Thành công có nghĩa là thoát khỏi những nếp nghĩ cũ kỹ và chọn cho mình một hướng đi độc lập.

Keith DeGreen

 
 
 
 
 
Tác giả: Nguyệt Quan
Thể loại: Tiên Hiệp
Upload bìa: Cau dat
Số chương: 634
Phí download: 21 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4446 / 84
Cập nhật: 2015-02-27 07:50:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17: Bần Tăng Công Lực Còn Thấp
hoái mã Vương Kế Ân giờ đã mang bản tấu chương của Chiết gia đi, lệnh cho Phan Mỹ vừa bình loạn Giang Nam thắng lợi trở về điều năm vạn binh, tuyên bố ra ngoài, sẽ tăng cường bao vây tiêu diệt phản loạn Thục, nhưng lại lần khân không phát binh, chờ mãi mới chộp được cơ hội này. Lúc này, vừa nhìn thấy bản tấu chương xin binh, hắn như nhặt được chí bảo, lập tức khởi động toàn bộ hệ thống tuyên truyền, cao giọng chỉ trích Dương Hạo bội bạc, vi phạm quốc pháp, ngang nhiên bất nghĩa dùng binh với Phủ Châu. Đồng thời lệnh cho Vương Kế Ân điều An Lợi quân, Long Đức quân tấn công Quảng Nguyên Trình Thế Hùng, điều Ninh Hoa quân, Tấn Ninh quân, Bình Định quân, Uy Thắng quân tấn công Phủ Châu, lại lệnh cho Phan Mỹ đích thân dẫn năm vạn cấm quân, không ngừng vó ngựa, tiến thẳng Lân Phủ.
Tin lọt vào tai Khiết Đan, Tiêu Hậu vô cùng kinh ngạc. Dương Hạo làm sao lại có mưu đồ chiếm Phủ Châu được. Theo nàng, người muốn thành đại sự há có thể để tình nghĩa ràng buộc. Nếu Dương Hạo thật sự tâm ngoan thủ lật như thế, thì cũng coi là một nhân vật kiêu hùng. Song, theo những gì nàng biết, Dương Hạo lại không phải là người như vậy. Hơn nữa, cho dù là thời di thế dịch[ ], Dương Hạo biến hóa thành kẻ khác, cũng tuyệt đối không thấy lợi tối mắt. Ở quy mô tây chinh của hắn, thời điểnhành lang Hà Tây chưa tới tay. Ở đông tuyến đột nhiên tái khải chiến đoàn, chẳng lẽ Lý Quang Duệ hai mặt dụng binh, đến nỗi kéo được từ mình sơn cùng thủy tận đích xác giáo còn chưa đủ sao? Mãi đến lúc này, Đại Tống nhanh chóng phản ứng lại. Quân Tống hành quân thần tốc, tấn công Phủ Châu, Tiêu Xước cuối cùng mới hiểu rõ: Đại Tống động thủ với Tây Bắc rồi.
Lúc này, Đại Khiết Đan quốc mới đổi tên, từ Đại Khiết Đan quốc thành Liêu quốc. Đại Khiết Đan quốc vốn là lấy tên tộc làm tên nước, nhưng thành phần dân tộc của Khiết Đan lại hết sức phức tạp, rất nhiều tộc nhỏ, nhất là còn có U Vân mười sáu châu của người Hán chiếm một bộ phận rất lớn. Hơn nữa, thiếu chủ vừa lập, sửa quốc hiệu, cũng là một loại tình hình mới.
Tân quân đặng cơ, tuổi còn quá nhỏ. Tiêu Xước lấy thân phận thái hậu nắm quyền cai trị. Khiết Đan hiện giờ đang nghỉ ngơi, khôi phục nguyên khí, tích súc quốc lực, bởi vậy mới đổi quốc hiệu thành Đại Liêu. “Liêu” trong tiếng hán vốn có nghĩa là xa xôi, ý là cổ vũ mở mang lãnh thổ, lam cho lãnh thổ trở nên rộng lớn, bát ngát. Chẳng qua hiện giờ vừa mới bình ổn được nội loạn, nguyên khí còn chưa khôi phục, hành sự phải cẩn thận một chút, cho nên mới tuyên bố ra bên ngoài: “Liêu” là tiếng Khiết Đan, có nghĩa là sắt, lấy “Liêu” làm quốc hiệu là có ngụ ý phải ưu tiên xây dựng quốc gia bền vững.
Phương châm chính sách đã là nghỉ binh nuôi dân, thì lúc này tuyệt đối không thể nổ ra chiến tranh với Tống quốc. Nhưng nếu cứ ngồi xem Triệu Quang Nghĩa công chiếm Tây Bắc, hốt trọn của vùng Tây Vực nhét vào trong đế chế thống trị của hắn, thì chẳng những lãnh thổ Tống quốc càng ngày càng mở rộng mà người Tống còn có được cả vùng nuôi ngựa. Như vậy, ưu thế lớn nhất của người Liêu sẽ không còn sót lại chút nào. Đây cũng là chuyện thập phần khó giải quyết.
