He fed his spirit with the bread of books.

Edwin Markham

 
 
 
 
 
Tác giả: Laurent Gaudé
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: La Mort Du Roi Tsongor
Dịch giả: Tô Châu
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 7
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2020-11-02 22:24:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
uộc vây thành Massaba
Sáng sớm ngày thứ hai, chiến tranh lại tiếp tục và tiếng kêu than dậy lên từ mặt đất bị tàn phá. Quân của Sango Kerim sẵn sàng chiến đấu từ tảng sáng. Họ cảm thấy được số phận nâng đỡ. Họ cảm thấy điều ấy trong làn gió vuốt trên da thịt họ. Không gì có thể ngăn họ. Họ là đoàn quân xô bồ của những kẻ ngoại quốc đến từ bốn phương để đánh sập các toà tháp cao nơi thành bang Massaba.
Về phía Massaba, Sako và Liboko liên kết với Kouame. Hai quân đội đi cùng với nhau. Quân của vùng đất muối với Barnak, Arkalas và Kouame, và quân của Massaba. Tramon chỉ huy đội cận vệ đặc nhiệm. Liboko chỉ huy đội quân trắng và đỏ. Gonomor thủ lĩnh đoàn người - dương xỉ. Đó là khoảng một trăm người che lá chuối toàn thân, cổ đeo những chuỗi vòng ốc nặng trĩu và tay cầm những chiếc chùy lớn mà không ai ngoài họ có thể sử dụng được. Khi những chiếc chùy đó giáng xuống đầu kẻ thù, tiếng đập vang khủng khiếp như tiếng chày nện đá.
Hai đội quân đối đầu nhau trên bình nguyên Massaba. Trước khi tín hiệu tấn công được tung ra, Bandiagara xuống ngựa. Ông xuất thân từ một dòng tộc có phép thuật. Chỉ được dùng bùa phép một lần thôi. Truyền từ đời cha sang đời con. Ông cảm thấy rằng đã đến lúc kêu gọi thần linh tiên tổ để đánh một đòn bùa chú vào quân đội kẻ thù. Ông quỳ xuống và rót rượu cây bao báp lên đất. Ông bốc đất bôi lên mặt, nhắc đi nhắc lại: “Chúng con là con trai thần bao báp, không ai có thể hủy hoại được vì chúng con đã được nuôi nấng bằng các rễ chua của tổ tiên, chúng con là con trai thần bao báp, không ai có thể…” Rồi ông áp sát người xuống đất nghe xem tổ tiên ông nói gì. Họ sẽ cho ông biết cái từ không được nói ra để ông sẽ viết vào không khí lúc lâm trận, đặng thực hiện phép màu của mình. Chỉ sau khi làm xong điều đó, ông lại lên ngựa và Sango Kerim phát lệnh tấn công.
Quân đội du mục lao như một bầy ong ăn thịt người vào hàng quân đối địch. Quân của Kouame và Sako chờ sẵn, chân bám chắc trong đất, không cựa quậy. Họ cầm chắc khiên trong tay, sẵn sàng đỡ đòn. Khi nhìn thấy đoàn chùy và giáo ào ào xông tới, họ cầu nguyện cho linh hồn hòa hợp với đất mẹ. Sự va đập thật khủng khiếp. Các con vật trong đà tiến quật ngã binh lính và làm vỡ tung các tấm khiên. Quân Massaba bị xéo ngập trong vó súc vật. Những kẻ tấn công như một làn sóng mà không ai ngăn cản được, giẫm đạp lên họ. Nhiều kẻ bị giết, xác tơi tả dưới sức nặng của kẻ thù, hoặc bị chết ngạt trong đám hỗn quân hỗn quan, hoặc bị nghiến nát dưới các cỗ xe tấn công trực diện. Cuộc tấn công này đánh vào hàng ngũ quân Massaba như một quả chùy đập vào giữa đầu. Và quân giữ thành lùi lại trước sức tiến mạnh mẽ của kẻ thù. Thế là bắt đầu trận giáp lá cà kinh tởm của các chiến binh cứa cổ nhau. Người của Kouame và Sako chết như ngả rạ. Họ sợ. Cơn sóng người này đã làm họ choáng ngợp trước khi kịp hoảng hốt. Họ chiến đấu không chắc chắn. Thân xác họ ngập ngừng. Họ đưa mắt tìm kiếm hỗ trợ trong khi quân du mục trước mặt tiếp tục tiến lên trong cuồng nộ. Chỉ có những người nhai khat là dũng cảm chiến đấu. Thứ ma túy này làm tan biến nỗi sợ trong họ. Họ chỉ nghĩ tới việc ra đòn.
Các chiến binh chó cái của Arkalas hăng hái chiến đấu. Nhưng một số phận kinh khủng đang chờ đợi họ. Bandiagara nhìn họ, hàng nghìn con người nửa đực nửa cái này làm ông ghê tởm và ông vẽ lên không trung cái từ bí ẩn mà tổ tiên ông đã truyền cho. Đột nhiên, tâm thần của những con người này bấn loạn. Họ nhìn nhau và thấy người anh em của mình bỗng thành một kẻ thù cần phải giết. Các chiến binh chó cái lao vào nhau, vững tin rằng mình đang chiến đấu, để mặc kẻ thù thực sự bên mình. Cảnh tượng một đạo quân tự chém giết nhau sao mà ghê sợ đến thế. Những chiến binh của Arkalas, tóc tai chải chuốt, trang sức rỡ ràng, lao vào nhau và cắn xé nhau tới chết. Họ cười rú lên man dại mà giết lẫn nhau. Đôi khi lại còn nhảy múa trên xác người bạn thuở ấu thơ. Và chính Arkalas, như một con quái vật điên rồ, nhìn quanh tìm những kẻ cùng dòng giống với mình, để xẻ bụng kẻ đó và uống máu. Khi phần còn lại của quân Massaba hiểu rằng không những quân của Arkalas không tiếp tục chiến đấu mà chỉ đánh giết lẫn nhau, toàn quân trở nên hoảng loạn. Mọi người vội vàng bỏ chạy để tránh bị giết. Tiếng kêu tức tối của Kouame không ngăn cản được họ. Ai cũng chỉ lo cứu mạng mình. Kỵ sĩ thúc ngựa. Binh lính ném khiên và vũ khí xuống để chạy nhanh hơn. Tất cả đều đổ về cổng thành Massaba để trốn chạy. Tramon bị giết. Bị Sango Kerim chặn đường cắm phập ngọn giáo dài vào giữa lưng. Cuộc đời bỏ anh ta ra đi, anh lăn xuống đất, mang theo ngọn giáo trên sống lưng.
Quân đội bị đánh tan, bị kẻ thù cầm kiếm ngắn đuổi theo sát sạt và phạt đứt thây kẻ nào chậm chân. Chỉ còn Arkalas, người chiến binh khủng khiếp và nực cười là còn chiến đấu. Ông giết người lính cuối cùng của ông bằng một đòn chuỳ đập vỡ sọ. Chỉ khi đó bùa phép của Bandiagara mới hết linh nghiệm và Arkalas tỉnh lại. Ông nhìn thấy dưới chân mình hàng chục người thân. Ông đứng trên một đống xác. Và máu chảy trên mặt ông mang vị quen thuộc của bạn bè. Có lẽ ông sẽ còn đứng đó, tê dại trong kinh hoàng, đầu lắc lư, mặt đầm đìa nước mắt nếu Gonomor không đưa ông đi cùng đám tùy tùng người - dương xỉ vào trong thành Massaba.
Khi người lính cuối cùng đã chạy vào thành và cánh cổng nặng nề đã đổ xuống, một tiếng kêu vui mừng ngợp đất vang lên trên bình nguyên. Phân nửa quân của Massaba đã bị giết. Trong thành không ai cất lời. Các chiến binh đang lấy lại hơi sức và khi đã thở lại được, họ khóc. Trong im lặng. Tay họ, chân họ, đầu họ run rẩy như thân xác của kẻ bại trận.
