The more that you read, the more things you will know. The more that you learn, the more places you'll go.

Dr. Seuss

 
 
 
 
 
Tác giả: Nguyệt Quan
Thể loại: Tiên Hiệp
Upload bìa: Cau dat
Số chương: 634
Phí download: 21 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4446 / 84
Cập nhật: 2015-02-27 07:50:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 143: Hải Thị Thận Lâu
rên con đường cổ của Quảng Nguyên, một đoàn người dài uốn lượn như con rắn.
Từ xa nhìn lại hình như là một đội quân, vì có rất nhiều người mặc áo giáp, binh sĩ cưỡi ngựa cầm thương dài đi tới, khi đi lại gần hơn một chút thì giống như một đoàn thương gia, vì trong đội ngũ có rất nhiều chiếc xe to nhỏ với quy cách khác nhau, có lừa có ngựa, thậm chí có cả lạc đà, lại gần hơn nữa lại giống một đoàn người đi chạy nạn, dân chúng nghèo khổ quần áo rách rưới, có cả những đại hộ giàu có mặc gấm vóc lụa là, tất cả đều đang đi cùng nhau, đi từ từ trong hoang dã. Có một số đại hán Tây Bắc, một ngày nóng nực như vậy mà mặc một chiếc áo da dê rách, trên người bốc ra một mùi rất khó ngửi, bốn mùa xuân hạ thu đông họ cũng chỉ có một chiếc áo này mà thôi.
Đây chính là đám dân chúng mà Trình Đức Huyền và Dương Hạo đem từ Bắc Hán về, đại đa số trông còn nghèo khổ hơn ăn mày ở Trung Nguyên. Còn Hoàng Đế Bắc Hán Lưu Kế Nguyên lúc này đang ở trong cung điện biết được tin thì vô cùng đau xót, đó là một phần ba số dân của nước Bắc Hán.
Mặt trời chói chang nhô lên, không khí bốc hơi, một trận gió cuốn theo hơi nóng đến, làm cho người ta hoàn toàn không cảm thấy mát mẻ. Hơi híp mắt nhìn về phía xa, cảnh vật trong làn khí nóng chập chờn dao động như ảnh trong nước. Mọi người đều sức cùng lực kiệt, mà đám binh sĩ vẫn không ngừng thúc giục. Binh sĩ bây giờ biết rằng Hoàng Đế Bệ Hạ đang vì họ mà cản ở phía sau, đang khổ chiến với người Khiết Đan, phải nhanh chóng rời xa nơi nguy hiểm. Họ biết rằng dân chúng đang không khỏi oán thán. Một mặt họ vứt bỏ hết những lời oán thán đó, một mặt họ dùng đao thương uy hiếp, rồi tiếp tục tiến về phía trước.
Một chiếc xe lừa trước mặt đã lọt vào hố, con đường cổ này mấy ngày trước có trận mưa rất lớn, nên ở đây sinh ra một số hố nước, bên ngoài đã khô ráo, nhưng bên trong vẫn còn bùn lầy. Con lừa đó đã dùng hết sức nhưng vẫn không thể kéo xa đi qua. Đám dân chúng đi từ một phía tới. Có chút hờ hững đứng nhìn một cụ già ở phía trước xe đang bạt mạng dắt con lừa và một người đàn bà đang đẩy xe ở phía sau. Không có một ai đến giúp một tay. Họ vốn không quen biết. Lúc này, những người có lòng cảm thông hình như đều bị sự mệt mỏi và cái nắng cay độc của mặt trời hành hạ hết rồi.
“Mau lên, mau lên. Các ngươi sao lại chậm chạp, mau đi nhanh”. Hai kỵ binh phát hiện ra có chút khác thường, liền phi ngựa tới, giơ thương dài ra quát lớn.
Người đàn bà sắp phát khóc. Lắp bắp đáng thương giải thích: “Quân gia, không phải là tiểu dân không đi, mà là chiếc xe này bị sa lầy rồi”.
Dương Hạo phi ngựa tới, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy? Ý, là bà sao?”.
Hắn nhìn người đàn bà ấy có chút quen mặt, nhìn kỹ lại, đột nhiên nhớ ra bà ta là người mà hôm đó hắn vào trong thôn tìm tàn binh Bắc Hán đã từng gặp. Người đàn bà này vừa nhìn cũng nhận ra hắn, mừng rỡ gọi: “Dương lão gia”.
Dương Hạo xuống ngựa bước tới nói: “Không cần phải gọi là lão gia. Gọi một tiếng đại nhân là được rồi. Đại tẩu, đứa bé trong nhà bà đâu?”.
Lúc này có người trong xe gọi vọng ra: “Dương Hạo đại thúc”.
Dương Hạo quay sang nhìn vào xem, chỉ thấy chiếc rèm vải hoa được vén lên một góc, có một đứa bé đang ngồi co quắp tận sâu bên trong xe. Chỉ có hai con mắt là sáng long lanh, dùng một cái nhìn đầy rạng rỡ và trìu mến nhìn hắn, nhưng nhìn không rõ mặt đứa trẻ đó, chỉ cảm thấy có vẻ hơi nhem nhuốc, vẫn giống như một con cún con, bên cạnh nó là một đống xoong chảo chum vại.