Tiêu Xước mặc một bộ cung y bình thường, rộng mềm thoải mái, nằm ngả người trên giường, một tay nhẹ nhàng phe phẩy quạt tròn, một tay vỗ nhẹ đứa con đang nằm ngủ say trong lòng nàng, trong lòng không ngừng suy nghĩ về thế cục Tây Bắc. Cuộc chiến này tuy không liên quan trực tiếp tới Liêu quốc, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến tình thế tương lai giữa hai nước Tống - Liêu. Nàng há lại không coi trọng.
Tiểu hoàng đế đã có tên rồi, tên chính là Da Luật Long Tự, cúng cơm gọi là Lao nhi. “Thuấn trụ đào yên, kỳ niên nhi khí lao”. Người bình thường đều đặt tên cho trẻ con theo kiểu “Thuyên trụ nhi thiết tỏa”, ý tứ là đều mong đứa trẻ được bình an, thành người, trường sinh. Đương nhiên đây chỉ là cách giải thích của Tiêu Hậu đối với nhà mẹ đẻ, về phần cái tên “Lao nhi” còn có ý nghĩa gì khác hay không thì chỉ có mình nàng biết mà thôi[ ].
Thiếu phụ trẻ tuổi mới hai mươi hai, lại cộng thêm cẩm y ngọc thực (áo lụa cơm ngọc), chăm sóc hợp lý, cho nên thân thể nhìn rất mượt mà đẫy đà. Da thịt trắng nõn, hấp dẫn vô cùng, hai cái chân thòn dài nửa co nửa duỗi trên giường, lại còn có thể nhìn thấy thấp thoáng một bức cảnh xuân mịn màng động lòng người bên trong nữa.
Lúc này trời triều đã ngả về tây, ánh mặt trời vàng rực chiếu lên khuôn mặt thanh tú mềm mại, trắng nõn của nàng, làm nổi lên một loại phong tình đặc biệt. Hai hàng lông mày kẻ đen của nàng khẽ nhíu lại, trong lòng khẩn trương tìm kiếm đối sách.
Hiện giờ Đại Liêu tuyệt đối không thể dễ dàng động binh với con quái vật lớn như Tống quốc. Nếu không, chỉ cần vô ý thì cục diện mà mình khổ tâm gây dựng hai năm trời sẽ bị hủy hoại trong chốc lát.
Đế quốc Đại Liêu quả thực là rất khổng lồ. Dương Hạo có thể dùng hai năm thời gian chỉnh hợp chư bộ, chấn hưng Hạ Châu. Nhưng đối với một quốc gia khổng lồ như Khiết Đan mà nói, hai năm thời gian chỉ đủ để kinh tế khôi phục một ít nguyên khí, trên phương diện chính trị và quân sự cũng chỉ vừa đủ để điều chỉnh lại toàn bộ chức vị quan viên trọng yếu một lần, điều hòa mâu thuẫn bên trong, tiêu trừ tranh cái bên ngoài. Cho nên hiện giờ thực chất vẫn còn yếu ớt. Nhưng mà, cho dù Tây Bắc hiện giờ không phải là địa bàn của tên oan gia kia, nàng cũng quyết không thể ngồi nhìn Tống quốc nuốt trọn cả vùng Tây Bắc được. Đối với chuyện này, Đại Liêu nhất định phải xử lý thật khéo.
Tiểu Xước khổ tư suy nghĩ, xem ra, Liêu quốc chỉ có thể áp dụng biện pháp kìm chế như trước, tận lực kìm chế Tống quốc, khiến bọn họ không thể tung quá nhiều binh lực vào Tây Bắc, giảm bớt áp lực cho quân Hạ Châu. Về phần hóa giải nguy cơ như thế nào, thì cuối cùng phải dựa vào tên oan gia kia của mình rồi. Nhưng tên oan gia kia hiện giờ đang ở Qua Sa Cổ Đạo, hắn kịp chạy trở về ư?
Nghĩ đến đây, Tiêu Xước khẽ thở dài. Oa nhi trong lòng nàng tựa hồ cảm thấy nóng quá, hai mắt vẫn nhắm nghiền, ngủ ngon lành, nhưng hai cánh tay lại khua khua, đẩy tay mẫu thân ra, hai cái chân nhỏ thì đạp đạp lên người mẫu thân, cả người nằm lăn ra giữa giường.
Tiểu Xước trừng mắt nhìn nhi tử đang ngủ say, trong mắt không khỏi có chút u oán: “Cái tên tiểu tử này, ăn uống no nê thì chẳng quan tâm đến mình nữa. Giống hệt cái tên phụ thân không lương tâm của nó”.
*
* *
Tinh kỳ phần phật, đại quân của Dương Hạo cuối cùng cũng xuất phát tiến đến Đông Hoàng.
Đôn Hoàng nam gối Kỳ Liên sơn khí thế hùng vĩ, tây tiếp giáp La Bố Bạc mênh mông bát ngát, bắc dựa vào Bắc Tắc sơn, đông có Tam Nguy sơn cao sừng sững. Chính là con đường mà hồ thương Tây Vực vượt qua Ngọc Môn Quan, đông tiến trung nguyên phải trải qua. Diện tích mảnh hoang đảo này không lớn, nhưng đất đai phì nhiêu, nằm trong bồn địa thiên nhiên sát sa mạc Qua Bích (sa mac Gobi) đảng hà tuyết thủy ruộng màu mỡ, cây xanh chặn Hắc Phong cát vàng, lương thực tràn trề. Dưa và trái cây bốn mùa thơm ngát.
