừa hỏi vừa trầm ngâm vuốt mũi.
“Phải có ai làm việc này, nên cháu rất sẵn lòng thử sức một phen,” tôi đáp.
“Nhưng lỡ may con phải đối mặt với...”
Huynh Peter không nói hết câu. Cứ như là ông ấy không thể buộc mình thốt ra hai tiếng “Quỷ Độc”.
“Đã có ai nói cho con biết con sẽ phải đối mặt với thứ gì chưa? Về vụ biến hình, đọc soi tâm tưởng với lại cả...” Ông ngần ngại liếc ra sau lưng trước khi thì thào, “cả chẹt chết ấy?”
“Vâng, cháu có nghe rồi ạ,” tôi đáp với giọng nghe còn tự tin hơn là tôi đang thật lòng cảm thấy. “Nhưng vẫn có những chuyện cháu có thể làm được. Thứ ấy không thích loại xích bạc...”
Tôi mở túi Thầy Trừ Tà, cho tay vào rút ra sợi xích bạc cho mọi người cùng xem. “Cháu có thể trói hắn với thứ này,” tôi bảo, nhìn thẳng vào mắt của huynh Peter và cố không chớp.
Hai người đàn ông nhìn nhau rồi ông Andrew mỉm cười. “Chắc là đã luyện tập lắm lần rồi phải không con?” ông hỏi.
“Hàng bao nhiêu giờ liền ấy ạ,” tôi đáp. “Trong vườn nhà thầy Gregory có một cây cột. Cháu có thể đứng cách đấy hai mét rưỡi mà tung xích ra quấn vào cây cột đó, và thao tác gọn gàng cả tám trên chín lần ấy chứ.”
“À, nếu kiểu gì đấy mà con vượt qua được kẻ ấy và đến được nhà dòng trong tối nay thì con sẽ có được một lợi thế. Tối nay nhà dòng sẽ vắng lặng hơn thường lệ,” huynh Peter nói tiếp. “Tối hôm qua có người chết trong nhà thờ lớn nên thi thể hiện đang ở đấy chứ không phải ở ngoài thị trấn. Tối nay hầu như mọi cha xứ đều sẽ ở lại nhà thờ để làm lễ vọng.”
Qua các bài học tiếng La tinh của mình, tôi biết được “lễ vọng” có nghĩa là “thức đêm”. Thế nhưng điều này cũng không cho tôi biết là họ thức đêm làm gì.
“Họ sẽ cầu nguyện và coi sóc cho người chết,” ông Andrew mỉm cười khi nhìn thấy vẻ bối rối trên mặt tôi. “Ai đã chết vậy bác Peter?”
“Là Cha Roberts tội nghiệp. Tự kết liễu đời mình. Nhảy từ nóc nhà xuống. Đấy là vụ tự tử thứ năm trong năm nay rồi,” ông liếc qua ông Andrew rồi nhìn thẳng lại vào tôi. “Nó chui hẳn vào trong đầu óc người ta, con biết đấy. Khiến cho họ làm những chuyện trái với ý Chúa và đi ngược với lương tâm họ. Và đấy là điều rất khó khăn đối với một cha xứ đã thụ phong giáo phẩm để phụng sự Chúa. Vậy nên khi ông ta không thể chịu đựng thêm được nữa thì có khi ông ta lại tự kết liễu đời mình. Việc này rất kinh khủng đấy. Tự tử là một tội lỗi muôn chết, và các cha xứ thừa biết là họ sẽ không bao giờ được lên Thiên đàng, không bao giờ được ở cạnh Chúa Cha. Con hãy nghĩ xem chuyện phải xấu xa đến mức nào mới dồn họ đến nước đó! Giá như chúng ta có thể tiêu diệt được thứ tà ma khủng khiếp ấy trước khi thị trấn này chẳng còn lại điều gì tốt đẹp cho hắn nhũng nhiễu nữa.”
Một quãng lặng ngắn ngủi, như thể tất cả chúng tôi đang suy tư, nhưng rồi khi thấy môi của huynh Peter mấp máy tôi lại nghĩ chắc là ông đang cầu nguyện cho viên cha xứ tội nghiệp vừa mới mất. Khi ông ấy đưa tay làm dấu thì tôi chắc mẩm là thế rồi. Đoạn hai người đàn ông đưa mắt nhìn nhau và cùng gật. Không nói không rằng, họ đã cùng nhau đi đến thỏa thuận.
“Ta sẽ đi cùng con đến tận Cổng Bạc,” ông Andrew lên tiếng. “Sau đấy, huynh Peter đây sẽ có thể giúp được...”