“Cẩu nhi. Mọi người cũng bị đưa đến đây sao?”. Dương Hạo kinh ngạc hỏi: “Đến đây, đại thúc giúp cháu đẩy xe ra”.
Dương Hạo dùng hết sức để đẩy xe, nhưng chiếc xe đã bị lún sâu, những đồ vật linh tinh nhét đầy xe đã làm nó quá nặng, con lừa ở phía trước kéo một cái, bộ phận trục xe có chút vặn vẹo, nếu còn dùng thêm lực lớn thì e rằng chiếc xe sẽ nứt ra bốn năm phần. Dương Hạo phía sau hoàn toàn không dùng thêm được sức nữa, mặt đỏ lên. Đang muốn hét hai binh sĩ đến giúp nâng xe, thì ở một phía xa bỗng truyền đến tiếng kêu khàn khàn: “Mộc Ân, đi giúp một tay đi”.
Dương Hạo quay đầu nhìn, chỉ nhìn thấy một đại hán mặt đầy râu quai nón đang đứng trong một chiếc xe, đỉnh đầu bù xù. Vị đại hán này thực ra ít nhất đã năm mươi tuổi rồi, râu và tóc đều đã hoa râm, khuôn mặt đầy nếp nhăn như khắc. Dương Hạo vừa nhìn đã ngộ nhận rằng đó là một đại hán chỉ vì trông người này thật sự vạm vỡ lực lưỡng. Hắn đang ngồi khoanh chân trong xe, lại cho người ta có cảm giác như cây tùng trên thái sơn, như tảng đá dưới đông hải, cao ngạo, mạnh mẽ.
Người này vừa cất tiếng ra lệnh thì một đại hán ngồi cạnh xe lập tức nhảy xuống. Dương Hạo và đôi mắt đầy bể dâu nhìn xa trông rộng gặp nhau, đảo mắt nhìn vị đại hán, nhất thời lại bị dọa cho sợ hãi. Trời nóng vô cùng, vị đại hán này để lưng trần trụi, cơ thể ngăm đen với những bắp thịt phơi dưới ánh mặt trời cuồn cuộn như những gò đất, rắn chắc như sắt đúc.
Nhìn hắn chắc phải cao trên dưới một mét chín, cho dù khổ người của dân chúng vùng Tây bắc thường khá cao, nhưng dáng của người này vẫn làm cho người ta kinh ngạc, đặc biệt là hắn không chỉ cao mà còn rất cường tráng. Nếu như đứng so với hắn thì Dương Hạo chỉ cao trên eo hắn một chút.
Vị đại hán này đi đến phía sau xe, nhìn dò xét trên dưới, lưng cong xuống, hai cánh tay đưa xuống nhấc chiếc xe. “Hey” một tiếng kêu trầm vang lên. Chiếc xe đã được hắn nhấc lên. Hắn nhấc chiếc xe qua chô khe, lại nhẹ nhàng đặt xuống. Xem ra rất dễ dàng. Cẩu nhi ở bên trong xe như có thừa sức lực kêu “Aizaa” một tiếng, vội vàng đỡ đống đồ liểng xiểng như muốn rơi xuống.
Đại hán nhếch mép cười. Lại như không có chuyện gì xảy ra, đi về phía xe của mình, cầm chiếc rơi lớn giơ lên. Phi chiếc xe về phái trước. Dương Hạo để ý thấy chiếc xe đó là dùng hai con la khỏe kéo. Trên xe chỉ ngồi hai đại hán cao to tóc hoa râm, hơn nữa sau khi xe đi qua lại có mười mấy hán tử đang đi theo sau, có vẻ đều là tôi tớ của họ. Nhìn dáng vẻ như vậy, có lẽ người này là một phú thân hào thương. Nhưng nhìn quần áo và những thứ bố trí trong xe lại như không phải. Đặc biệt là đám đại hán đi theo sau, người nào người nấy quần áo tả tơi, còn kém ăn mày mấy phần.
Sự tò mò chỉ lóe lên trong lòng, hắn liền đứng bên cạnh xe, vừa dắt ngựa đi, vừa nói chuyện với người đàn bà. Hóa ra nhà chồng người đàn bà này họ Mã, chồng sớm đã chết trong binh tai, để lại hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống, mẹ con họ bị binh lính của Trình Đức Huyền ép ra đây, họ đành phải phục tùng, lại sợ đứa trẻ bị ánh mặt trời chiếu đốt nên đã thỉnh cầu một người già trong thôn để chừa lại một chỗ cho đứa con trai.