Đôn Hoàng thành chính là một tòa thành kỳ tích trong đại mạc cổ đạo.
Vì cắt đứt hoàn toàn thông lộ liên hệ giữa Hung Nô và Tây Khương, bảo vệ an toàn của biên ải và con đương tơ lụa. Hán Vũ đế từng xây dựng Tửu Tuyền quận và Vũ Uy quận ở Hà Tây, đồng thời bố trí phòng vệ, đóng quân khai hoang, thi hành các chính sách di dân, không ngừng bổ sung, tăng cường kiến thiết Hà Tây. Sau đó lại lần lượt đổi Tửu Tuyền quận và Vũ Uy quận thành Đôn Hoàng và Trương Dịch hai quận. Lại lệnh xây dựng trường thành cùng phong hỏa đài từ Đôn Hoành cho tới tận Diêm Trạch - nay là La Bố Bạc, đồng thời xây dựng Dương quan, Ngọc Môn Quan. Liệt Tứ quận dựa vào hai quan, bảo đam con đương tơ lụa thông suốt.
Từ đó về sau, kỹ thuật tơ lụa tiên tiến của Trung Quốc không ngừng truyền bá đến Trung Á, Tây Á và Châu Âu. Đồ ngọc, mã não, kỳ cầm dị thú của Châu Âu, Địa Trung Hải ven bờ Tây Vực cũng đồng dạng có thể truyền bá đếnTrung Quốc. Đôn Hoàng trở thành “Yết hầu mấu chốt” giao thông giữa Trung Quốc và phương tây. Trước đây, tướng quan Lý Quảng phạt Đại Uyển quốc, lấy được Hãn Huyết mã, Triệu Phá Nô đánh bại Cô Sư quốc, bắt được Lâu Lan vương, đều là dựa vào Đôn Hoang cung ứng binh mã lương thảo mới giành được thắng lợi.
Bởi vì vậy người Hán ở nơi này là nhiều nhất, cư dân bản xứ chiếm hơn tám phần, vì thế nơi này mới xuất hiện một tình cảnh rất kỳ lạ. Sau khi Tây Vực và Trung Nguyên bị ngăn cách thông thương, Qua Sa nhị châu có người Hán chiếm phần đông, trong khi đó, ở phía Đông Qua Sa, hướng gần với Trung Nguyên hơn lại bị người Thổ Phồn, Hồi Hột, Đảng hạng chiếm giữ. Nhưng chính bởi vì nguyên nhân như vậy, khiến cho người Hán ở Tây Vực mất hẳn quan hệ với Trung Nguyên, lại trải qua hơn trăm năm, những người Hán bơ vơ lạc lõng bên ngoài này liền xây dựng nghĩa quân, tự lập Kim Sơn quốc, tiếp tục truyền thừa văn hóa và huyết mạch người Hán.
Nhưng tầng lớp thống trị của Kim Sơn quốc lại thi hành chính sách sai lầm, luôn chèn ép dân tộc thiểu số địa phương, khiến cho bọn họ thụ địch khắp nơi. Vinh quang tổ tiên chẳng còn, Kim Sơn quốc dần dần xuống dốc, ngược lại phải cung kính tôn Cam Châu Hồi Cật làm Khả Hãn. Cho tới tận lúc này, Dương Hạo đến đây, mang theo đại quân của hắn, hy vọng một lần nữa đả thông con đường thông với Tây Vực, trọng trấn văn minh Đông phương ở nơi này. Việc này đối với chính quyền Tào gia chấp chưởng Qua Sa mà nói, đây chính là ngày tận thế của bọn hắn, còn đối với nghĩa quân mà nói, lại là nửa vui nửa buồn.
Trong khi Tiêu Xước đang mải mê suy nghĩ, tinh thần chán nản, Dương Hạo đã thống lĩnh đại quân tới Hồ Lô hà. Từ đây nếu cứ tiến về phía trước thì chính là Qua châu rồi.
Hoàng hôn mờ mịt, trời chiều ngả về tây, đại quân của Dương Hạo hạ trại đóng quân ở cạnh Hồ Lô hà. Lều trường đột nhiên mọc lên sán sát khắp bờ sông, nhìn từ xa chẳng khác nào một rừng nấm, kéo dài liên miên bất tuyệt. Mặc dù khả năng nghĩa quân Qua châu mạo hiểm đánh lén là không lớn, song vẫn phải theo quy củ bố trí một lớp nhân mã bên ngoài, đào chiến hào, đặt cự mã (hàng chông chống ngựa), chuẩn bị phòng ngự đầy đủ.
Dọc đường đi, bọn họ được chứng kiến tượng Phật điêu khắc trên vách núi, chứng kiến đại mạc Đà Linh, ảo ảnh trên Hãn Hải (sa mạc Gobi), sắc thu Hồ Dương, phong cảnh thanh tuyền ốc đảo dị vực đương nhiên tuyệt đẹp, nhưng nhìn nhiều rồi cũng cảm thấy chán. Cảm giác sâu sắc nhất mỗi ngày ngược lại là ban ngày nóng như lửa đốt, ban đêm lại lạnh đến thấu xương, hơn nữa mỗi khi gió nổi lên là cát vàng bay rợp trời.