Huynh Peter sẽ đi cùng chúng tôi sao? Hẳn ông ấy đã đọc ra vẻ mặt tôi vì ông giơ cả hai tay lên, vừa mỉm cười vừa lắc đầu.
“Ôi không đâu Tom. Ta chẳng có can đảm bén mảng đến bất cứ nơi nào gần hầm mộ đâu. Không, ý bác Andrew là ta có thể giúp bằng cách khác kia: chỉ cho con hướng đi. Này nhé, có một bản đồ những đường hầm ấy. Bản đồ được lồng trong khung treo ngay bên trong lối vào nhà dòng – lối dẫn thẳng ra vườn ấy. Ta không thể nhớ nổi mình đã phải đứng chờ ở đấy bao nhiêu giờ đồng hồ để có cha xứ nào đi xuống giao việc trong ngày cho ta. Qua bao nhiêu năm ta đã nhớ như in mọi ngóc ngách trên cái bản đồ ấy. Con có muốn viết ra giấy không, hay con có thể nhớ được nào?”
“Cháu có trí nhớ rất tốt đấy ạ,” tôi bảo với ông ấy.
“Được rồi, cứ bảo ta biết nếu con cần ta lặp lại nhé. Như bác Andrew đã nói, bác ấy sẽ dẫn đường cho con đến tận Cổng Bạc. Qua cổng ấy rồi, con cứ đi tiếp cho đến khi các đường hầm giao nhau. Con đi theo lối bên trái cho đến khi đến được các bậc cấp. Bậc cấp này dẫn đến một cánh cửa, sau cánh cửa ấy là hầm rượu lớn của nhà dòng. Cánh cửa đang bị khóa nhưng sẽ chẳng phải là vấn đề với con đâu khi con có chiến hữu như bác Andrew đây. Chỉ có một cánh cửa khác dẫn đi hầm rượu và nó nằm ở bức tường đầu kia bên góc bên phải.”
“Nhưng có thể nào Quỷ Độc lại đi theo cháu vào trong hầm rượu mà trốn đi không ạ?” tôi hỏi.
“Không đâu – hắn chỉ có thể thoát khỏi hầm mộ qua Cổng Bạc mà thôi, cho nên con khá là an toàn một khi đã đi qua cửa dẫn vào hầm rượu. Giờ trước khi rời khỏi hầm rượu, có một điều con phải làm đây. Bên trái cánh cửa, phía trên trần nhà, là một cánh cửa sập. Cửa này dẫn lên lối đi dọc theo bờ tường phía Bắc của nhà thờ lớn – những người giao hàng thường sử dụng lối này để mang rượu và bia xuống dưới đấy. Con phải mở khóa cánh cửa ấy ra trước khi tiến xa hơn. Đấy là lối thoát ra ngoài nhanh hơn là phải đi ngược lại cổng. Đến đây là rõ hết chưa nào?”
“Chẳng phải sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu ta sử dụng cửa sập ấy để đi xuống sao ạ?” tôi hỏi. “Làm thế thì cháu sẽ tránh được Cổng Bạc lẫn Quỷ Độc mà.”
“Ta ước sao mọi chuyện được dễ dàng như thế,” huynh Peter đáp. “Nhưng làm vậy quá mạo hiểm. Cánh cửa ấy từ ngoài đường lẫn từ nhà dòng trông ra đều thấy. Sẽ có người nhìn thấy con chui vào đấy.”
Tôi trầm ngâm gật gù.
“Mặc dù con không thể đi vào bằng cửa ấy, vẫn có thêm một lý do chính đáng khác vì sao con nên cố mà thoát ra bằng lối này,” ông Andrew nói vào. “Ta không muốn John lại liều mình đối mặt với Quỷ Độc một lần nữa. Con thấy đấy, từ trong tâm khảm ta nghĩ rằng thầy con đang sợ – quá sợ đến mức thầy ấy có thể không đánh thắng được...”
“Sợ ư?” tôi phẫn nộ quặc lại. “Thầy Gregory không sợ bất cứ điều gì từ thế lực bóng tối cả.”
“Ừ, chú ấy sẽ không thừa nhận thế đâu,” ông Andrew vẫn nói tiếp. “Đồng ý với con điểm này. Thậm chí chú ấy chắc còn không thừa nhận với chính mình nữa kia. Nhưng thời xa xưa chú đấy đã bị nguyền và...”
“Thầy Gregory không tin vào những lời nguyền,” tôi cắt ngang. “Thầy đã bảo thế với bác rồi cơ mà.”