Sau khi hỏi rõ sự tình, Dương Hạo liền nói: “Đại tẩu, cả chặng đường này nhất định sẽ rất vất vả. Nhưng đến được Trung Nguyên rồi cuộc sống sẽ tốt hơn nhiều so với ở Bắc Hán. Ở đó giàu có, lại có thể tùy ý tìm được kế mưu sinh, cuộc sống của hai người cũng khá hơn nhiều so với ở đây. Hai người cứ yên tâm mà đi đi, có chuyện gì cứ nói với ta một tiếng, nếu có thể giúp ta nhất định sẽ giúp”.
Đại tẩu liên tục cảm ơn. Dương Hạo quay người lên ngựa, phi về phía trước. Cẩu Nhi ở trong xe vội kêu lên: “Dương Hạo đại thúc”.
Dương Hạo hắng ngựa, quay lưng cười nói: “Cẩu Nhi, gọi đại thúc có chuyện gì vậy?”.
Cẩu Nhi đôi mắt hấp háy nhìn Dương Hạo, lại không dám thò đầu ra, chỉ nói: “Đại thúc, đại thúc cũng phải đến Trung Nguyên định cư à?”.
Dương Hạo cười nói: “Đại thúc không đi đến Trung Nguyên, nhưng đại thúc sẽ hộ tống mọi người đến đó”.
“Ồ...”.
Cẩu Nhi có chút thất vọng. Nghĩ nghĩ rồi lại hỏi: “Đại thúc, thúc tối nay có thể ở cùng Cẩu Nhi không? Cẩu Nhi vẫn chưa từng rời xa thôn, chưa từng nhìn thấy trời đất bên ngoài. Tối nay ở đây nhiều người như vậy, rất náo nhiệt. Nhưng mẹ sợ tản đi sẽ không tìm thấy xe của mình nữa, nên không có phép cháu đi lại xung quanh”.
Mã đại tẩu vội quát lớn: “Thật không hiểu chuyện, Dương lão gia... Dương đại nhân có rất nhiều việc phải làm, cả một ngày không biết đã mệt đến thế nào, làm gì có thời gian đi cùng với con”.
Cẩu Nhi trề cái môi nhỏ ra, Dương Hạo cười nói: “Được rồi, nếu như tối nay có thời gian, đại thúc sẽ dẫn cháu đi dạo trên thảo nguyên này và nói chuyện nhé”.
Cẩu Nhi nghe thấy liền cười tươi, kìm chế không được hưng khởi nói: “Vâng. Dương Hạo đại thúc, tối nay Cẩu Nhi chờ thúc”.
Dương Hạo cười rồi đạp hai chân vào hông ngựa, phi về phía trước, xa xa nhìn về chiếc xe được mười mấy vị đại hán hộ tống. Hắn đột nhiên nghĩ đến điều ngờ vực lúc nãy, lại tiến gần đến. Nghiêng đầu nhìn vào trong xe, chỉ thấy một người già ngũ tuần đang cầm một cái túi da dê từ bên chỗ ngồi, đang vặn mở nắp túi đổ đầy nước từ trong đó vào mồm, nhìn dòng nước chảy tràn ra hai bên mồm, có vẻ như đó là rượu chứ không phải nước thường.
Nhìn thấy Dương Hạo đang nhìn về phía hắn. Người già hơi mỉm cười, Dương Hạo nói: “Lão bá làm gì vậy? Cơ thể thật khỏe mạnh”.
Người già cười nhạt nói: “Ta là người mệnh khổ, lận đận long đong nửa đời người, chỉ dựa vào nuôi ngựa mà sống, lại chẳng thể nói là có gia nghiệp gì. Hôm nay được Trình đại nhân đưa đến Trung Nguyên. Ha ha ha, không chừng sẽ được sống những ngày tốt đẹp, ta rất vui mừng”.
Dương Hạo nhìn thấy hắn có vẻ nghĩ một đằng nói một nẻo. Nghĩ hắn nhất định có điều giấu giếm, xem ra đội quân của mình đúng là long xà hỗn tạp, mọi loại người đều có. Hắn đang muốn nói xa nói gần hỏi thêm lần nữa, thì đột nhiên nghe thấy phía trước truyền đến một trận chửi mắng ồn ào, liền thúc ngựa phi đến trước.
Cả chặng đường tới đây, tuy là hộ tống dân chúng đến nước Tống, đến bây giờ vẫn chưa gặp phải quân Khiết Đan, cũng chưa từng gặp đạo tặc, nhưng chuyện nhỏ chuyện lớn lại không ngừng xảy ra, có người trốn chạy, có người ẩu đả, có người lạc đội, có người phát bệnh, những đại quân này làm gì còn tâm trí để mà giảng giải đạo lý với người khác nữa, những chuyện này luôn không thể phân biệt được phải trái đúng sai, không thể phân biệt ai đúng ai sai, mà chỉ có thể dùng quyền để phân định. Vì một chút cãi cọ mà làm cho dân chúng oán giận. Hai vị Khâm Sai Trình Đức Huyền và Dương Hạo cứ phải chạy qua chạy lại để giải quyết mâu thuẫn, làm an lòng dân. Quả thật là mệt vô cùng.