Đóng ở phía nam quân doanh chính là Túc châu Long gia binh. Dương Hạo lấy được Lương Châu, liền dẫn đi hai vạn binh mã của Lương Châu thành chủ Lạc Nhung Đăng Ba. Lần này lấy được Túc châu, liền dùng Túc châu làm cứ điểm, khi tấn công Qua châu, lại y theo kế cũ, rút hết binh mã Túc châu ra ngoài. Long gia binh sống ở Tây Vực, nhìn phong cảnh ở Tây Vực quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn, không hề cảm thấy mới lạ. Vất vả lắm mới vượt qua được sa mạc, tiến vào ốc đảo, những binh sĩ này thập phần vui sướng, ầm ầm nhảy vào Hồ Lô hà tắm rửa.
Ở trên thượng lưu Hồ Lô hà, đang có hai đại hán chỉ mặc độc một cái khố, người vạm vỡ tựa như hai tay đô vật, làn da đen rám như hai cái hắc thiết tháp, đứng mò cá trên sông. Cá ở đây mập to vô cùng, bởi vì không ngư dân đánh bắt, hoàn cảnh sinh sống lại vô cùng tốt, cho nên cá dài một hai xích thấy chỗ nào cũng có.
Song đối với quân Túc châu không am hiểu thủy tính mà nói, muốn tóm được mấy con cá thật chẳng dễ dàng gì.
Một trong hai hán tử đột nhiên hất tung bọt nước, hai tay nắm chặt một con cá lớn, cười ha ha nói: “Lão Chi, lão Chi, mau xem này, ca ca ta bắt được một con cá lớn chưa này”.
Hán tử còn lại thấy vậy liền mừng rỡ, vội vàng nhảy tới, reo lên: “Hay quá, ăn mấy cái thứ thịt khô vừa cứng vừa khô khan thật là chán lắm rồi. Ha ha, lão Tạp, ngươi giữ chắt lấy nó, mau mau lên bờ, chúng ta nướng nó”.
Lão Tạp vừa nghe vậy liền trừng mắt nói: “Nướng là nướng thế nào? Cá sông ngon như vậy, phải cho vào nồi hầm canh, hầm cho nó mềm thịt xốp xương. Sau đó ăn sạch thịt, gặm đầu, rồi lại uống một chén canh cá thơm phúc. Đó mới là mỹ vị”.
Lão Chi lắc lắc đầu nói: “Ngươi thì biết cái gì, con cá này chớ có cạo vảy, cứ để nguyên cả nội tạng, đem xiên, nướng trên lửa, hương vị thơm mềm của cá mới không mất đi. Ta thấy thương nhân Tây Vực từ xa tới đều ăn cá như vậy”.
“Nấu canh rồi ăn, vừa có thịt lại vừa có canh, canh tiên vị mỹ”.
“Nướng ăn, tiên hương xông vào mũi, tuyệt vời vô cùng”.
Hai người đứng chỗ nước cao đến thắt lưng, không ngừng tranh cãi. Lão Tạp giận tím mặt, cầm con cá đang giãy đành đạch trong tay hung hăng ném một cái, con cá rơi tõm xuống nước, nhưng nó chỉ hơi choáng váng một chút rồi tỉnh táo trở lại, lắc đầu quẫy đuôi chuồn mất.
Lão Chi trợn mắt líu lưỡi nói: “Sao ngươi lại thả cá đi?”.
Lão Tạp tức giận nói: “Bảo nấu canh rồi ăn mà ngươi cứ khăng khăng nướng ăn. Được rồi được rồi, ăn với chả uống, không ăn nữa cho lành. Bực cả mình!”.
Lão Chi nghe xong cũng tức đến sùi bịt mép: “Không ăn thì không ăn, hiếm lạ lắm à. Chẳng lẽ chỉ mình ngươi bắt được, hai tay lão tử chẳng lẽ chỉ để làm cảnh hay sao. Ta tự bắt!”. Nói xong hắn liền thụp hai tay xuống sông, liều mạng khua khuấy loạn xạ, khuấy đến mức nước sông bắn tứ tung, cố ý hắt lên hết người lão Tạp.
Thị vệ đứng trên bờ thấy hai người trnah cãi cầm ĩ không khỏi che miệng cười trộm. Hai người kia, một người tên là Tạp Ba Tạp, hậu duệ của Yên Giả quốc, còn mang theo một chút huyết thống người Đột Quyết, là tả đô úy của Túc châu Long Vương quân. Người còn lại họ Chi, tên Phú Bảo, là người của Sơn Đông Lang gia. Thời Đương triều, tổ tiên hắn tòng quân nhập ngũ, trở thành một tên binh sĩ của An Tân Đô Hộ phủ. Sau này gặp phải trắc trở, cho nên mới rời xa gia hương, tới Tây Vực an cư lập nghiệp. Hai người này vốn là bằng hữu lớn lên từ nhỏ với nhau, lại cùng nhau gia nhập quân ngũ, cùng nhau làm quan, quan hệ có thể nói là cực kỳ thân thiết, nhưng lại rất thích tranh cãi. Thuộc hạ bọn họ đã sớm quen đến không thể quen hơn nữa rồi.
