If you love someone you would be willing to give up everything for them, but if they loved you back they’d never ask you to.

Anon

 
 
 
 
 
Tác giả: John Dickson Carr
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Lệ Thanh
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 378 / 33
Cập nhật: 2020-07-09 16:12:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7
ột tiếng đồng hồ sau, khi tất cả ra khỏi căn hầm và lại được hít thở bầu không khí mát mẻ của khu vườn, họ biết chắc hai điều:
1- Căn hầm không có một ngõ ngách bí mật nào.
2- Xác chết không bị cất giấu trong một quan tài nào khác. Tất cả những áo quan ở hàng bên dưới được kéo ra khỏi hộc và kiểm soát kỹ lưỡng. Mặc dầu không thể mở chúng ra được, nhưng qua lớp han rỉ và bụi bặm phủ lên chúng, họ có thể biết rằng không có ai đụng đến những chiếc quan tài này.
Chán ngán, Partington quay trở vào nhà để uống một ly uýt ki trong khi Henderson và Stevens chỉ chịu chấm dứt sau khi đi lấy ghế đẩu để quan sát hàng quan tài phía bên trên. Mark bực mình, từ chối tiếp tay họ trong những cuộc tìm kiếm chẳng kết quả này. Cuối cùng, anh ta giật phăng những bó hoa đang cắm trong những chiếc bình bằng cẩm thạch và lật nghiêng lại để xem xác chết có bị giấu ở trong đó không.
Sau một thời gian dài đầy cam go ở bên trong hầm mộ, mọi người đều cảm thấy ít nhiều buồn nôn. Rồi họ vào nhà của Henderson để uống cà phê do ông này pha. Bây giờ là một giờ kém năm.
- Nào quí vị! Partington châm một điếu thuốc và nói với vẻ sốt sắng như chưa từng có. Chúng ta đang đứng trước những vấn đề khá hay ho và tôi nghĩ chúng ta nên giải quyết trước khi Mark lại nảy sinh những ý nghĩ đen tối...
- Hãy để yên cho những ý nghĩ đen tối của tôi! Mark khôi hài đáp - Bạn muốn nói sao? Chúng ta không thể tin vào chứng cớ mà chúng ta nhìn thấy? Anh nghĩ thế nào, Ted?
- Tôi không muốn nói cho anh về những điều mà tôi đang nghĩ, Stevens trả lời. Đó chính là sự thật, bởi chàng đang nghĩ tới những lời của Marie: Đêm nay, anh sẽ khai quật một hầm mộ và theo em nghĩ thì anh sẽ chẳng tìm thấy gì...
Chàng cố không để lộ điều gì trên nét mặt và uống cạn tách cà phê, chàng ngả người ra sau ghế. Khi làm như thế, chàng nhận thấy có một vật cộm trong túi và sực nhớ đó là cái phễu mà ban nãy chàng dùng để rót dầu vào hai cây đèn bão. Để rảnh tay, khi Mark trao cho chàng đòn bẩy và búa thợ rừng, chàng vô tình nhét nó vào túi quần. Chàng từng nghe nói có những người không thể chịu đựng nổi khi phải trông thấy một con mèo hay một vài loại hoa hoặc nữ trang... nhưng sự kinh sợ của Marie thì lại vượt quá sự hiểu biết. Tựa như khi ta thụt lùi trước một xẻng than hay khước từ một phòng đánh bi da.
- Thưa bác sĩ, ông có thể đưa ra một giải thích? Chàng hỏi để cắt đứt với những ý nghĩa đó.
- Yêu cầu anh đừng xài chữ bác sĩ với tôi, Patington nói, nhìn đóm lửa ở đầu điếu thuốc. Theo tôi, lại một lần nữa, chúng ta phải đương đầu với một bài toán hóc búa, đó là căn phòng đóng kín, nhưng ở đây có phần phức tạp hơn. Chẳng những chúng ta phải giải thích là bằng cách nào tên sát nhân vào một căn phòng đóng kín rồi sau đó đi ra mà chẳng ai hay biết, mà hơn nữa chúng ta đang đứng trước một căn phòng kín thật đặc biệt - một hầm mộ bằng đá tảng, không cửa sổ và được đóng kín, không phải bằng một cánh cửa mà bằng một phiến đá nặng nửa tấn, ở bên trên lại còn hai mươi phân cát và sỏi, rồi tất cả được lấp lại bằng những phiến đá tô xi măng mà một nhân chứng đã quả quyết rằng không hề có ai đụng đến...