Vừa nhìn thấy đằng trước có người tụ tập, Dương Hạo lại lo rằng dân chúng được hộ tống và đám binh sĩ lại xảy ra mâu thuẫn, lập tức phi ngựa như bay tới. Đến được phía trước lại chỉ nhìn thấy mấy tên binh sĩ của mình đang cầm thương vây quanh một người, Phạm Lão Tứ đang hô lớn nói cái gì đó.
Người đó nhìn có vẻ khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, cơ thể hơi gầy, khuôn mặt hắn yếu ớt, tóc đen nhánh, hai con mắt nhỏ như kiểu luôn ngủ không tỉnh, dưới mép là lưa thưa ít râu, mặt một chiếc áo dài vừa rách vừa bẩn, trên đầu là một búi tóc dùng một cây xiên túm rối, có chút giống một kẻ đi vân du bốn phương.
Dương Hạo phi ngựa đến, cất cao giọng hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”.
Người đó nhìn thấy có người đến, từ từ ngẩng đầu lên nhìn. Khi nhìn thấy dung mạo của Dương Hạo, hắn vội ngây người ra, lại nhìn kỹ một lần nữa. Hai con mắt như luôn không mở ra đột nhiên sáng lên như sao mờ, lại có chút chói mắt.
Nhưng Dương Hạo lại không hề nhìn vào thấy, hắn nhìn về phía Phạm Lão Tứ hỏi xong mới lại quay đầu nhìn người đó. Sự ngạc nhiên trên khuôn mặt người đó đã biến đi, hai con ngươi cũng không sáng lên nữa.
Phạm Lão Tứ vừa nhìn thấy Dương Hạo đến liền chắp tay bẩm báo: “Đô giám đại nhân, chúng ta vừa mới dò đường phía trước, thì nhìn thấy người này lấm la lấm lét trốn trong bụi cỏ, nghi rằng hắn là chó săn dò thám của Khiết Đan, nên bắt hắn đến truy hỏi, hắn lại nói là đang đi đại tiện ở trong bụi cỏ, nhìn thấy người ngựa đại quân đến nên không dám ra ngoài, vì vậy mới trốn ở trong đó”.
“Sao cơ?”. Dương Hạo nghi hoặc nhìn về phía cái người có tướng mạo rất bình thường kia, lại nhìn về cánh đồng bát ngát phía sau, hỏi: “Một người lại một mình đến thảo nguyên Tây Bắc hoang vu này, nói xem để làm gì?”.
Phạm Lão Tứ nói: “Thuộc hạ cũng đang nghi ngờ điều này, cổ đạo hoang dã ít có người qua lại, nếu thật có người đến đây thì chí ít cũng phải đi cùng mấy chục người mới có thể an toàn. Đột nhiên một mình chạy đến đây, khó tránh khỏi có điều nghi ngờ”.
Lúc này người đó chợt nhún vai, cúi đầu hướng về Dương Hạo, nói: “Vô lượng thiên tôn. Vị Thái Úy này xin nghe ta nói. Bần đạo là một khổ hành đạo nhân, trời nam đất bắc, chu du thiên hạ, mấy ngày trước vốn theo một thương đoàn qua đây, nhưng lại bị cường đạo tập kích, những thương nhân đó đều đã tháo chạy, bần đạo và họ đã ly tán, rồi lạc đường đến đây. Bần đạo cũng là người Hán, thật sự không phải là gian tế Khiết Đan, cúi xin Thái Úy minh giám”.
“Ồ”. Dương Hạo lại nhìn kỹ hắn, hỏi: “Đạo trưởng tu hành ở đâu?”.
Người đó vươn bộ ngực lên, mỉm cười nói: “Trong lòng có đạo, thì khắp thiên hạ có nơi nào là không thể tu hành?”.
“Ồ. Thế đạo trưởng từ đâu tới?”.
“Bần đạo đến từ nơi đến”.
“Thế đi về đâu?”.
“Đi về nơi phải về”.
Dương Hạo mỉm cười rồi nhẹ nhàng nhấc cánh tay phải lên, chỉ xuống dưới, thản nhiên nói: “Đánh hắn cho ta”.
Mấy binh sĩ lập tức vứt thương xuống, chạy đến tay đấm chân đạp.
“Ôi ôi, tha mạng cho ta. Xương cốt của bần đạo... Aiya... Không thể chịu nổi quyền cước của quân gia đâu... Ai ya...”.
Lão đạo bị mấy binh sĩ đánh cho hoa mắt chóng mặt, người cuộn tròn trên mặt đất kêu rên không ngừng. Rồi hắn chợt cảm thấy quyền cước trên người hắn đã dừng lại, mở to mắt ra nhìn, liền thấy vị Dương Thái Úy đang ngồi xổm phía trước mặt hắn, cười mà như không cười nhìn hắn, lão đạo lắp bắp nói: “Thái... Thái Úy...”.