Bởi vì quân đội Túc châu chịu ảnh hưởng rất lớn từ quân đội Đại Đường An Tây Đô Hộ phủ, cho nên quan chế cũng giống hệt với Đường triều. Thủ lĩnh đứng đầu tự xưng vương gia, chỉ một cái châu nho nhỏ mà lại thiết lập, xây dựng cơ cấu quan lại như một quốc gia, cho nên hệ thống quan chế rất hỗn loạn. Ấn theo quan chế quân đội Đại Đường, cứ mười đinh lại có một thập trưởng, cứ năm thập lại có một hỏa trưởng, cứ tam hỏa lại có một đội trưởng. Chi bội đội của hai người này cũng tương đương với một đội, có một đội trưởng và một đội phó. Nhưng binh tướng của Túc châu Long Vương quân lại lạm phát quá lợi hại, cho nên chỉ một đội năm trăm năm mươi người đã có cả tả hữu quả nghị đô úy, hai giáo quan lục phẩm.
Bởi vì đang là thời gian chiến tranh, cho nên Dương Hạo không thể tiến hành cải tổ biên chế hoàn toàn quân đội của hắn. Vì để cho binh lính quen thuộc và thích ứng, hiện tại mới chỉ kịp thay đổi biên chế theo Tiết phủ đối với quan viên cao cấp. Về phần đa số những tướng tá trưởng quan phía dưới thì vẫn dựa theo chế độ cũ, tạm thời không thay đổi.
Chi Phú Bảo khuấy nước chán chê một trận, nhưng đến một con cá cũng chẳng bắt được. Hắn cảm thấy rất mất mặt, không khỏi tức giận nói: “Mẹ nó, không bắt nữa không bắt nữa, ta đi ăn thịt khô còn hơn”. Nhưng vừa nói xong, hắn chợt phát hiện phía trước có một cái bóng đen nho nhỏ, đang từ phía trước xuôi theo dòng nước trôi xuống, hắn kinh hỉ nói: “Oa, một con cá thật lớn, có ai không. Người đâu, ném một cây mâu cho ta”.
Binh lính trên bờ vội vàng ném xuống một cây trường mâu. Chi Phú Bảo chộp lấy thanh mâu, rón rén tiến đến gần bóng đen giữa sông đang không ngừng di động. Tạp Ba Tạp quay đầu lại, thấy thế cũng vội vàng đi theo.
Chi Phú Bảo dương dương đắc ý nói: “Hắc hắc, con cá này lớn à nhà. Một nửa dùng nấu canh, một nửa dùng để nướng. Thế nào, ca ca ta hào phóng hơn ngươi chưa?”.
Tạp Ba Tạp cười nhạt: “Chờ ngươi thật sự bắt được rồi hãy hào phóng. Nhìn cái bộ dáng lóng nga lóng ngóng của ngươi kìa”.
Chi Phú Bảo tức giận: “Thằng nhãi ranh nhà ngươi sao lúc nào cũng chọc tức ta thế hả? Được được được, cho ngươi xem thủ đoạn của mỗ gia!”. Chi Phú Bảo giương cây mâu lên, đang định phi xuống thì Tạp Ba Tạp đột nhiên giữ tay hắn lại, vẻ mặt ngưng trọng nói: “Chờ một chút, hình như không phải cá, là người đó”.
Tạp Ba Tạp ngạc nhiên nói: “Làm sao có thể? Ở cái nơi này lấy đâu ra người chứ?”.
Hai người ngưng thần nín thở, nheo mắt nhìn thấy kỹ. Chỉ thấy bóng đen kia vừa nổi vừa chìm, dần dần trôi về phía bọn họ, quả nhiên là một người chết đuối. Tạp Ba Tạp kinh hãi nói: “Đúng là người”. Dứt lời, hắn vội vàng thò trường mâu ra, khều người nói lại gần, chỉ thấy tóc người nọ rất dài, xõa tung trong nước, dung nhân thanh lệ tái nhợt, nhìn chẳng khác nào thủy yêu. Hắn lập tức hét lớn: “Còn là một nữ nhân nữa!”.
Chi Phú Bảo ngoáy ngoáy hai cái lỗ tay nói: “Ở cái nơi này, làm sao lại có nữ nhân rơi xuống nước mà chết đuối nhỉ? Chẳng lẽ là hồ thương gặp phải mã phỉ?”. Tạp Ba Tạp nói: “Sao người biết nàng ta nhất định chết?”.
Chi Phú Bảo nói: “Không chết thì chẳng lẽ sống à?”.
Hai người lại khiêng xác nữ nhân kia lên, một người ôm chân, một người ôm tay, kéo lên bờ.
Tạp Ba Tạp lải nhải: “Nếu như là sống, từ nay về sau, tất cả cá chúng ta bắt được đều nấu canh ăn”.
Chi Phú Bảo nói: “Nếu như là chết, từ nay về sau, tất cả cá chúng ta bắt được đều nướng ăn”.
Tuy nắng chiều tà đã đỏ như máu, nhưn trên mặt cát vẫn rất nóng, nữ nhân kia vừa mới bị đặt lên bờ cát, hơi nóng lập tức xông vào người, còn chưa kịp cứu chữa gì thì cánh mũi đã mấp máy mấy cái. Tạp Ba Tạp mắt tinh, vừa thấy liền mừng rỡ, kêu lên: “Sống, sống, nàng còn sống”.