Trong cuộc rút lui hoảng loạn, quân của Kouame đã bỏ doanh trại trên các đồi phía nam Massaba và họ đành chán ngán nhìn từ trên tường thành các kỵ sĩ của Rassamilagh vòng quanh thành phố, chiếm lều trại, lương thực và vật cưỡi của họ. Họ mất hết. Chẳng còn biết làm thế nào. Những tiếng hú mừng vui vọng lên càng khiến họ tuyệt vọng. Nhất là Arkalas trông thật thảm hại. Ông đi lang thang trên các tường thành, miệng lẩm bẩm tên các bạn hữu của mình. Ông rú lên vì đau đớn và cào xé thịt da, nguyền rủa đất trời. Ông nôn thốc tháo ra ngoài tường thành khi nhớ tới những gì mình đã làm. Ông đập đầu vào tường trong tiếng hú thảm thiết.
“Bandiagara, hãy chờ để đau khổ. Bandiagara, mày sẽ van xin được chết khi ta tóm được mày. Cầu cho ta trở thành tai họa khủng khiếp đối với kẻ thù. Cầu cho ta không sợ hãi đòn thù và không bao giờ lùi bước.”
Nỗi bàng hoàng đè nặng lên Massaba. Bất hạnh bóp nghẹt mọi tâm trí. Đàn ông không muốn gì nữa hết. Họ không còn sức. Có lẽ họ đã chìm đắm trong yếu đuối nếu như Barnak, ông già nhai lá khat, không đứng dậy và lôi họ ra khỏi sự đờ đẫn. Ông nói về những điều cần phải làm. Về thời gian là quý và việc cần phải tổ chức cho cuộc chiến ngày mai. Dưới sự thúc giục của ông già tóc dựng đứng, mắt đảo đồng địa vì lá khat, toàn thành Massaba như thức tỉnh và chuẩn bị cho cuộc chống phong tỏa. Mọi người dân đều tham gia. Hàng đoàn dài người cả đàn ông lẫn đàn bà làm việc suốt đêm. Các cổng được gia cố. Những chỗ vỡ trên tường thành được hàn lại. Việc phân chia khẩu phần ăn được tiến hành. Người ta cho xếp lương thực vào các hầm rộng thênh thang của lâu đài. Lúa mì. Lúa mạch. Các thùng đựng dầu. Bột. Các hầm trong nhà dân được chuẩn bị làm nơi chứa nước. Toàn thành phố mang dáng vẻ một pháo đài. Tiếng vũ khí lách cách vang khắp các phố dồn theo tiếng vó lừa ngựa. Mọi người chuẩn bị cho một cuộc phòng thủ lâu dài. Nó sẽ vạch thêm nhiều nếp nhăn trên mặt người dân và làm rạn nứt tường thành bằng đói kém.
Đêm hôm đó, sau cuộc cướp phá trên các đồi phía nam của Rassamilagh, quân du mục tổ chức họp hội đồng. Họ chia nhau các chiến lợi phẩm. Rồi trong khi Sango Kerim, Danga và Bandiagara đang uống rượu làm bằng quả dâu mọc trong cát, Rassamilagh đứng dậy và tuyên bố:
“Sango Kerim, thứ rượu ngọt mà anh đang uống là rượu mừng chiến thắng và tôi cầu phúc cho cái ngày này đã để cho quân ta chọc thủng phòng tuyến quân thù. Bây giờ chúng ta phải quyết định xem nên làm gì ngày mai. Về phần tôi, tôi sẽ nói ngay không vòng vo. Tôi nghĩ kỹ rồi. Nên nhổ trại thôi. Nên rời khỏi đất này. Chúng ta đã giành được cái mà chúng ta muốn. Chúng ta đã hạ nhục kẻ thù qua chiến trận. Anh đã có được người vợ mà vì nàng mà anh đến đây. Chúng ta chẳng còn cần gì ở cuộc chiến tranh này nữa cả.”
Bandiagara nhảy dựng lên trên ghế và đáp luôn:
“Sao ông lại nói thế được nhỉ? Ông là loại chiến binh gì mà lại không muốn kiếm chiến lợi phẩm đúng lúc ông vừa chiến thắng? Massaba ở kia. Thành phố đó là của chúng ta. Phần thưởng cho các trận đánh đang chờ chúng ta. Phần tôi, tôi ở lại, tôi chờ đến ngày được nhận phần của mình do Sango Kerim trao cho. Và tôi sẽ cố gắng để ngày đó sẽ là ngày mai.
- Ông ấy nói đúng đấy, - Danga thêm. - Điều khó nhất chúng ta đã làm được rồi. Chỉ còn việc chiếm Massaba thôi. Tôi sẽ tự tay mở cổng thành này cho các ông.
- Tôi không chiến đấu vì chiến lợi phẩm, - Rassamilagh nói, - tôi chiến đấu vì Sango Kerim đã yêu cầu tôi. Anh ta đến đòi một người vợ đã được hứa gả cho anh ta. Cô gái ấy đang ở cùng chúng ta. Tôi không phải đến đây để chiếm một thành phố. Nếu thế thì lại là một cuộc chiến tranh khác bắt đầu ngày hôm nay rồi. Tôi không rõ những gì sẽ chờ đợi chúng ta.
- Quyền lực”, Danga lạnh lùng nói.
Rassamilagh nhìn Danga rất lâu. Không hằn thù. Nhưng cảnh giác.
“Tôi không quen anh, Danga, - cuối cùng ông nói. - Chúng ta liên kết với nhau vì tình bạn chung của chúng ta với Sango Kerim, nhưng tôi không đánh nhau vì anh. Chẳng dính líu gì đến tôi việc anh hay là ông anh của anh trị vì ở thành Massaba. Chớ có quên, Danga, tôi không làm gì cho anh hết.”
Và thế là Sango Kerim lên tiếng:
“Rassamilagh, tôi có mặt mũi nào mà lại bỏ đi đêm nay, đưa theo người vợ mà vì nàng tôi đến đây, đưa đi như một tên ăn trộm vậy? Nàng là công chúa con vua Tsongor. Tôi không muốn dành đồ sính lễ cho nàng bằng những nẻo đường du mục mà phải là đô thành của nàng. Nàng sẽ không thể sống được ở nơi khác. Cha nàng dù đã chết vẫn sẽ nguyền rủa tôi nếu ông biết rằng tôi biến con gái cưng của ông thành một người đàn bà du mục. Thành phố này là của chúng ta. Nếu chúng ta không chiếm được nó coi như là không có chiến thắng.
- Tôi đã nói điều tôi muốn nói và tôi không tiếc đã nói ra điều đó, - Rassamilagh đáp. - Chẳng lý lẽ nào của các anh thuyết phục được tôi cả. Tôi nghe có mùi thèm chiến thắng trong giọng các anh. Tôi nhận biết điều này. Hóa ra chỉ có tôi là người duy nhất nghĩ tới việc ra đi. Xin đừng ngại. Tôi sẽ ở lại. Vì Rassamilagh không phải là thằng hèn. Nhưng hãy nhớ lại cái đêm nay, lẽ ra mọi việc đã có thể dừng ở đây. Cầu sao cho chúng ta không bao giờ phải nhớ tiếc vị rượu ngọt đêm nay.”
Thế là chiến tranh tiếp tục. Và sáng hôm sau quân đội du mục lại xuất hiện trước tường thành Massaba. Quân trong thành dồn hết lên mặt thành. Suốt đêm họ đã chuẩn bị nhiều nồi dầu sôi và đá tảng để đẩy lui các đợt tấn công của kẻ thù.
Đúng lúc Sango Kerim chuẩn bị ra lệnh tấn công thì có tiếng thét vang lên trong hàng ngũ các chiến binh. “Quân Mặt tro! Quân Mặt tro!”