- Và tôi vẫn quả quyết điều đó, Henderson nói.
- Tốt lắm. Như thế chẳng những chúng ta phải giải thích là tên sát nhân ra vào bằng cách nào, mà còn phải xét tới chuyện cái xác biến đi đâu. Một vấn đề thật ly kỳ, đúng thế, trong đó có bốn lối giải thích và chúng ta chỉ xét đến bốn trường hợp này mà thôi.
Trong số này, chúng ta đã loại bỏ hết hai trường hợp bởi vì, không cần phải có sự xem xét của một kiến trúc sư, tôi tin rằng trước sau chúng ta cũng bảo đảm được rằng không hề có một ngõ ngách nào trong hầm mộ và cái xác không còn ở đó nữa. Đồng ý chứ?
- Vâng, Mark nói.
- Chúng ta chỉ còn hai lối giải thích có thể chấp nhận. Thứ nhất: mặc dầu với những lời quả quyết của ông Henderson - mà chắc chắn là thành thực, và không kể đến việc vợ chồng của ông ngủ gần đó, có người lẻn vào được hầm mộ trong đêm, và sau đó sắp xếp lại y như cũ.
Henderson không nói năng gì, nhưng toàn bộ thái độ của lão để lộ một sự khinh bỉ sâu xa về cái giả thuyết kỳ cục này.
- Phải thú nhận rằng chính tôi cũng không mấy tin vào chuyện này. Và như thế chúng ta chỉ còn phải tìm hiểu một giả thuyết có thể chấp nhận: cái xác không hề được đưa vào hầm mộ.
- À!... Mark vỗ tay vào mặt bàn, thốt lên, rồi nói như thể hối tiếc: Không, tôi cũng chẳng tin rằng chuyện này có thể xảy ra.
- Cả tôi nữa, Henderson nói. Thưa ông Partington, tôi không muốn phải nói mãi những điều trái ngược với ông, nhưng chuyện này cũng khó tin như bao giả thuyết khác. Bởi vì nếu cái xác không được đưa xuống huyệt như lời ông nói, thì như thế không những tôi bị kết tội mà ông chủ trại hòm và hai nhân viên ở đó cũng là can phạm nữa. Chuyện đó diễn ra như thế này: cô Edith bảo tôi phải ở lại với các nhân viên mai táng và không được rời xác bác Mile, dẫu vì bất cứ công việc gì. Và tôi tuân theo lời dặn.
- Các anh biết, vào thời buổi bây giờ, họ không liệm xác rồi mang quan tài vào phòng khách để người ta đến phúng điếu nữa. Không, bây giờ họ vẫn để xác nằm trên giường cho đến lúc cử hành lễ mai táng; lúc đó họ sẽ đặt xác vào quan tài, đóng lại và đưa đi. Đó là trường hợp của ông Miles, và tôi ở đó với họ đến khi khâm liệm... Thật vậy, có thể nói là tôi không hề rời khỏi căn phòng đó, vì đêm hôm trước, tôi và nhà tôi canh thức suốt đêm bên cạnh xác... Tóm lai, họ đóng nắp quan tài lại, và ngay sau đó các đô tỳ đến và khiêng đi. Trong số những người đi theo linh cữu có cả luật sư, bác sĩ, thẩm phán. Tôi nghĩ rằng ông không thể nghi ngờ họ?