“Nếu con thư thư cho ta nói hết, ta sẽ giải thích cho con hay,” ông Andrew nài nỉ. “Đây là một lời nguyền nguy hiểm và cực mạnh. Độc địa hết mức có thể. Toàn bộ ba hội phù thủy vùng Pendle đã hiệp sức lại với nhau để đưa ra lời nguyền này. Khi đấy John đã can dự quá nhiều vào việc của bọn chúng, thế là bọn chúng tạm gác sang bên bao mâu thuẫn bất đồng để nguyền rủa chú ấy. Đấy là một lời nguyền máu và bao người vô tội đã bị tàn sát. Chuyện này xảy ra vào đêm ngày mừng xuân, đêm trước ngày một tháng Năm, vào hai mươi năm trước, rồi sau đấy bọn chúng gửi đến cho John một mảnh da dê vấy máu. Chú ấy từng kể cho ta nghe trên đấy có viết những gì: Mi sẽ phải chết trong một nơi tăm tối, sâu thẳm dưới lòng đất mà không có một bạn bè nào bên cạnh!”
“Là khu hầm mộ...” tôi thốt lên, giọng chỉ còn là tiếng thều thào. Nếu thầy phải đối mặt với Quỷ Độc dưới khu hầm mộ kia, thì mọi điều kiện của lời nguyền đó sẽ được thỏa.
“Phải, là khu hầm mộ,” ông Andrew đồng tình. “Như ta đã nói, hãy đem chú ấy ra ngoài qua lối cửa sập. Mà thôi, huynh Peter này, tôi xin lỗi vì đã chen ngang lời bác...”
Ông Peter ủ rũ mỉm cười và nói tiếp. “Khi đã tháo then cài cửa sập rồi, con hãy đi qua cánh cửa vào lối hành lang. Đây là phần rủi ro. Ở đầu kia hành lang là căn xà lim bọn họ sử dụng để giam giữ tù nhân. Con sẽ tìm thấy thầy mình trong đó. Nhưng để đến được xà lim này, con phải đi qua phòng lính canh. Việc này nguy hiểm đấy nhưng ở dưới đó không khí khá lạnh và ẩm ướt. Bọn chúng sẽ nhen một lò sưởi thật lớn và, nếu Chúa phù hộ, cửa sẽ được đóng lại để ngăn cái lạnh. Vậy là con biết hết rồi đấy! Giải thoát cho ông Gregory và mang ông ấy qua cánh cửa sập rồi hãy tránh xa khỏi thị trấn này. Ông ấy sẽ phải quay lại đối phó với nòi sinh vật tởm lợm ấy vào khi khác vậy, khi tên Phán Quan đã đi khuất rồi ấy.”
“Đừng!” ông Andrew kêu lên. “Sau tất cả những chuyện này tôi sẽ không gọi chú ấy quay lại đây nữa đâu.”
“Nhưng nếu ông ấy không chiến đấu chống lại Quỷ Độc thì còn ai có thể làm được nữa chứ?” huynh Peter bật hỏi. “Tôi cũng không tin vào những lời nguyền đâu. Với sự giúp đỡ của Chúa Trời, John có thể đánh bại thứ linh hồn quỷ quyệt ấy. Bác biết là tình hình ngày càng tồi tệ đi mà. Chắc chắn người tiếp theo sẽ là tôi thôi.”
“Không phải là bác đâu, huynh Peter à,” ông Andrew đáp. “Tôi gặp được rất ít người có được ý chí kiên định như bác lắm.”
“Tôi cố hết sức thôi,” ông Peter nhún vai. “Khi tôi nghe thấy tiếng nói thì thầm trong đầu mình thì tôi chỉ đọc kinh khẩn trương hơn. Chúa ban cho ta sức mạnh cần thiết – đấy là nếu như ta đủ lý trí để cầu xin điều ấy. Nhưng phải có việc gì đó được làm thôi. Tôi không rõ rồi tất cả những chuyện này sẽ kết thúc như thế nào nữa.”
“Mọi chuyện sẽ kết thúc khi người dân trong trấn không còn chịu đựng được nữa,” ông Andrew bảo. “Người ta chỉ chịu bị chèn ép đến nước ấy là cùng. Tôi ngạc nhiên khi thấy họ chấp nhận sự độc ác xấu xa của tên Phán Quan được lâu đến thế. Vài người trong số những kẻ bị thiêu có vài người thân hay bạn bè ở đây đấy.”
“Có lẽ thế mà cũng có lẽ không,” huynh Peter nói. “Cũng có rất nhiều người thích xem hỏa thiêu lắm. Chúng ta chỉ còn biết cầu nguyện mà thôi.”
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 2 - Lời Nguyền Của Quỷ Độc