Mọi người quay cả lại. Một nhóm người đang tiến đến ngọn đồi xa nhất. Thủ lĩnh người Mặt tro là Orios. Họ là một bộ lạc hoang dã sống trong vùng núi Krassos. Họ đã hứa sẽ giúp Sango Kerim nhưng mãi không tới. Quân của họ gồm khoảng hai ngàn chiến binh đáng gờm. Sango Kerim mỉm cười và đứng lên chào Orios. Các kỵ sĩ Mặt tro đang đến gần, nhưng họ càng đến gần thì trong quân của Sango Kerim tiếng rì rầm kinh ngạc nổi lên càng rõ. Đây không phải là đạo quân chính của Orios đang sáp tới mà là một nhúm người đầy bụi bậm. Họ chỉ có khoảng trăm người. Mặt hốc hác. Vũ khí cùn nhụt. Một nhóm nhỏ kỵ sĩ đờ đẫn. Orios tiến tới chỗ Sango Kerim và nói:
“Xin chào anh, Sango Kerim. Xin đừng nhìn tôi như vậy. Tôi biết là anh chờ đợi tôi với nhiều quân hơn thế này. Tôi sẽ kể cho anh, nếu anh muốn và nếu thần linh còn để cho tôi được sống, tôi sẽ kể cho anh tất cả những khó khăn thử thách mà chúng tôi đã phải chịu để đến được đây. Chỉ xin biết rằng lúc tôi rời khỏi núi Krassos thì toàn quân vẫn còn nguyên vẹn, thế mà hôm nay chỉ còn lại có ngần này người thôi. Nhưng những chiến binh đứng trước anh đây đã trải qua rất nhiều trận đánh, nhiều thiếu thốn và gian khổ để tới được đây nên chẳng gì có thể ngăn bước họ được. Mỗi người còn đáng giá bằng cả trăm người của anh.
- Xin chào anh, Orios, anh và toàn thể chiến binh của anh. Tôi khao khát được nghe câu chuyện của anh khi nào chúng ta đã san bằng được thành Massaba. Giờ anh hãy về doanh trại chúng ta nghỉ ngơi đã. Cho ngựa, lạc đà ăn. Chờ tới khi mặt trời lặn và chúng tôi trở về. Rồi chúng ta sẽ cùng uống chung ly bằng hữu và tôi sẽ rửa đôi chân đã đạp qua muôn trùng gian khó, để cám ơn anh về lòng tận tụy đối với tôi.
- Tôi không vượt qua cả ngàn dặm để đi ngủ trong khi bạn bè đang chiến đấu, - Orios đáp. - Trăm người của tôi, như tôi nói, đã trở thành những con thú dũng mãnh mà không gì làm cho mệt mỏi được. Cho tôi biết đoạn tường nào mà chúng tôi phải phá đổ và phát lệnh tấn công cho chúng tôi đi.”
Sango Kerim gật đầu đồng ý và xếp đoàn quân Mặt tro đứng cạnh mình. Vững vàng với lực lượng tăng cường này, anh lao ra bình nguyên, kéo theo hàng ngàn người ồ ạt giày xéo mặt đất.
Toán quân chính đánh vào cổng lớn với ý định phá cho được cổng. Trong khi đó, Danga vốn biết rõ thành Massaba hơn ai hết, lại định sẽ tiến vào qua cổng cũ phía tháp canh. Mọi thứ dường như rất thuận lợi cho quân du mục. Trong khi quân trong thành dồn về phía đông để cố gắng ngăn làn sóng tấn công thì Danga và đội cận vệ riêng dễ dàng phá được chiếc cổng gỗ đã mục nơi chân tháp, và cuộc chiến đấu diễn ra trong các đường phố đầu tiên bị vỡ này của Massaba. Tin được đưa ngay lập tức tới Sako và Kouame. Cổng tháp đã bị phá và Danga đã vào trong thành. Họ chỉ có rất ít người chống cự lại. Rút quân từ trên tường thành về sẽ dễ bị kẻ thù tràn ngập tới. Họ bèn ra lệnh cho ông già Barnak và các chiến binh nghiện khat một mình chống cự lại Danga. Đám quân đó còn có thêm Arkalas gia nhập và ông này, từ lúc chiến cuộc bắt đầu lại, đánh hăng như bị quỷ nhập.
Trận chiến khủng khiếp kéo dài cả ngày. Arkalas và Barnak kiên cường chống lại cuộc tấn công nóng nảy của Danga. Họ tạo thành một bức tường không thể vượt qua. Danga tức tối. Lâu đài ở ngay kia. Cách có dăm trăm mét thôi. Anh đã nhìn thấy lâu đài. Chỉ cần vượt qua được nhúm người này là sẽ lấy được thành phố của ông anh. Nhưng Danga không làm thế nào được. Arkalas chiến đấu như một người điên. Ông hô hét kẻ thù, khiêu khích họ, xông tới nếu họ chùn chân. Còn ông già Barnak, say trong thuốc phiện, như nhảy múa giữa những xác chết. Không một ngọn giáo nào, không một mũi tên nào có thể chạm tới được ông. Ông đỡ được tất cả mọi đòn đánh. Và các đồng đội của ông dường như sôi lên trong sức mạnh của những vũ công đang cơn lên đồng. Danga dần dần phải lùi bước. Quá tức giận vì không vào được Massaba, anh ra lệnh cho quân bắn tên có lửa vào các ngôi nhà lân cận. Anh châm lửa vào chỗ nào châm được và lửa như một vết hoại thư, lan từ mái nhà này sang mái nhà khác, tỏa ra một làn khói dày đặc. Dân chúng hoảng hốt chạy từ chỗ này sang chỗ khác, với chỉ lèo tèo vài thùng nước nhỏ nhoi. Arkalas và Barnak đã đẩy lùi được Danga và đắp lại chỗ tường vỡ, nhưng lửa giờ đây đã lan khắp đô thành.
Chỉ khi họ đã quay lên đồi vào cuối ngày thì Sango Kerim và quân lính mới nhận ra thành Massaba đang cháy. Họ thấy hàng ngàn người đang cố gắng chống lại những ngọn lửa cao hơn cả các tòa tháp. Những tầng khói nặng nề bốc lên từ Massaba mang mùi của những ngôi nhà biến mất trong biển lửa. Đêm xuống và Massaba hú lên như một người bị bỏng vào mặt.
Khi Danga về đến doanh trại, đầy vui sướng vì nỗi kinh hoàng mình đã gây ra trong thành phố, thì Samilia đã đứng đợi. Bất động, mắt nhìn chằm chằm vào anh trai. Khi anh ta xuống ngựa, nàng tát anh trước tất cả quân của anh và trước mặt tất cả các thủ lĩnh có mặt.
“Ngươi đã để tang cha như thế đấy. Ta phỉ nhổ lên đầu ngươi, kẻ đã nghĩ ra được một trò ngu xuẩn đến thế.”
Sango Kerim ân hận trước cảnh những ngọn lửa tàn phá đô thị thời ấu thơ của mình, hứa với Samilia là sẽ không tấn công chừng nào dân trong thành chưa chữa cháy xong. Nhưng nét mặt Samilia như được che phủ bởi một chiếc mặt nạ âu sầu không gì xoá đi được.
Trong phòng tang của lâu đài, Katabolonga đến gần xác nhà vua. Ông áp những dải vải ướt lên thân người chết để xác ông không bị phồng rộp và bắt lửa. Tsongor liền hỏi Katabolonga muốn làm gì với thân xác đã chết của ông.
“Katabolonga, ngươi làm thế để làm gì? Định vuốt ve xác ta ư? Bôi dầu cho ta ư? Ta không cảm thấy gì hết. Ngươi không cần phải chăm sóc ta thế đâu. Trừ khi là thời gian trôi nhanh hơn ta tưởng và xác ta bắt đầu rữa mặc dù đã được tẩm liệm kỹ càng bằng các loại dầu sáp. Ngươi làm gì vậy, Katabolonga, tại sao không trả lời ta?”
Katabolonga nghe tiếng Tsongor nhưng không thể cất tiếng trả lời. Môi ông run rẩy. Ông cúi gằm mặt và tiếp tục tẩm nước cho xác chết. Nóng quá. Và mồ hôi chảy ròng ròng trên trán ông. Từng giọt mồ hôi hòa quyện với nước mắt mà ông không kìm lại được. Từng giọt từng giọt rơi xuống thân hình đức vua già. Mang lại cho cái xác đôi chút mát. Tsongor lại càng lo lắng về sự im lặng này.