Chi Phú Bảo khinh thương nói: “Ngươi không thấy nàng ta bị thương à? Hiện giờ còn sống không có nghĩ là sau này còn sống”.
Tạp Ba Tạp tức giận dậm chân: “Ngươi lại chơi trò chây ỳ phỏng? Cứ như ngươi nói, cho dù là nàng sống tiếp, qua mấy chục năm nữa rồi cùng phải chết. Vậy chẳng phải là ngươi luôn thắng à?”.
Chi Phú Bảo nói: “Cái gì, ta đâu có nói là tới mấy chục năm? Ta chỉ nói là, có lẽ chỉ lát nữa là nàng ta sẽ tắt thở thôi. Mà kể cả như vậy, ta cũng không thua được”.
Đám binh sĩ thụ hạ sớm không nhịn nổi nữa rồi. Tham gia quân ngũ ba năm, gái gú không được động tới, huống chi nữ nhân này tuy dung nhan tiều tụy, nhưng lại cực kỳ tú lệ. Thế mà hai tên chủ tướng hỗn trướng này lại chẳng thương hoa tiếc ngọc chút nào, cứ đứng đó mà cãi nhai. Một gã thân binh không nhịn được chen miệng nói: “Hai vị đô úy đại nhân, chúng ta có lẽ nên cứu người trước thì hơn”.
Lúc này, thần chí nữ nhân kia tựa hồ hơi tỉnh táo lại một chút. Nàng khẽ mở mắt, yếu tới nói: “Đây là nơi nào?”.
Tạp Ba Tạp cùng Chi Phú Bảo liếc mắt nhìn nhau một cái, ngồi xổm xuống nói: “Nơi này là Hồ Lô hà, làm sao ngươi lại trôi theo dòng nước vậy? Còn người nhà ngươi đâu?”.
Đôi mắt khẽ chớp chớp, thều thào hỏi: “Hồ Lô hà? Qua châu, phía đông Hồ Lô hà?”.
Sau khi được xác nhận, nữ nhân nói: “Ta, ta là người của Sa châu Tào gia. Các ngươi, các ngươi cứu ta”.
Tạp Ba Tạp cười ha ha nói: “Vậy phải xin lỗi rồi. Chúng ta tuy là đang ở Hồ Lô ha, nhưng chúng ta lại là người của Long gia Túc châu”.
Nữ nhân kia hơi mờ mịt, sau một lát mới nhỏ giọng nói: “Túc châu Long gia? Lại... Lại khai chiến rồi ư? Long gia, Long Hàn Giang đại nhân... Với... Với gia phụ là lão bằng hữu... Xin... Xin hãy cứu viện”.
Chi Phú Bảo khẽ uýnh Tạp Ba Tạp ra ngoài, chen vào nói: “Lão Tạp, sau này đừng có nói là người của Long gia nữa. Thái úy nghe xong nhất định không vui đâu. Khụ! Cô nương chúng ta hiện giờ là người của Hạ Châu Dương thái úy, phụng mệnh tây chinh, thảo phạt Qua Sa”.
Nữ nhân kinh ngạc: “Dương thái úy?”.
Tạp Ba Tạp nói: “Không sai, Hạ Châu Dương thái úy xua quân tây tiến, thế như chẻ tre, đã chiếm Lương, Túc hai châu. Hiện giờ đang tiến binh đến Qua châu. Long gia quân chúng ta giờ đã quy thuận thái úy rồi”.
Trong mắt nữ nhân lập tức toát lên vẻ kinh hỉ, thân hình đột nhiên cựa quậy, giống như muốn ngồi dậy, nhưng đáng tiếc là người quá yếu ớt. Nàng thở hỗn hền, chộp lấy tay Tạp Ba Tạp, hấp tấp nói: “Mau! Mau dẫn ta đi gặp Dương thái úy, ta là...”.
Nữ nhân gắng gượng nói được đến đây thì kiệt lực, lập tức hôn mê bất tỉnh.
Tạp Ba Tạp gãi đầu gãi tai, nghi hoặc nói: “Sao nàng ta ai cũng quen biết hết thế? Nàng nói nàng là cái gì của thái úy?”.
Chi Phú Bảo ngồi xụp xuống, nhìn kỹ dung nhân nữ tử tiều tụy nhưng vẫn không mất đi vẻ xinh đẹp, sờ sờ cằm, trầm ngâm một lúc rồi nói: “Chẳng lẽ nàng ta là bồ của thái úy?”.
Tạp Ba Tạp bừng tĩnh đại ngộ nói: “Lão Chi à, cuối cùng ngươi cũng thông minh ra rồi đấy. Ta xem không mười thì cũng phải tám chín phần là như vậy. Bát long nữ đều là thị tỳ của thái úy. Thái úy là người vô cùng phong lưu. Ngươi xem nàng ta mà xem, cho dù bây giờ không phải là bồ thái úy, nhưng thái úy gặp rồi, không khéo cũng trở thành bồ cũng nên”.
Thị vệ bên cạnh không thể nào nhịn nổi nữa, hét lên: “Hai vị đô úy đại nhân, chờ các ngươi biết rõ ràng rồi, nữ nhân này chết toi mất rồi”.