Dẫu sao, tôi đã theo họ từ phòng tang cho đến hầm mộ. Một số người không vào được bên trong đứng nơi bậc thang để tham dự buổi cầu kinh. Sau khi buổi lễ kết thúc, Bariy và Mac Kelsie, được tiếp tay bởi cậu Robinson niêm những phiến đá lại. Lúc đó, tôi chỉ kịp đi thay quần áo và trở lại ngay, thế đó!
Partington kêu lên:
- Nhưng cuối cùng thì phải bằng cách này hay cách khác chứ! Thế nào, bác có tin chuyện ma quỉ không?
- Ông thứ lỗi cho, Henderson từ tốn nói, nhưng tôi nghĩ là có.
- Nào, nhảm nhí!
- Ông phải hiểu rằng, Henderson nói tiếp với vẻ trang nghiêm, tôi không phải là người mê tín. Chỉ những người mê tín mới sợ ma quỉ, nhưng tôi thì không sợ, ngay cả bây giờ chúng có hiện ra trong căn phòng này. Chỉ nên sợ người sống, bởi vì người chết không làm hại ai. Nhưng còn chuyện ma quỉ có thật hay không, thì mới đây tôi có nghe nhắc đến câu chuyện của Shakespeare: Còn nhiều điều hơn, ở trên trời và dưới đất...
Mark nhìn lão với vẻ tò mò, bởi vì với người sống, ông già này cũng đều sợ như nhau.
- Bà Henderson có kể cho ông nghe cái chuyện mà bà nói với tôi? anh ta vồn vã hỏi.
- Có phải chuyện người đàn bà xuất hiện trong phòng ông Miles trong đêm ông ấy từ trần? Lão hỏi, mắt vẫn nhìn chăm chăm vào góc bàn trước mặt.
- Vâng.
Lão Henderson có vẻ nghĩ ngợi:
- Đúng, nhà tôi có kể, sau cùng, lão thú nhận.
Mark quay sang hai người kia:
- Như đầu hôm tôi có nói, tôi không muốn kể câu chuyện này cho các bạn, bởi các bạn không thể nào tin tôi nữa. Nhưng bây giờ tôi thấy nên cho các bạn biết thì hay hơn, bởi tôi chỉ còn biết tin ở tôi mà thôi!
- Như tôi nói, điểm quan trọng là bà Henderson vắng mặt từ trước đó một tuần và chỉ trở về vào đêm hôm đó, trong khi chúng tôi đi dự dạ hội vũ hóa trang. Chính vì thế mà bà không hề biết là Edith và Lucy ăn diện như thế nào... ô, tôi hiểu rồi! Mark ngưng nói và quay sang Henderson. Trừ phi trên đường từ nhà ga trở về, bác nói điều đó với bả?
- Tôi à? Không hề! lão làu bàu. Chính tôi cũng chẳng biết họ ăn mặc như thế nào nữa. Tôi có thấy họ may đồ cải trang đấy, nhưng với tôi, tất cả đều giống như nhau! Không, tôi chẳng hề nói gì!
Mark gật gù và nói tiếp:
- Sau đây là câu chuyện mà bà Henderson kể với tôi. Tối thứ tư hôm ấy, bà từ nhà ga trở về vào khoảng mười giờ kém hai mươi. Việc đầu tiên của bà là đi một vòng trong nhà để coi xem mọi việc có đâu vào đấy không. Và sau khi nhận thấy tất cả đều ngăn nắp, bà đến gõ cửa bác Miles. Ông không mở nhưng lên tiếng từ phía sau cửa. Tựa như Edith, bà Henderson thường lo ngại rằng bà chỉ nghe được tiếng gọi của bác Miles trong trường hợp ông chịu mở cửa sổ. Vì thế bà đề nghị ông ra nghỉ ở hành lang, hay tốt nhất, ở tầng dưới. Bác Miles không buồn nghe lời bà. “Chị xem tôi là một phế nhân sao, ông phát cáu. Đã bao nhiêu lần, tôi phải nhắc di nhắc lại: rằng tôi rất khỏe?" Cơn bực tức đó làm bà Henderson chưng hửng, bởi bác tôi thường rất nhã nhặn. "Tốt lắm, bà nói, nhưng tôi sẽ trở lại đây vào lúc mười một giờ để xem cụ ra sao".