“Tại sao ngươi không nói, Katabolonga? Có chuyện gì xảy ra với Massaba?”
Katabolonga không thể im lặng lâu hơn nữa.
“Nếu da ông cảm nhận được nóng và lạnh, ông sẽ không hỏi tôi, Tsongor ạ. Nếu ông có thể hít được không khí trong phòng này, tôi chẳng có gì để báo cho ông nữa.
- Ta chẳng cảm nhận được gì, Katabolonga. Nói đi, nói cho ta biết.
- Tsongor, mọi thứ đều bốc cháy. Massaba chìm trong biển lửa. Và cả tận góc sâu tít này, hơi nóng làm tôi phát ho. Vì thế mà tôi phải xuống đây luẩn quẩn quanh ông. Ông không cảm thấy gì hết. Da ông nóng rẫy. Như đá xung quanh đây. Rồi ông sẽ phồng rộp lên và bốc cháy nếu tôi không làm những việc cần thiết phải làm cho ông. Tôi phủ người ông bằng băng vải thấm nước. Tôi té nước lên xác ông. Để ông đừng bén lửa.”
Nhà vua già sững sờ câm nín. Trong đêm sâu thăm thẳm của mình, ông nhắm mắt. Giờ đây, dường như ông đã cảm thấy mùi của hỏa hoạn. Ông để nó thấm đẫm toàn thân ông. Đúng rồi. Bây giờ là mùi khói nồng nặc, kịt lại. Đối diện với những ngọn lửa cao đang nhảy múa. Mùi khét tỏa khắp nơi, ông ngửi thấy nó. Và ông lại nhẹ nhàng cất tiếng, như một người mộng du đang hoảng sợ trước giấc mơ ông phải đi qua.
“Đúng rồi. Ta đã thấy. Mọi thứ đều bốc cháy. Những ngọn lửa mới đầu còn nhỏ nhưng gió thổi và chúng bay nhảy từ mái nhà này sang mái nhà khác, ngoạm từng mảng lớn thành phố của ta. Lâu đài của ta đang cháy. Lửa liếm lên tường và bám vào các tấm thảm treo, chúng sẽ rơi xuống đất trong vầng tia lửa tóe lên. Đúng, ta thấy. Từ sân thượng lâu đài, cả một biển lửa mênh mông đang tràn dưới chân ta. Các ngôi nhà từ từ sụp xuống trong tiếng thở dài của gỗ. Trong các khu phố bình dân, gần như chẳng có gì sót lại. Lửa lan ở đó nhanh hơn nơi khác. Người ta ít xây tường đá ở đấy lắm. Khu ấy chỉ có các lều gỗ, quán hàng và các lều vải chất chồng xen nhau thôi. Mọi thứ đã biến hết rồi. Đúng, ta thấy. Mọi người đang vật lộn chống lại những bức tường lửa. Mọi thứ đều cháy và than van. Thành phố của ta. Đô thành tội nghiệp của ta. Ta đã xây dựng nó. Năm này qua năm khác. Chính ta đã vẽ sơ đồ. Ta đã trông coi công việc. Ta đã sải bước qua từng con phố và biết rõ từng ngóc ngách. Nó là bộ mặt của ta dựng lên bằng đá. Nếu nó cháy, Katabolonga, nếu nó cháy tức là đời ta cũng tan tành theo khói. Ta đã muốn xây nên một vương quốc mênh mông không giới hạn. Muốn xây nên một đô thành khiến cho cha ta và vương quốc nhỏ bé của người chìm vào tiền sử xa xôi. Nếu Massaba cháy, ta cũng trở thành nhỏ nhoi như cha ta. Ta sẽ giống như cha ta, là bạo chúa trên một mảnh đất xấu xí và vụn hẹp. Nếu thành đô đã cháy, ta còn có để lại được gì cho con cháu ta.
- Ông đã để lại, Tsongor, nhưng người ta đã đốt mất tặng vật của ông rồi.”
Tsongor lại im lặng. Katabolonga đã xong việc. Xác nhà vua bây giờ đã đủ độ ẩm và không dễ bắt lửa được nữa. Rồi ông nghe thấy Tsongor lại nói. Giọng ông thật xa xôi. Katabolonga phải cúi sát xuống gương mặt người quá cố để nghe tiếng ông thì thầm.
“Đây rồi, ta nhìn thấy họ rồi. Họ đang đến. Họ xuống đây rồi. Những người chết thiêu đầu tiên của thành Massaba. Đàn bà. Trẻ con. Cả những gia đình với bộ mặt hóa than. Thần dân của ta đó. Ta nhận ra họ. Lửa đã giết họ. Da họ tan nát và ánh mắt họ lờ đờ. Ta là vua của một dân tộc chết cháy, Katabolonga ạ. Ngươi có nhìn thấy họ như ta không? Ngươi nhầm rồi Katabolonga. Không phải ướp vải ướt cho ta. Da ta đâu cần thấm nước. Phải vuốt nước cho những người bị bỏng ở Massaba. Ngươi có nhìn thấy họ không? Ta không sao đâu. Các ngươi có thấy gì không? Ta chẳng có gì dành cho các ngươi được nữa. Nhưng ta khóc than cho các ngươi, hỡi những người chết cháy ở Massaba. Và ta gieo từng hạt nước mắt trên thân thể các ngươi, mong làm nhẹ bớt nỗi đau.”
Giọng Tsongor chìm dần. Katabolonga ngẩng dậy, ông thấy xác nhà vua đang khóc. Những giọt nước mắt to nặng mong làm nhẹ bớt nỗi đau của những kẻ chết cháy. Trong khi đó bên ngoài lâu đài, thành phố vẫn quằn quại trong lửa.
Nhà cửa trong thành cháy cả tuần ròng rã. Chiến tranh cũng tạm ngừng trong suốt tuần. Quân dân trong thành vật lộn đêm ngày chống thần hỏa. Và quân du mục sững sờ nhìn cảnh cả thành phố huy hoàng bằng đá trắng tan thành khói. Đến ngày thứ bảy, lửa đã được dập. Dân Massaba ai ai cũng đen nhẻm vì khói lửa. Tóc cháy khét, da bì lên vì hơi nóng, quần áo đầy bụi và bồ hóng. Họ kiệt quệ. Nhiều con phố phủ toàn tro than. Nhiều nhà sập. Bóng một vài cột nhà đen sì dựng đứng trong những đống đá đổ nát. Một phần các kho dự trữ đã bị phá hủy. Chẳng còn lại gì ngoài hình ảnh khủng khiếp của các ngọn lửa cao ngời ngợi nhảy múa trong tâm khảm những cư dân đã kiệt sức.
Trong khi Massaba cháy, Souba vẫn tiếp tục hành trình. Anh đến gần Saramine, thành phố trên cao. Từ xa anh đã nhìn thấy những bức tường thành màu trắng. Sau Massaba, Saramine là viên ngọc thứ hai của vương quốc. Một thành phố xinh đẹp xây trên núi đá màu nhàn nhạt chuyển ánh hồng mỗi lúc chiều tà. Thành phố mọc ra bên vách những đỉnh núi đá hẹp trông xuống biển.