Dương Hạo dùng roi ngựa nhẹ nhàng hất cằm hắn, cười nói: “Đạo trưởng tu hành ở đâu, từ đâu đến?”.
“Bần đạo tu hành ở Thái Hoa Sơn Vân Đài Quan. Đến từ Thái Hoa Sơn”.
“Đi về đâu?”.
“Lên núi Tử Vi bên ngoài Nhạn Môn Quan để tìm đạo hữu”.
“Tôn hiệu của đạo trưởng là gì?”.
“Bần đạo là Phù Diêu Tử”.
“Ha ha. Ngươi xem, nếu sớm nói thì đã không bị ăn đòn”.
Dương Hạo đứng dậy nói: “Phía trước đang có đại chiến, cửa ải này ngươi không thể qua được, hay theo người ngựa của ta quay về, một khi vào được lãnh thổ hoàng toàn khống chế của người Tống ta, thì lúc đó muốn đi đâu thì tùy ngươi. Phạm Lão Ngũ, trông chừng hắn, không cho phép người này rời khỏi đội quân ta”. Nói xong liền nhảy lên ngựa phi đi.
Lão đạo toát ra đầy hơi lạnh. Đứng lên trong tiếng người nhe răng nhếch miệng của đám binh sĩ, nhìn theo bóng Dương Hạo đang dần xa, trong lòng thầm nghĩ: “Ngươi, cái đồ yêu nghiệt, thật dám ra tay ư. Lão đạo ta năm nay đã sống đến chín mươi chín tuổi, còn chưa từng bị người ta đánh...”.
Dương Hạo phi ngựa trở về, Trình Đức Huyền liền ra đón, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”.
Dương Hạo thắng ngựa nói: “Không có chuyện gì cả, chỉ là gặp phải một đạo nhân lôi thôi, cũng không nhìn ra điều gì đáng nghi, nhưng để cho an toàn nên ta đã lệnh cho binh sĩ xem chừng hắn, bắt hắn đi theo chúng ta, đến khi vào lãnh địa của Trung Nguyên rồi thì sẽ thả hắn đi”.
Trình Đức Huyền nghe xong tán thành nói: “Dương đô giám suy nghĩ thật chu đáo. Chuyến đi lần này của chúng ta nhìn có vẻ an nhàn, nhưng thực ra nguy hiểm trùng trùng”.
“Đúng vậy”. Dương Hạo lau lau mồ hôi trên, nhìn về phía đội quân dài dằng dặc, nhăn mày nói: “Đã đi được ba ngày rồi, cũng không biết tình hình chiến sự của Quan Gia như thế nào rồi, thật làm cho người ta lo lắng. Chúng ta nên đi nhanh hơn nữa, mới có thể thoát khỏi nguy hiểm”.
Trình Đức Huyền cười gượng nói: “Nhưng tốc độ này đã không thể nhanh hơn được nữa, thời thiết nóng bức, trong hàng ngũ có rất nhiều người già trẻ nhỏ và phụ nữ. Nếu như phía sau có truy binh thì khỏi phải nói, nhưng bây giờ gió yên biển lặng, lại bắt họ nhanh chóng lên đường, mấy vạn người này làm sao chịu?”.
Dương Hạo lắc đầu nói: “Ta thà đi tiếp như thế này còn hơn là thật sự có truy binh đằng sau, nếu không... Chúng ta sẽ chính là mục tiêu, mang nhiều người như vậy, muốn thoát khỏi truy kích của kỵ binh Khiết Đan không phải là chuyện dễ”.
Trình Đức Huyền gật gật đầu, trong lòng thầm lo lắng, phi ngựa rời đó đã ba ngày rồi, ba ngày sóng yên biển lặng, nhưng càng bình yên thì lòng hắn càng bất an. Nếu như Quan Gia giành được thắng lợi thì không có lý nào lại không phải người báo cho họ tình hình chiến sự, hành quân về phía đông là do một mình tay Quan Gia chỉ định, hắn không thể không tìm được người. Do đó, chỗ Quan Gia mãi không có tin tức gì, lẽ nào đại quân triều đình đã...”.
Hắn lắc lắc đầu, thầm an ủi: “Sẽ không đâu. Nếu như quan quân triều đình thật sự đại bại, thì quân lính tan rã sớm đã tháo chạy, tuy người Khiết Đan hung hãn như vậy lẽ nào lại có thể một hơi ăn hết được hơn mười vạn người ngựa sao? Nói như vậy, hai quân hẳn là sẽ giằng co với nhau, nếu như thế mình dẫn đầu mấy trăm vạn dân sẽ có thể rời khỏi nơi nguy hiểm, nhanh chóng đến được chỗ an toàn”. Nghĩ như vậy, lòng hắn bình tĩnh hơn.