Mười một giờ đêm, bà trở lại và câu chuyện bắt đầu như thế.
Kể từ một năm nay, đài phát thanh có một chương trình mà mỗi tối thứ tư, vào lúc mười một giờ, bà Henderson không thể nào bỏ qua...
- Vâng, lão Henderson nói xen vào, ở đấy chúng tôi cũng có một cái máy vô tuyến, nhưng bỏ sửa từ một tháng nay và vợ tôi được phép sử dụng cái máy ở trong nhà... Để kịp giờ, bà vội vã...
- Đúng, Mark nói, tôi phải nói cho các bạn biết rằng cái máy vô tuyến của chúng tôi được đặt ở hàng ba, trên lầu một. Tôi không mô tả chi tiết, bởi tôi có ý định đưa các bạn đến hiện trường. Tôi chỉ trình bày sơ là ở tận cùng của hàng ba có một cánh cửa kính dẫn vào phòng bác Miles. Chúng tôi thường đề nghị với ông rằng nên nghỉ ở ngoài hàng ba nhưng, vì lý do này khác, ông không thích thế và thường kéo ngang một tấm màn dày để che cửa phòng của ông.
Bà Henderson lúc đó lên lầu một. Vì sợ trễ mất giờ phát thanh, bà đến gõ cửa phòng ông bác và hỏi: "Cụ khỏe chứ?" Sau khi nghe ông trả lời: "Được, được, tốt lắm”, bà rẽ sang hành lang để vào hàng ba. Phải ghi nhận rằng ông bác tôi không hề tỏ ra khó chịu khi nghe mở máy phát thanh. Ông còn bảo rằng ông thích nghe nữa là đằng khác. Vì thế, bà Henderson khỏi sợ phải làm phiền ông. Bà bật ngọn đèn cạnh chiếc máy vô tuyến lên - cây đèn này ở đối diện với cánh cửa kính dẫn vào căn phòng, rồi ngồi xuống. Và, chỉ trong vài giây trước khi máy bắt đầu phát thanh, bà Henderson nghe có tiếng phụ nữ nói ở trong phòng bác Miles.
Điều này làm bà ngạc nhiên. Chẳng những bà biết rằng ông bác tôi không thích tiếp ai ở trong phòng của ông mà hơn nữa, tất cả đều vắng nhà tối nay. Qua ngày hôm sau bà nói lại với tôi rằng, lúc đó ý nghĩ đầu tiên của bà là người phụ nữ đó có thể là Margaret, cô bồi phòng. Bà ta biết ông bác tôi nổi tiếng về tánh phóng đãng. Margaret là một thiếu nữ xinh đẹp và bà Henderson để ý thấy đôi lúc bác Miles cũng chịu để cho cô ta vào phòng ông. (Ông cũng miễn cưỡng, chấp nhận cho y tá vào phòng, nhưng cô này thì không xinh đẹp, cũng như không thể đùa bỡn được!) Bà Henderson nhớ lại cái thái độ khăng khăng được ở một mình của cố Miles chiều hôm đó, vẻ cáu kỉnh của ông khi có người gõ cửa và cái kết luận của bà hẳn sẽ không làm ông thích thú.
Bà rón rén đứng dậy và bước đến gần cánh cửa kính. Có tiếng xì xào, như thể người phụ nữ vẫn còn nói, nhưng máy bắt đầu phát thanh nên bà không biết người đó đang nói gì. Vào lúc đó, bà nghĩ ra một cách để nhìn vào căn phòng: Mặc dầu cửa bị che màn, nhưng tấm nhung dày màu nâu sẫm này có hai khấc, một ở phía trên, về góc trái, và một khấc khác ở bên dưới phía phải, đủ để cho người ta có thể nhìn trộm. Bà Henderson lén nhìn vào cánh trái, rồi sang bên tay phải. Trong hàng ba chỉ thắp một cây đèn nhỏ, nên từ bên trong người ta khó mà trông thấy gì ở phía ngoài... Điều mà bà Henderson thấy làm nguôi ngoai những lo ngại của bà, vì cuộc thăm viếng mang tính cách thật trang trọng...