Ông già Tsongor rất thích Saramine. Ông thường hay đến đây. Không bao giờ ra lệnh thay đổi chút gì. Suốt đời ông đã cố tình tránh không can thiệp vào việc cai quản thành phố. Sao cho không chút gì trong thành mang dấu ấn của ông. Ông không muốn thành phố này thành của riêng mình. Ông thấy nó đẹp vì khác với chính ông. Và cũng vì thế mà ông thích tới đây. Nơi ông như một người ngoại bang. Tò mò được khám phá từng tòa nhà. Ngây ngất trước kiến trúc, trước ánh sáng, trước sự thanh lịch được ông để ý giữ gìn mà không chịu chút ảnh hưởng nào của ông. Ông đã ban tặng thành phố này cho một trong những đồng đội từ thuở còn hàn vi: Manongo. Nhưng sau vài năm trị vì, Manongo chết vì sốt. Theo tục lệ thì Tsongor sẽ chỉ định một vị chúa tể khác cho Saramine, một đồng đội lâu năm khác, để cám ơn người đó vì lòng tận tụy, và tỏ cho ai ai cũng biết rằng Tsongor biết ban phần thưởng như thế nào cho tùy tùng của mình. Nhưng ông không làm thế. Cư dân nơi đây đã gắn bó với Manongo, với sự cai trị khoan dung của ông. Mọi người sùng kính ông. Ông điều hành thành phố với trí thông minh và sự hào hiệp. Tsongor thân chinh đến dự đám tang Manongo. Ông cùng thương khóc với dân thành Saramine. Ông im lặng sải chân qua nhiều con phố. Dưới ánh nắng. Giữa một đám đông khóc than. Ông hiểu người đồng đội cũ đã được toàn dân yêu mến đến mức độ nào và quyết định quyền thừa kế sẽ thuộc về Shalamar, vợ góa của Manongo. Ông biết rõ bà, người đã theo chồng trên mọi nẻo đường chinh chiến. Trong từng chiến dịch. Trong những lâu đài. Chia sẻ nỗi sợ hãi của những năm chiến tranh và sự hào hoa lộng lẫy của những năm trị vì. Shalamar không đòi hỏi gì. Bà là người phụ nữ đầu tiên và duy nhất trong vương quốc được ban tặng như vậy. Thần dân Saramine vui mừng đón nhận quyết định này của Tsongor. Nhiều năm tháng trôi qua và Shalamar cai trị đô thành với lòng yêu thương. Mỗi khi Tsongor đến thăm, ông đều tỏ ra khiêm nhường. Tự coi mình là khách chứ không phải là một vị vương chủ. Ông bao giờ cũng muốn như thế. Để cho Saramine được phồn vinh trong tự do đầy bao dung.
Khi Souba tiến vào trong tòa thành cheo leo, tin cha anh mất đã tới trước. Dường như thành phố đang chờ đợi anh. Trên phố lớn, các quảng trường, các ngã tư, đám đông nhìn Souba tiến lại gần. Mọi hoạt động đều tạm ngưng. Chẳng ai lên tiếng nữa.
Shalamar đón khách trên thềm cao của lâu đài. Từ đây có thể nhìn thẳng xuống biển, nơi vài con chim biển đang chao lượn. Shalamar bận đồ đen. Khi thấy Souba, bà đứng dậy khỏi ngai vàng và quỳ xuống. Ông hoàng trẻ ngạc nhiên vì cử chỉ đó. Cha anh vẫn nói rằng Shalamar là một nữ hoàng vĩ đại. Anh chỉ thấy một bà già, lưng đã còng và bà cụ kiêu hãnh đó quỳ trước mặt anh. Anh hiểu rằng bà quỳ xuống trước hình bóng của Tsongor và anh nhẹ nhàng cẩn trọng cúi xuống nâng bà dậy, đưa bà trở lại ngai vàng. Bà bày tỏ với anh lời chia buồn của thần dân. Và vì Souba không nói gì, bà cho đòi một người hát trong cung đình tới để hát cho bà và anh một bài ca tang lễ. Trên thềm cao như ngự trị toàn thế giới, với sóng biển vỗ vào vách đá dưới chân núi, Souba để mặc tâm trí hòa vào với lời ca và nỗi buồn. Anh khóc. Như thể là cha anh mới vừa qua đời ngày hôm nay. Quãng thời gian anh đi từ Massaba tới đây không giúp làm nguôi ngoai được chút gì. Nỗi đau vẫn còn đây. Đến mức ngạt thở. Dường như không bao giờ anh có thể quen với việc này. Shalamar mặc cho anh khóc. Bà kiên nhẫn chờ, và nhớ lại những phút giây có mặt Tsongor. Một lát sau, bà gọi Souba đến bên mình, nắm hai tay anh như nắm tay một đứa trẻ và dịu dàng như một người mẹ hỏi anh liệu bà phải làm gì cho anh. Anh muốn gì cũng được. Nhân danh cha anh. Và kỷ niệm về ông. Saramine sẽ làm tất cả. Souba xin cho tổ chức mười một ngày tang lễ trong thành phố. Có các lễ hiến tế. Anh xin để Saramine cùng chia sẻ nỗi tang tóc của Massaba, thành phố chị em của nó. Rồi anh lại im lặng. Anh chờ Shalamar ban lệnh ngay lập tức nhưng bà không nói gì. Bà nhìn bóng các tháp cao và các sân thềm nổi bật trên màu xanh thẳm của trời và nước. Rồi bà quay về phía Souba. Nét mặt bà đã khác. Không phải là một bà cụ già đang buồn rầu nữa. Có điều gì đó cứng rắn và kiêu hãnh toát ra trên gương mặt. Và bà bắt đầu nói bằng giọng trầm trầm mang nặng những nỗi đau đớn và ngọt ngào của cả một cuộc đời.
“Hãy nghe ta, Souba, hãy nghe những gì ta sắp nói. Như một người con đang nghe mẹ. Những điều con xin, nhân danh Tsongor, ta sẽ làm theo. Nhưng con hãy đừng xin ta điều đó. Con không cần ra lệnh cho Saramine để tang. Tsongor đã chết và đối với ta, đó như cả một phần của cuộc đời ta vừa lướt vào trong sóng. Chúng ta sẽ khóc than ông. Và nỗi tang tóc trong chúng ta sẽ còn kéo dài hơn cả mười một ngày. Hãy để cho chúng ta lo việc đó. Để cho chúng ta tổ chức tang lễ như chúng ta muốn. Và con sẽ thấy cha con được khóc thương đúng như ông xứng đáng. Hãy nghe ta Souba, hãy nghe bà cụ Shalamar này. Ta biết cha con. Nếu ông sai con đi trên khắp nẻo đường của vương quốc, đó không phải để con mang tin ông chết đến mọi nơi. Ông không cần con để báo cho toàn vương quốc phải bắt đầu khóc lóc. Ta biết cha con. Ông không thể nào nghĩ rằng cần phải có một người con trai ông tới báo thì Saramine mới thương khóc ông. Ông mong chờ điều khác ở con. Việc tang lễ, hãy để chúng ta lo. Chúng ta sẽ làm tròn. Hãy để việc đó lại đây. Tại Saramine này. Cha con không nuôi con lớn lên chỉ để khóc. Đã đến lúc con phải rũ bỏ cái tang này. Đừng giận vì những lời ta nói. Ta cũng đã nhiều lần phải chịu nỗi đau mất mát. Ta nhiều lần biết tới nỗi choáng váng cuồng xoay của đau thương. Con phải tự lắc mình cho tỉnh và rũ bỏ những lời than khóc đi. Đừng quá kiêu hãnh vì đã mất tất cả. Tsongor cần có một người con trai, không phải một người đàn bà sướt mướt.”
Bà im lặng. Đầu Souba ong ong lên. Nhiều lần trong lúc Shalamar nói, anh đã định ngắt lời bà. Anh cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng anh đã lắng nghe tới phút chót vì trong giọng nói của Shalamar có một uy quyền tự nhiên đầy thấm thía, nó bảo cho anh biết rằng bà nói đúng. Anh sững sờ ngồi trước mặt bà. Người phụ nữ này với đôi tay gày gò đầy nếp nhăn, bà như vừa giáng cho anh một cái tát bằng giọng nói trầm khô của bà.