Tạp Ba Tạp kinh hãi nói: “Đã là bồ của thái úy, không thể để chết trong quân ta được”.
Chi Phú Bảo nhảy dựng lên: “Không sai, không sai. Nàng ta mà chết ở đây, chúng ta có nhảy xuống xông cũng không rửa sạch tội. Mau mau mau, lấy thảm ra đây, tranh thủ lúc nàng ta còn thở, khiêng đến chỗ thái úy đại nhân”.
Hai tên dở hơi lấy một cái thảm, nhẹ nhàng quấy lấy nữ nhân kia vào bên trong, lại thử thử hơi thở của nàng, quả nhiên vẫn còn thở. Hai gã đại hán vội vàng nâng nàng lên, chạy như điên về phía trung quân của Dương Hạo.
Ngoài trướng trung quân, Dương Hạo lo lắng bất an, đi tới đi lui, cũng không biết Trúc Vận trong trướng hiện giờ còn sống hay đã chết.
Hắn vạn lần không ngờ tới lại có thể gặp Trúc Vân ở chỗ này. Xem thương thế của nàng, cũng không biết đã trải qua bao nhiêu tràng chém giết thảm thiết. Vừa rồi vội vàng cho nàng dùng chút canh nóng, hô hấp của nàng cũng vững vàng hơn một chút, nhưng rốt cuộc sinh tử thế nào, bây giờ vẫn còn là một ẩn số.
Dương Hạo đang mai mê suy nghĩ, chợt nghe trong trướng vang lên một tiếng quát: “Cút ngay, còn dám chạm vào ta, ta giết ngươi!”.
Tiếp đó liền có một tiếng chén bát rơi xuống. Dương Hạo vội vàng xông vào, chỉ thấy lão lang trung trong quân đang nằm ngã ngửa ra mật đất, tiểu đồ đệ cầm hộp thuốc đứng bên cạnh của hắn thì kinh hoàng thất thố đứng đằng kia. Dương Hạo vội chạy tới đỡ lang trung dậy rồi đến bên cạnh giường, chỉ thấy Trúc Vận nằm ở mép giường, một tay chống bám vào thành giường, một tay cầm bội kiếm của Dương Hạo, nghiến răng, căm tức nhìn lang trung.
Dương Hạo nói: “Trúc Vận, ngươi làm sao vậy? Thế này là thế nào?”.
Lão lang trung suýt chút nữa bị một kiếm chém rách bụng, bị dọa cho sắc mặt tái nhợt, lúc này vừa thấy Dương Hạo liền vội vàng kể khổ: “Thái úy đại nhận, lão hủ phụng mệnh đến khám, chữa thương thế cho vị cô nương này. Ai ngờ vị cô nương này lại quá hung dữ, lão hủ còn chưa kịp cởi quần áo nàng ta ra, đã suýt bị nàng ta vung kiếm lấy mạng. Người ta thường nói, có bệnh thì đừng kỵ húy lang trung. Lão hán ta lớn từng này tuổi rồi...”.
Trong khi lão lang trung đang lải nhải, Trúc Vận vừa thấy Dương Hạo liền lập tức mềm nhũn người, ngã xuống giường: “Thái úy, Trúc Vận... Trúc Vận lần này tới Lũng Tây...”.
Dương Hạo ngắt lời nói: “Có chuyện gì thì chờ băng bó vết thương rồi hãy nói: ”.
“Không, việc này can hệ trọng đại”.
“Cho dù có trọng đại thế nào đi nữa thì cũng chờ bảo vệ tính mạng xong rồi hẵng nói”.
Trên cánh tay Trúc Vận có một vết đao chém, cơ thịt lộ hẳn ra ngoài, bởi vì bị ngâm nước quá lâu, không còn rỉ máu ra nữa, nhưng nhìn lại rất đáng sợ. Dương Hạo vội vàng gọi lang trung lại, phân phó: “Mau mau bôi thuốc, băng bó cho nàng”.
Trúc Vận vừa mới chạm đến miệng vết thương đã đau đến toát mồ hôi lạnh, trên trán đã lấm tấm mồ hôi, gượng cười nói: “Đại nhận, ta... Không sao đâu”.
Lão lang trung lập tức chen miệng nói: “Còn nói không có chuyện gì? Ôi trời đất ơi, cả người cũng không biết bị thương bao nhiêu chỗ nữa. Dưới xương sườn thì trúng hàng tá tên, trên đùi còn bị một đao nữa”.
Đột nhiên gượng ngồi dậy, khuôn mặt tức giận đến đỏ bừng: “Tên hỗn đản nhà người? Ngươi nhìn thân thể của ta rồi? Ta... Ta giết ngươi, ta phải giết ngươi”.
Vừa thấy Trúc Vận giãy dụa, lão lang trung sợ quá vội vàng chạy ra ngoài trường nhanh như chớp, chỉ dám thò đầu vào nói: “Cô nương, lão hủ tuyệt đối không nhìn thấy thân thể ngươi. Đó là do nước mủ máu loãng thấm ra ngoài ái, lão hán ta hai mắt không mù, lại quen trị vết thương do đao kiếm, chẳng lẽ còn phải cởi áo mới chẩn trị được ư?”.
Dương Hạo đỡ Trúc Vận nằm xuống, trách mắng: “Lại thế rồi, ngươi không muốn sống nữa phỏng?”.