Dương Hạo ghìm ngựa nhìn trước nhìn sau. Hơi nhăn mày nói: “Trình huynh. Lúc này mặc dù sóng yên biển lặng, nhưng luôn không có tin tức của phía sau, việc đề phòng vẫn cần phải làm. Huynh xem, đội ngũ tùy tùng hộ vệ của chúng ta kéo quá dài, còn nữa, nhưng chiến xa cũng đều hỗn tạp trong đoàn xe của dân chúng, như vậy, một khi có người đến đột kích thì rất khó có thể phát huy tác dụng. Thực ra những dân chúng này đều là những lương dân an phận thủ thường, một binh trông chừng một nghìn người cũng sẽ không có người dám phản kháng lại. Chúng ta nên để lực lượng quân tập trung lại bảo vệ cho hậu trận”.
Trình Đức Huyền tuy có tài kiếm thuật, nhưng thực ra hắn chỉ giỏi văn tài y, chứ hoàn toàn không hiểu binh pháp, còn không hiểu biết nhiều bằng những gì Dương Hạo biết được khi xem tivi. Nghe thấy Dương Hạo nói vậy liền đáp lại: “Quan Gia phái cho chúng ta mấy nghìn binh này, một là để áp tống dân chúng, phong có kẻ gây náo loạn, hai là đề phòng sơn tặc thổ phỉ chặn đường cướp. Nếu thật sự người Khiết Đan đuổi tới, thì ba nghìn binh của chúng ta có phòng thủ thì cũng được ích gì?”.
Dương Hạo nói: “Nếu như thật sự có chuyện đó, thì ba nghìn quân của chúng ta ít nhất cũng có thể chống cự lại được một lúc. Nếu không tập trung lại thì sẽ bị chia rẽ ngay.
Trình Đức Huyền lắc đầu, lại gật đầu, thở dài nói: “Được rồi. Vậy sắp xếp như ngươi nói đi. Nhưng đội quân người ngựa của chúng ta không nên thật sự dùng vào việc này mới tốt”.
*
* *
Bóng đêm đã trùng xuống. Cái nóng khắc nghiệt của ban ngày đã được quét sạch, gió trên thảo nguyên cũng lạnh hơn. Nhiều người như vậy, lại đa phần là những người không có kinh nghiệm đi xa, nên tuy đã là ngày thứ ba, nhưng muốn thu xếp ổn thỏa cho tất cả bọn họ cũng mất khá nhiều sức lực.
Dương Hạo đã đi xem xét qua một lượt các binh sĩ đi áp ở phía sau, rồi cứ ba đến năm tốp lại tập hợp thành một nhóm. Xong việc hắn liền đi qua bên cạnh đám dân chúng đang đốt lửa nấu lương khô để ăn. Đi chưa xa thì đột nhiên nghe thấy có người gọi: “Dương Hạo đại thúc”.
Dương Hạo dừng bước quay người thì nhìn thấy Cẩu Nhi đang vừa đi vừa nhảy từ chỗ đống lửa về phía mình, mẹ của nó đang đốt lửa để nấu chút lương thực mà binh sĩ đã phát cho, nhìn thấy đứa con chạy ra khỏi thì vội vàng gọi nó, Cẩu Nhi quay đầu nói: “Mẹ. Con đi chơi cùng với Dương Hạo đại thúc”.
Dương Hạo giơ tay vẫy vẫy với Mã đại tẩu, nói: “Đại tẩu, cho Cẩu Nhi đi với ta đi, một lát ta sẽ đưa nó về”. Mã đại tẩu lên tiếng đồng ý, rồi lại ngồi xổm bên đống lửa.
Dương Hạo nắm bàn tay nhỏ nhắn gầy yếu của Cẩu Nhi, cười nói: “Cẩu Nhi, từ mặt trời xuống dưới núi chính là thiên hạ của cháu, ha ha. Mẹ cháu chăm sóc cháu rất vất vả, không được nghịch ngợm nhé”.
Cẩu Nhi ngây thơ đáp: “Cẩu Nhi rất nghe lời mẹ, từ trước đến nay không có nghịch ngợm”.
“Thật không? Mới vừa rồi thúc thấy có người đang nằm nghỉ bên cạnh đống lửa, tại sao lại nhìn thấy cháu hình như đang trêu chọc người ta nhỉ?”.
Cẩu Nhi che miệng cười: “Dương Hạo đại thúc, thúc không biết rồi. Hôm nay có một người ăn mặc cực kỳ quái dị mới đến, mẹ nói ông ta là người xuất gia, gọi là đạo sĩ. Đạo sĩ này rất kỳ quặc. Khi mọi người đi thì ông ta lại ngủ, vừa đi vừa ngủ. Khi mọi người dừng lại, ông ta vẫn còn ngủ, cũng đòi người ta đồ ăn. Lúc nãy đống lửa vừa mới bốc lên thì ông ta đã nằm ngủ mất rồi. Cẩu Nhi lấy cọng cỏ chọc vào mũi ông ta mà ông ta cũng không tỉnh”.
“Ồ”. Vừa nghe Cẩu Nhi nói vậy, Dương Hạo đã biết đó là ai. Sớm đã thấy người này có gì đó kỳ quặc. Hôm nay nhìn thấy biểu hiện của hắn, thật sự có chút dáng vẻ của kỳ nhân giang hồ.