Qua cái khấc ở phía trái, bà không trông thấy gì, ngoại trừ bức tường của căn phòng. Trên bức tường này (đây là bức tường phía sau của ngôi nhà) có hai cửa sổ, và giữa hai cửa sổ là một chiếc ghế kiểu cổ có lưng ghế cao. Trên tường, được lót bằng gỗ hồ đào, có treo một bức chân dung nhỏ của Greuze mà bác tôi rất thích. Bà Henderson có thể nhìn thấy chiếc ghế cũng như bức tranh, nhưng không thấy bác Miles và người phụ nữ. Chính lúc này bà quay sang phía khấc bên phải: bà thấy chiếc giường với phần đầu của nó kê sát tường, nằm dọc theo phía tay phải của bà. Căn phòng chìm trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ đặt ở đầu giường. Bác Miles đang ngồi trên giường với cuốn sách lật úp trên đầu gối để giữ lấy trang. Ông hướng mắt về phía cửa kính nhưng không phải là để nhìn bà Henderson.
Quả thực, đối diện với ông là một phụ nữ nhỏ người, quay lưng về phía cửa tạo thành một chiếc bóng trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn. Điều kỳ lạ là bà ta không hề có một cử chỉ nào và hoàn toàn bất động. Dẫu sao, bà Henderson cũng đứng khá gần để có thể trông thấy rõ y phục của người phụ nữ đó và bà ta mô tả như sau: Hoàn toàn y hệt như bức chân dung treo ở hành lang tranh. Bà Henderson giải thích rằng bà đã liên tưởng đến bức chân dung mà người ta nghĩ là của bà Hầu tước de Brinvilliers.
Điều làm tôi ngạc nhiên là bà Henderson xem chuyện này như là một sự kỳ quặc. Dẫu sao, bà cũng biết rằng tối hôm đó, Edith và Lucy đang tham dự một buổi dạ vũ hóa trang. Vì thế, ngay cả nếu bà không biết họ ăn mặc như thế nào, thì hẳn bà cũng phải nghĩ đến họ, quả thật, bà thú nhận rằng bà có nghĩ đến họ, nhưng điều tôi muốn lưu ý các bạn là sở dĩ bà ta xem đây là một cảnh tượng “kỳ dị”,là chỉ vì nét mặt của ông bác tôi. Bà trông thấy rất rõ khuôn mặt của bác Miles, bởi ông ngồi ngay dưới ánh đèn và bộ mặt của ông lộ vẻ kinh khiếp.
Anh ta ngưng nói và trong một khoảng khắc, qua những khung cửa sổ để mở, họ có thể nghe được tiếng gió thì thầm trên hàng cây.
- Nhưng, này Mark, Stevens nói và cố che giấu nỗi bồn chồn của mình. Bà Henderson không thể cho biết rõ hơn về người phụ nữ đó hay sao? Chẳng hạn, tóc vàng hay tóc nâu?
- Đây chính là điều phiền phức, Mark đáp. Bà Henderson không thể cho tôi biết rõ được. Hình như người phụ nữ đó che lấp mái tóc bằng một chiếc khăn voan kéo dài tới phần lưng vuông của chiếc áo hở cổ.
Hẳn nhiên, tất cả những ấn tượng đó xảy ra rất đột ngột và nhanh chóng trong tâm trí của bà Henderson. Bà cũng nhận thấy rằng có một cái gì đó bất thường nơi có người phụ nữ này. Tôi phải khó khăn lắm mới làm bà xác định cái ấn tượng đó và chỉ sau nhiều ngày, bà Henderson mới chịu thú nhận: bà có cảm tưởng rằng chiếc cổ của người phụ nữ đó không gắn liền với đôi vai của bà ta.
Căn Phòng Rực Lửa Căn Phòng Rực Lửa - John Dickson Carr Căn Phòng Rực Lửa