“Shalamar, bà nói đúng, - Souba đáp. - Lời bà làm cháu nóng cả mặt nhưng cháu biết rằng sự thật đến từ miệng bà. Vâng, Shalamar. Việc tang xin để lại cho bà và cho chị em phụ nữ khóc than. Xin hãy làm theo ý bà. Xin Saramine cứ tự làm mọi việc. Như từ trước đến giờ vẫn thế. Bà nói đúng. Cha cháu Tsongor không sai cháu đi để than khóc. Ông muốn cháu xây dựng bảy lăng mộ trong vương quốc của mình. Bảy lăng mộ để thể hiện con người của ông. Cháu muốn xây ở đây ngôi lăng đầu tiên cho cha cháu. Trong thành phố mà ông yêu quý. Vâng, ở đây sẽ là nơi bắt đầu công trường mênh mang của cháu. Shalamar, bà nói đúng. Cháu phải đi theo tiếng gọi của đá. Khóc lóc là việc của bà.”
Anh chậm rãi gập lại tấm khăn choàng đen mà các phụ nữ thành Massaba đã trao cho anh và đặt vào tay vị nữ hoàng già. Bà lại tươi nét mặt như người mẹ. Bà mỉm cười với chàng trai đã đủ dũng khí để nghe theo lời bà. Bà cầm tấm khăn ra hiệu cho Souba tiến lại gần, hôn lên trán anh và thì thầm:
“Đừng lo Souba. Hãy làm những gì cháu phải làm. Ta sẽ khóc thay cho cháu. Cả Saramine sẽ khóc thay cho cháu. Cháu hãy yên tâm mà đi. Và đương đầu với đá.”
Cuộc bao vây Massaba tiếp tục. Ngày này qua ngày khác, trong khi các chiến binh của Kouame và Sako cố gắng đẩy lùi quân địch trước các tường thành, dân chúng dọn đi những đống vôi vữa xác nhà, dọn rửa phố xá, lôi ra từ đống đổ nát còn nóng những thứ mà ngọn lửa đã chừa ra chưa thiêu cháy hết. Những bao bịch đựng tro, vôi, xà bần được dùng để ném xuống kẻ thù. Mọi thứ được đổ thẳng xuống những kẻ công thành. Từ trên tường thành cao, Massaba ộc ra từng cuộn từng cuộn đất bụi và tro than.
Trong thành, cuộc sống được tổ chức lại. Mọi thứ đều phải tiết kiệm vì đang thời chiến. Các thủ lĩnh nêu gương trước nhất. Kouame, Sako và Liboko sống kham khổ. Họ ăn ít. Chia sẻ khẩu phần với binh lính. Giúp đỡ mọi người trong việc sửa chữa đô thành. Chẳng còn cách nào khác. Thành phố bị bao vây. Các đồ dự trữ cạn dần. Nhưng mọi người đều tỏ ra không nghĩ tới và tin rằng còn có thể chiến thắng. Hàng tuần lễ trôi qua. Mặt mũi mọi người hốc hác. Và chẳng có chiến thắng nào tới. Mỗi ngày, binh lính Massaba đều cố gắng hết sức để đẩy lùi địch quân. Từ sau khi Danga lọt được vào thành, không kẻ công thành nào hạ đổ được một cánh cổng hay chiếm được một đoạn tường thành nào.
Trong phe du mục, mọi người bắt đầu mất kiên nhẫn. Nhất là Bandiagara và Orios luôn luôn chửi bới những bức tường kiên cố kia. Họ thúc giục Sango Kerim tiếp tục chiến thuật của Danga. Lực lượng của Massaba quá mỏng nên không thể chịu đựng được các cuộc tấn công ở nhiều nơi cùng một lúc. Chỉ cần tấn công vào hai hay ba điểm khác nhau. Sango Kerim chấp nhận. Mọi việc được chuẩn bị cho cuộc tấn công không biết là lần thứ mấy vào Massaba. Bandiagara chỉ huy điểm tấn công thứ nhất. Danga điểm thứ hai còn Orios và Sango Kerim sẽ đánh vào một nơi vắng vẻ của tường thành.
Trận chiến lại bắt đầu. Khắp nơi vang tiếng người bị thương kêu khóc, tiếng hú xung trận cho tăng lòng can đảm, tiếng gọi cầu viện, tiếng chửi rủa và tiếng vũ khí chạm nhau. Mồ hôi chảy ròng ròng trên từng gương mặt. Dầu chảy nhẫy trên các thân người. Xác chết phồng rộp nằm la liệt dưới chân tường thành.
Những người Mặt tro đổ về cửa Chèo bẻo như những con hổ đói. Họ chỉ có khoảng chừng năm chục người nhưng có vẻ như không gì cản được họ. Họ rạch bụng những lính giữ cánh cổng đóng đinh và đập tan những kẻ kinh hoàng đờ ra trước những người khổng lồ như vậy. Một lần nữa, quân du mục lại lọt được vào Massaba và một lần nữa, hoảng hốt lan tràn khắp thành phố. Tin tức lan từ nhà nọ sang nhà kia. Rằng người Mặt tro đang tiến đến. Rằng chúng giết sạch những gì chúng gặp. Khi nghe được tin này, Liboko, chàng Liboko trẻ tuổi lao tới đón đầu kẻ thù. Một nhúm người trong đội cận vệ đặc biệt của vua Tsongor theo anh. Cơn điên giận bừng bừng trên mặt anh. Họ rơi vào giữa quân Mặt tro đúng lúc bọn này đang ùa vào quảng trường Mặt Trăng, một quảng trường nhỏ nơi xưa kia các thầy bói thường hay tụ họp và nước từ các vòi phun chảy xì xì nhẹ nhàng trong các đêm hè. Liboko như một ác quỷ xông thẳng vào kẻ thù. Anh đâm xọc vào bụng, chặt, cắt chân tay. Anh xuyên thủng ngực và xẻo ngang mặt mũi quân địch. Liboko chiến đấu trên mảnh đất của mình, để bảo vệ thành phố và lòng hăng hái dường như chẳng khi nào rời khỏi anh. Anh liên tục tấn công. Điên cuồng phá thủng phòng tuyến của kẻ thù. Xác chết lăn lóc dưới chân anh. Đột nhiên, anh dừng tay. Một người nằm dưới chân anh. Sống chết phụ thuộc vào anh. Anh có thể chém tan sọ hắn nhưng anh không làm thế. Anh đứng vậy, tay vẫn giơ cao. Thời gian như ngừng lại. Anh đã nhận ra địch. Đó là Sango Kerim. Mắt họ chạm nhau. Liboko nhìn mặt kẻ xưa kia đã là bạn của anh rất lâu. Anh không hạ gươm xuống được. Anh khẽ mỉm cười. Đúng lúc đó Orios xông tới. Ông đã nhìn thấy tất và cho rằng Sango Kerim có thể chết. Ông không ngập ngừng tung hết sức vung chùy đập nát mặt Liboko. Xác anh khuỵu xuống. Cuộc đời đã rời bỏ anh. Orios gầm gừ đắc thắng. Còn Sango Kerim choáng váng quỳ gục xuống. Anh buông rơi vũ khí. Bỏ mũ giáp trụ và ôm lấy thân hình kẻ không muốn giết anh. Mặt Liboko chỉ còn là một đám bầy nhầy máu. Kerim vô vọng tìm trong đó ánh mắt anh mới gặp vài giây trước. Anh khóc Liboko trong khi trận chiến vẫn cuồng nộ diễn ra. Đội cận vệ đặc biệt đã nhìn thấy hết và cơn điên giận trào dâng trong từng người. Họ ra sức chống trả lại quân Mặt tro. Họ muốn giành lại thi hài chủ tướng. Không để cho kẻ thù cướp được xác. Họ muốn chôn anh cùng vũ khí bên cạnh cha anh. Và trước sức kháng cự mãnh liệt, Orios phải lui về. Bỏ xác Liboko lại đó. Bỏ lại quảng trường Mặt Trăng. Mang theo Sango Kerim đang kiệt sức và ra khỏi tường thành để thoát khỏi quân cận vệ đang vừa bám theo họ vừa gào thét.