Kỳ nhân giang hồ, tài nghệ có cao bao nhiêu thì cũng có cao hơn Trình đại tướng quân không? Dương Hạo cười một lát, lại quay đầu nhìn. Chỉ nhìn thấy đạo sĩ đó đang nằm nghiêng, tay để lên trán ngủ rất ngon, một chùm râu bị gió thổi đang hơi bay bay trong ánh lửa.
“Dương đại thúc, Cẩu Nhi... Cẩu Nhi đói rồi”.
Dương Hạo quay đầu lại, cầm bàn tay nhỏ của đứa bé, nói: “Cẩu Nhi mấy ngày nay đã ăn gì rồi?”.
Cẩu Nhi vui mừng, giơ ngón tay ra đếm và nói: “Mấy ngày nay được ăn rất nhiều thứ, có bánh nang, có màn thầu, còn có cơm gạo trắng. Rất thơm, rất thơm. Từ sau khi cha mất, Cẩu Nhi chưa từng được ăn nhiều thứ ngon như vậy. Trước đây, mỗi khi đến tết may mắn lắm thì Cẩu Nhi cũng chỉ có thể ăn được một miếng”.
Dương Hạo trong lòng có chút thương xót, nói: “Đi thôi, đi ăn tối với đại thúc nào, ở chỗ đại thúc không những có bánh nang, còn có cả thịt nữa, rất thơm”.
Hắn quay đầu nói một tiếng với Mã đại tẩu ở phía xa, rồi nắm bàn tay nhỏ của Cẩu Nhi đi về phía trại của mình. Đến được chỗ của hắn thì tân binh đã nấu xong cơm rồi. Màn thầu, cơm, canh thịt thơm phưng phức. Cẩu Nhi nhìn thấy thèm đến nuốt nước bọt, Dương Hạo cười cười rồi gọi tân binh đem đến cho đứa nhỏ một bát đầy, mình cũng bê lấy một bát, vừa ăn vừa hỏi: “Cẩu Nhi, cháu chỉ có biệt danh này thôi sao, tại sao cha cháu lại không đặt một cái tên cho cháu?”.
Cẩu Nhi đang ăn ngấu ăn nghiến, nghe thấy liền dừng đũa lại. Buồn bã nói: “Cha nói, nhà nghèo, gọi Cẩu Nhi cho dễ nuôi. Cha nói, đợi khi nào Cẩu Nhi lớn sẽ đặt một cái tên hay cho Cẩu Nhi, nhưng... Sau đó, loạn binh đánh giết tới, cha đã chết rồi...”.
Dương Hạo nhìn đứa bé, thực ra Cẩu Nhi trông rất thông minh lanh lợi. Chỉ có điều đến tối lại xuất hiện bệnh lạ, da tái nhợt đi. Hoàn cảnh gia đình lại khó khăn, làm cho nó thiếu chất dinh dưỡng. Nhìn dáng vẻ của nó có chút giống như củ cả rốt nhỏ. Dương Hạo cười nói: “Đừng buồn nữa, hay là... Đại thúc giúp đặt tên cho Cẩu Nhi nhé?”.
“Được ạ, được ạ” Ánh mắt Cẩu Nhi sáng lên, vội vàng bê bát chạy đến ngồi phía trước hắn: “Đại thúc, thúc đặt tên gì cho Cẩu Nhi?”.
“Ừm...”. Dương Hạo nhìn ngọn lửa phía trước, nói: “Cháu à, trời sinh đã có bệnh lạ, chỉ đêm mới phát tác, mãi mãi không thể nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Trong cuộc sống của cháu, thứ khó có nhất chính là ánh sáng, cho nên... Ta sẽ gọi cháu là Mã Diệc nhé. Chữ Diệc này có bốn ngọn lửa, bù đắp cho cái thiếu mất trong cuộc sống của cháu”.
“Mã Diệc...”. Cẩu Nhi lẩm bẩm nhắc đi nắch lại cái tên, đột nhiên nắm lấy tay Dương Hạo. Vui mừng nói: “Đại thúc. Cháu nhớ kỹ rồi. Sau này cháu tên là Mã Diệc, thúc có thể dạy cháu viết tên cháu không?”.
Dương Hạo thuận tay với lấy một cành củi, vẽ ngay ngắn xuống dưới đất hai chữ “Mã Diệc”. Cẩu Nhi vội vàng vét mấy hạt cơm còn thừa lại trong bát đưa vào mồm, rồi cũng nhặt lấy một cành củi, quỳ xuống đất, cầm học viết từng nét một, ánh lửa chiếu vào mặt nó, có vẻ rất chăm chỉ.
“Nhóc này, buồn ngủ chưa, ta nên đưa cháu về nhà, nếu không mẹ cháu lại lo lắng”.