“Nhưng...”.
“Được rồi, được rồi, hiện giờ đừng nói gì nữa. Trước tiên phải trị thương, có muốn nói gì thì chờ đắp thuốc, băng bó miệng vết thương rồi hãy nói, lang trung...”.
Dương Hạo quay đầu lại gọi người. Lão lang trung đang thập thò ngoài trướng vừa thấy ánh mắt đằng đằng sát khí của Trúc Vận, làm sao dám đi vào cơ chứ. Dương Hạo khuyên can mãi không được, cuối cùng tức quá, đi tới túm lấy cổ áo hắn, lôi hắn vào mới xong. Lão lang trung run run nhặt hộp thuốc lên, đặt ở đầu giường, trước tiên cẩn thận nhìn sắc mặt Trúc Vận thế nào, lại quay đầu lại nhìn Dương Hạo. Dương Hạo gật đầu cổ vũ, lúc này lão lang trung mới run run cởi chiếc áo đã ướt đẫm của nàng ra. Trúc Vận nhắm chặt hai mắt, trên gương mặt tái nhợt chợt hiện lên một vầng ửng hồng khác thường.
Áo ngoài vừa cởi ra chỉ thấy bên hông buộc một mảnh vải đã biến màu. Mảnh vải này rõ ràng là được xé từ trường bào ra, quấn quanh hông mấy vòng rồi thắt nút ngay trước bụng. Lão lang trung run run rẩy rẩy, không dám tháo băng vài ngay, ngón tay ngẫu nhiên chạm vào bụng nàng, ngược lại còn khiến cho Trúc Vận cả người căng cứng.
Lão lang trung tháo mãi không xong, cả người ướt đẫm mồ hôi. Hắn thở hổn hển, cố gắng xốc lại tinh thần, cúi sát người xuống để nhìn cho rõ. Nhưng vừa mới cúi xuống, Trúc Vận bỗng nhiên hét lên một tiếng, gạt tay hắn ra, thở hồng hộc nói: “Không được đụng vào ta, còn dám động vào, ta sẽ giết ngươi”.
Dương Hạo dở khóc dở cười nói: “Trúc Vận”.
Trúc Vân cầu khẩn nói: “Thái úy, để ta tự mình đắp thuốc có được không?”.
Lão lang trung đã sớm như con thỏ bị chấn kinh, vội vàng nhảy ra, vẻ mặt khổ sở nói: “Lão hủ chưa bao giờ gặp phải bệnh nhân khó chơi như vậy. Thái úy đại nhân a, dù sao thì cũng chỉ là bôi thuốc kim sang thôi mà, thuốc ở trong hộp đó, không bằng ngài cho người đi tìm kiếm một chút, kiếm nữ nhân đến rịt thuốc cho nàng đi. Lão hũ thật sự là hầu hạ không nổi”.
Dương Hạo cả giận nói: “Ở nơi khỉ ho cò gáy này thì tìm đâu ra người? Thương thế nghiêm trọng như thế này, còn kéo dài được nữa ư?”.
“Nhưng mà lão hủ”.
“Mau chuẩn trị đi”.
Dương Hạo nổi giận quát lên một tiếng, lão lang trung đành kiên gắng gượng lại gần, nhưng Trúc Vận vẫn nắm chặt thành Tử Điện kiếm lấp lóe sáng ngời, quật cường nói: “Không cho hắn nhìn thấy thân thể ta, nếu không, nếu không ta phải giết hắn”.
Lão lang trung vừa nghe được liền co vòi. Dương Hạo không khỏi cảm thấy đau đầu. Đáng tiếc trong quân không mang theo một nữ nhân nào. Bát long nữ kia đã để Mục Vũ đưa đi Cam Châu rồi, chờ Diễm Diễm sắp xếp cho các nàng về nhà. Sớm biết thế này, đã dẫn các nàng theo rồi.
Mắt thấy Trúc Vận bị thương mà vẫn dữ như hổ, lão lang trung lại run rẩy như con mèo bệnh, Dương Hạo đành nhắm mắt lại, quát: “Để hộp thuốc lại, các ngươi ra ngoài cả đi”.
Dương Hạo trầm giọng nói: “Trong quân thật sự tìm ra không ra một nữ tử, chuyện gấp phải tòng quyền. Bản thái úy tự mình rịt thuốc cho ngươi. Nếu ngươi cảm thấy tổn hại đến danh tiết, không thể chấp nhận, vậy người cứ một kiếm đâm chết ta là được!”. Dứt lời hắn liền ngang nhiên đến bên người Trúc Vận, đưa tay cởi mảnh vải trên eo nàng.
“Ngươi... Ngươi...”.
Thân thể mềm mại của Trúc Vận tựa như mắc phải bệnh sốt rét, cánh tay cầm kiếm run rẩy không thôi. Dương Hạo vừa mới tháo được nút thắt, Trúc Vận bỗng nhiên yêu kiều hô lên một tiếng. Đương một cái, thanh trường kiếm đã rơi xuống đất, hai tay vội vàng che mặt, giữa hai ngón tay lộ ra một làn da đã đỏ như máu...
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên Bộ Bộ Sinh Liên - Nguyệt Quan Bộ Bộ Sinh Liên