Tin Liboko bị giết truyền trong Massaba và trong doanh trại quân du mục cùng lúc. Sango Kerim ra lệnh rút quân. Đối với anh đây là một ngày đáng nguyền rủa và không được đánh thêm một trận nào nữa. Họ quay trở về doanh trại, chậm chạp, không nói năng gì, cúi đầu như một đoàn quân thất trận, trong khi tại Massaba, tiếng kêu thảm thiết của những người phụ nữ khóc lóc bắt đầu vang lên. Tiếng than lan đi khắp nơi. Cả thành bang khóc thương một trong những người con của mình. Sango Kerim cử Rassamilagh đến báo cho Sako biết anh có thể chôn cất Liboko trong bình yên. Binh lính du mục sẽ ở yên trên đỉnh đồi. Lệnh để tang mười ngày được ban ra. Chiến tranh một lần nữa bị đình lại. Xác Liboko được lau rửa và mặc đồ. Người ta chôn anh trong hầm mộ của lâu đài cùng vũ khí. Và trong mười ngày, những phụ nữ khóc tang thay phiên nhau trên mộ để làm dịu cơn khát của người chết bằng nước mắt của người sống.
Trong phòng để bệ đặt xác, Tsongor nhỏm dậy. Thân hình xương xẩu của cái xác già nua gày đến mức đôi chỗ như trong suốt. Katabolonga tò mò kinh ngạc ngắm nhìn đức vua của mình. Ông tưởng Tsongor vừa từ vương quốc người chết trở về. Rồi ông nhìn rõ nét mặt nhà vua và hiểu rằng nỗi đau đớn, một nỗi đau chói buốt đã khiến ông trở dậy. Ông đứng yên ở đó, miệng há ra. Không âm thanh nào thốt ra được. Ông giơ tay ra hiệu như muốn chỉ một thứ gì đó mà ông không đọc tên lên được. Katabolonga cúi mặt.
“Tsongor, ông muốn tôi làm gì?”
Nhà vua không trả lời và lại gần bạn ông hơn chút nữa. Nét cứng đờ trên khuôn mặt chết của ông chứa đựng vẻ gì đó khiến người ta không chịu đựng nổi. Katabolonga tiếp:
“Có phải là ông đã nhìn thấy nó, đúng không? Ông đã nhìn thấy con trai đi qua trước mặt mình. Ông đã khuỵu xuống ôm chân nó mà tay ông chẳng ôm được gì. Hay là ông chỉ đứng chết lặng đi, không nhúc nhích nổi một bước nào? Ông đã nhìn thấy nụ cười dễ thương của Liboko. Có đúng thế không? Đúng, tôi biết. Ông muốn tôi phải làm gì, Tsongor?”
Yên lặng lại ngập tràn gian phòng. Katabolonga nhìn đôi mắt trợn tròn của bạn. Môi Tsongor khẽ run lên. Katabolonga lắng tai nghe. Có tiếng nói nào từ xa xăm lắm. Ông cố chú tâm hơn nữa. Tsongor nói rất khẽ. Như một điệu ai ca lặp đi lặp lại. Katabolonga lắng nghe. Đúng thế. Đôi môi người chết nhắc đi nhắc lại một lời mỗi lúc một rõ nét hơn. Tới mức vang vọng khắp phòng. Chỉ một lời mà người đã chết vừa lặp đi lặp lại vừa nhìn Katabolonga chằm chằm.
“Trả nó cho ta… Trả nó cho ta… Trả nó cho ta…”
Katabolonga không hiểu ngay. Ông tưởng Tsongor muốn nói tới Liboko. Ông đau lòng tới phát khóc.
“Ông biết đấy, nếu tôi làm được tôi sẽ trả lại con trai cho ông. Nhưng chính tôi đã phủ khăn liệm lên thân hình cậu ấy. Tôi chẳng còn làm gì được nữa rồi.”
Tsongor ngắt lời ông. Giọng ông trở nên mạnh mẽ hơn và rõ ràng.
“Đồng tiền… Trả nó cho ta…”
Giờ đây ông nói như ngày trước. Nhưng không phải là giọng nói vẫn thì thầm nhẹ nhàng thoải mái thay đổi theo đà câu chuyện. Đây là giọng gằn dứt khoát của người đang ra lệnh.
“Đồng tiền ta đưa cho ngươi, Katabolonga, trả nó lại cho ta. Ta không thể tiếp tục được nữa. Thế là đủ. Ta đã nhìn thấy nó. Với nụ cười trên môi. Nửa mặt của nó nát bấy. Mắt chúng ta chạm nhau mà nó không dừng lại. Nụ cười của nó sượt qua ta. Đã đến lúc ngươi trả lại đồng tiền của ta, Katabolonga. Đặt nó vào miệng ta và khép chặt xương hàm đã chết của ta để đồng tiền đừng rơi ra. Ta phải đi thôi. Ta không muốn nhìn thấy cảnh này nữa. Không. Tất cả bọn chúng đều sẽ chết. Từng đứa một. Dần dần theo năm tháng. Liboko là đứa đầu tiên. Ta sẽ là người chứng kiến cảnh dòng họ ta từ từ rỉ máu. Trả nó cho ta. Để cho ta yên nghỉ.”
Katabolonga ngồi im. Tê dại trước thân xác của chúa tể của ông, đầu cúi gằm. Khi Tsongor dứt lời, ông từ từ đứng dậy và vươn thẳng cái thân hình của kẻ còn sống. Họ lại đối đầu nhau. Như ngày nào xa xưa người mọi bò rạp thách thức kẻ chinh phục. Katabolonga không run rẩy. Ông nhìn thẳng vào mắt nhà vua. Không chớp.
“Ta sẽ không đưa cho ông gì hết, hỡi vua Tsongor. Chính ông đã muốn những nỗi đau này và chính ông tự đày đọa mình. Ta không đưa gì hết cho ông. Ông đã yêu cầu ta thề. Và ông biết là Katabolonga không bao giờ thay lời.”
Họ đứng như vậy rất lâu, mặt đối mặt. Nỗi đau khổ khiến mặt Tsongor co thắt lại. Miệng ông hớp hớp như muốn nuốt hết không khí trong gian hầm mái vòm. Rồi những tiếng thầm thì không rõ lời lại vuột ra khỏi thân xác ông. Ông quay lưng lại với Katabolonga, quay về giường mộ và trở lại với sự bất động của cái chết. Chỉ có tiếng kêu xin nghẹn ngào không rõ tiếng vẫn tỏa ra từ tấm thân khô quắt.
“Trả nó cho ta… Trả nó cho ta…”
Trong ba ngày liền, Tsongor thì thầm trong yên lặng nặng nề của hầm mộ. Katabolonga siết chặt tay ông. Để trong cái chết ông vẫn cảm thấy bạn mình ngồi đó. Để ông không ngờ vực lòng trung thành của bạn. Nhưng Katabolonga không trả lại đồng tiền cũ kỹ rỉ sét. Ông chờ đợi trong đau đớn, cho tiếng kêu than kia dần tắt ngấm, và người chết lại im lặng trở lại.
Samilia đứng trên đỉnh đồi mười ngày liền. Nàng ngắm thành bang của nàng. Nàng nghe tiếng đám đông than khóc và tiếng nhạc chậm rãi tiến hành nghi lễ. Nàng không nói năng gì với ai nữa. Từ ngày nàng chửi rủa Danga, nàng sống ẩn dật trong lều của mình. Giờ đây nàng tin chắc vào điều mà nàng đã biết từ trước. Tai ương đã đổ xuống đầu nàng và sẽ không buông tha nàng ra nữa.
Đó cũng là điều mà dần dần Sango Kerim hiểu ra và anh tâm sự với Rassamilagh:
“Ngày mai, chiến trận lại tiếp tục và tôi xin nói với anh một điều, Rassamilagh ạ, tôi thấy sợ hãi lạ lùng. Không phải sợ chết hay bị thua. Không. Chúng mình biết quá rõ nỗi sợ ấy rồi. Tôi sợ lại phải vào thành Massaba. Mỗi khi quân chúng ta tiến vào thành phố đó, tôi gặp toàn khổ đau và sững sờ. Mới đầu là hỏa hoạn đã đốt cháy các tháp thành của tuổi thơ tôi. Rồi đến cái chết của Liboko.”
Rassamilagh nghe anh rồi nói:
“Tôi hiểu nỗi sợ của anh, Sango Kerim. Sợ là đúng. Chẳng có chiến thắng nào đâu.”
Ông nói đúng. Sango Kerim hiểu rõ. Anh nhìn thành phố dưới chân đang chuẩn bị cho cuộc chiến đấu ngày mai. Anh biết bao vây Massaba là điên rồ. Những tháng ngày, những năm sắp tới, hết chiến thắng đến tang tóc sẽ đến với anh. Và mỗi chiến thắng mang vị tổn thương sâu lắng vì đó là chiến thắng những con người và thành phố mà anh yêu dấu.
Souba bắt đầu xây dựng lăng tẩm đầu tiên cho vua Tsongor tại Saramine. Shalamar mở rộng cửa lâu đài chào đón anh. Bà cho anh vàng, các kiến trúc sư tài ba nhất và các thợ cả giỏi giang. Thành phố nhanh chóng vang lên những âm thanh tấp nập của các cai thợ, đốc công.
Souba quyết định sẽ xây lăng trong các khu vườn treo của Saramine. Đó là khu vực cao nhất thành phố. Vườn trải dài ra, là chuỗi nối tiếp sum xuê hoa trái hết sân thềm đến lối đi thành bậc. Các cây ăn quả phủ rợp bóng lên các đài phun nước. Từ đây có thể nhìn thấy khắp thành phố, bóng dáng cao cao của các ngọn tháp và mặt biển im lìm. Souba cho sửa sang khu vườn rộng nhất để xây lăng bằng đá trắng của vương quốc. Mất nhiều tháng trời làm việc cật lực ròng rã lăng mộ mới dần hình thành. Bên ngoài thanh nhã và rực rỡ. Trong các gian sảnh bên trong, nhiều pho tượng lớn lạnh lùng đứng im lìm trên nền đá lát bằng cẩm thạch.
Khi công trình đã xong, Souba mời Shalamar tới thăm lăng trước khi anh cho đóng chốt cửa lại vĩnh viễn. Hai người im lặng bước đi. Trong các gian phòng rộng mênh mông. Nhìn ngắm các chi tiết tranh trên sàn hoặc cảnh đẹp lộng lẫy từ các ban công. Shalamar nhỏ bé vui sướng ngất ngây đưa tay sờ vào các cột đá. Khi họ ra khỏi lăng, bà quay về phía Souba và nói:
“Cái mà cháu xây cho cha hôm nay, Souba ạ, là hình ảnh một vua Tsongor trong vinh quang. Ta cám ơn cháu vì đã xây cho Saramine một lâu đài xứng đáng với nó. Từ nay đây sẽ là trái tim im lặng của thành bang chúng ta, nơi không ai đặt chân tới nhưng tất thảy đều yêu kính.”
Chính lúc đó Souba hiểu ra. Anh hiểu rằng điều anh phải làm là tạo nên các chân dung của cha anh. Bảy lăng mộ là bảy hình ảnh của Tsongor. Lăng ở Saramine là hình ảnh một nhà vua sống trong vinh quang. Của một con người với số phận nổi bật, suốt đời chỉ biết tới hào quang. Souba chỉ còn việc xác định rõ được những gương mặt của Tsongor. Và xây một ngôi lăng cho từng hình ảnh đó. Trong toàn vương quốc. Và cả bảy ngôi mộ sẽ nói rõ Tsongor là người như thế nào. Anh còn phải làm thêm việc đó. Tìm ra nơi chốn và hình dáng cho những gương mặt kia của Tsongor.
Anh ở thêm một đêm cuối tại thành phố vùng biển Saramine, trong lâu đài của Shalamar, rồi chào bà và lên la ra đi vào sáng sớm. Anh để lại trong lâu đài của bà tấm khăn đen của những người đàn bà đi giặt ở Massaba. Bà treo nó lên ngọn tháp cao nhất của thành phố. Anh còn phải đi qua cả lục địa. Cả vương quốc nay đã biết rằng Souba đang lang thang đi tìm một nơi để xây lăng. Đó là một vinh dự lớn mà nhiều vùng và thành bang đang mong đợi.
Anh đi khắp vương quốc trên con la ương bướng của mình, như một nhà kiến trúc. Trong rừng cây bao báp, anh cho xây một kim tự tháp cao vút. Ngôi mộ của Tsongor người xây dựng, nằm giữa rừng sâu thẳm với lớp đất mùn dày kịt và tiếng kêu của những loài chim lông đỏ óng. Rồi anh đi tới những vùng xa xôi nơi biên ải, trên quần đảo xoài. Đó là những mảnh đất có người xa nhất trước khi tiến vào hư vô. Những mảnh đất cuối cùng mà tên tuổi của Tsongor khiến con người phải quỳ xuống. Anh cho xây ở đó một hòn đảo - nghĩa địa dành cho Tsongor, người khai phá. Người đã đẩy lùi những giới hạn của đất đai, đã đi xa hơn cả những người giàu tham vọng nhất. Đối với Tsongor, người chiến binh, thủ lĩnh quân đội, nhà chiến lược quân sự, anh cho đào những gian phòng ngầm rộng lớn trên các cao nguyên đá của miền trung đất nước. Nằm sâu dưới mặt đất nhiều mét, anh đặt thợ làm hàng ngàn bức tượng chiến binh. Như những con búp bê lớn. Tất cả đều khác nhau. Anh đặt chúng trong những gian hầm ngầm tối tăm. Một đội quân đông đảo binh lính bằng đá đứng dầy đất. Như một dân tộc toàn lính cứng ngắc, sẵn sàng chuyển động vào bất kỳ lúc nào. Họ như đang chờ đợi nhà vua quay về để lại lên đường. Khi anh làm xong lăng của người chiến binh, Souba tìm một chỗ để xây lăng cho Tsongor, người cha. Người đã nuôi dạy năm đứa con với tình yêu và lòng độ lượng. Trong hoang mạc, nơi có những cây vả đơn độc đứng chơ vơ giữa các đụn cát phơi trong gió và lũ rắn thằn lằn, anh cho dựng lên một tháp đá cao màu đỏ đồng mà người đi xa cách mấy ngày đường cũng nhìn thấy được. Trên đỉnh anh đặt một khối đá muối. Một khối đá gần như trong suốt đêm đêm tỏa ra ánh sáng mà nó đã hấp thụ được trong ngày. Đá hút ánh mặt trời sa mạc và tỏa sáng ban đêm như ngọn đèn pha chiếu rọi cho các đoàn người ngựa đi trong sa mạc.
Gương mặt cho muôn đời sau của Tsongor dần được xây nên với mồ hôi và lòng tận tụy của Souba. Anh dành hết tâm huyết cho công việc. Các lăng hình thành và mỗi khi anh xây xong một lăng mộ, mỗi khi anh đổ chì lên then cửa những ngôi nhà im lìm này và rời khỏi đó, Souba dường như nghe thấy có tiếng thở dài xa xôi dội về trên vai anh. Anh biết điều đó có nghĩa là gì. Tsongor có mặt ở đây. Bên anh. Trong những đêm nằm mơ và những ngày bận rộn của anh, Tsongor vẫn có mặt. Và tiếng thở dài mà Souba nghe được mỗi khi anh hoàn tất một công trình luôn nói lên một điều. Anh đã làm tốt nhiệm vụ của mình và Tsongor cám ơn anh. Với mỗi nấm mộ mới xây, Tsongor lại cảm ơn anh, đúng vậy. Nhưng ông cũng nói trong hơi thở rằng đó vẫn chưa phải là lăng tẩm tốt nhất và nơi chốn đó anh vẫn còn chưa tìm thấy. Và Souba mỗi lần như vậy lại lên đường không mệt mỏi. Để mong có ngày anh nghe được trên vai tiếng thở dài nhẹ nhõm của cha anh.
Cái Chết Của Vua Tsongor Cái Chết Của Vua Tsongor - Laurent Gaudé Cái Chết Của Vua Tsongor