Cẩu Nhi ngẩng mặt lên cười nói: “Cháu không buồn ngủ. Ban ngày ngủ đủ rồi”. Nó nhảy lên, chỉ tay vào đám người ở phía xa xa, vui vẻ nói: “Cháu từ trước tới giờ chưa từng có buổi tối mà lại có nhiều người ở cùng với cháu như vậy, thật náo nhiệt”.
Dương Hạo mỉm cười, nắm tay nó. Kéo đứa trẻ cô đơn, rất dễ vì một chút thỏa mãn mà vui vẻ đó đi lên phía sườn núi cao, rồi cùng nhìn đoàn người dài như một con hỏa long. Sau đó quay về phía đông nam, ôm lấy đứa trẻ, chỉ tay về phía xa, nói: “Cẩu Nhi, cháu nhìn bên kia kìa. Chúng ta sẽ phải đi một con đường rất xa rất xa, qua một con sông rất rộng rất rộng, rồi đến một thành trì rất lớn rất lớn.
Thành trì đó gọi là Khai Phong. Sau khi tất cả các nước trong thiên hạ đều chìm vào màn đêm thì những ngọn đèn ở đó lại sáng và nhiều như sao trên trời. Đó là thành duy nhất trên thế giới không có ban đêm. Người trong ngôi thành đó nhóm lửa nấu cơm không giống như chúng ta dùng củi để đốt, mà là dùng đá màu đen. Cháu nói xem có vui không?
Điều vui nhất chính là mỗi tối, ở đó lại có rất nhiều rất nhiều người, nhiều hơn gấp mười lần chúng ta ở đây, họ mặc những bộ quần áo xinh đẹp, đi vào trong thành phố đêm náo nhiệt. Đến đó rồi, cháu mãi mãi sẽ không cô đơn như bây giờ. Cho dù ngày ngày cháu chỉ có thể ra ngoài vào ban đến, nhưng vẫn sẽ nhìn thấy chợ phiên, cửa hàng, tửu lầu, quán trà mở cửa giống như ban ngày. Ở đó, cháu có thể tìm thấy rất nhiều bạn, sẽ không còn cần mẹ cháu dẫn đi nữa, không phải cầm một ngọn đèn lồng đi trong thôn tĩnh mịch, một mình trèo cây lúc nửa đêm nữa...”.
Cẩu Nhi đôi mắt lấp lánh, lẳng lặng nghe, trong ánh mắt càng lúc càng sáng lên, nó nhẹ nhàng hỏi: “Đại thúc. Đó... Chính là Đại Tống?”.
Dương Hạo một cánh tay ôm đứa trẻ, cái dáng gầy gò của nó trông như một con mèo không có sức lực. Dương Hạo mỉm cười nói: “Đúng vậy, nơi đó chính là Đại Tống, là nơi giàu có nhất thiên hạ”.
“Vậy... Tại sao đại thúc không đến đó sống?”.
“Ha ha. Ở đó tuy tốt, nhưng đại thúc còn có rất nhiều việc phải làm. Đợi đại thúc làm xong tâm nguyện, có lẽ... Sẽ đến đó sống”.
Ánh mắt Dương Hạo từ từ nhìn quay sang hướng đông, nụ cười dần tan biến, con mắt trở nên mông lung: Mẹ già Dương thị, Đại Lương ca, Tao Trư Nhi. Còn có người mà làm người khác phải thương - La Đông Nhi, khuôn mặt như hiện ra rõ rệt, dường như đang nổi lên trên bầu trời đêm. Đang mỉm cười với hắn...
Hắn hít hít cái mũi, ngăn dòng nước mắt mình. Đứa trẻ trong lòng tuy mãi mãi chỉ có thể sống trong màn đêm, nhưng trái tim thơ ngây của nó lại chưa từng bị nhiễm bụi trần. Dương Hạo không muốn để nó biết trên đời này còn có nhiều chuyện tàn khốc, những trái tim cay nghiệt độc ác như vậy...
Cẩu Nhi được đưa về bên cạnh mẹ. Có lẽ là vì xung quanh có rất nhiều người, nó cả đời chưa từng nhìn thấy nhiều người như vậy, hoặc cũng có lẽ là vì Dương Hạo đêm nay đã kể cho nó những thứ bên ngoài thế giới kia, vì thế vui mừng quá mà không ngủ được, cứ kéo kéo tay mẹ, kể những thứ đã được nghe. Nó rất tự hào vì nó biết được nhiều thứ mà mẹ nó không biết, nó có kiến thức hơn mẹ. Nó biết thiên hạ này rất lớn, ngồi xe cưỡi ngựa cũng phải đi rất xa rất xa. Nó biết nơi mình cần đi phải vượt qua một con sông rất rộng, nó biết bên kia sông là một cái thành, đó là thành phố duy nhất trong thiên hạ mà đêm cũng náo nhiệt như ngày, khắp nơi đều là đèn, giống như sao trên trời vậy.
Nó chớp chớp mắt, nhìn lên những ông sao lấp lánh trên bầu trời, thầm nghĩ: “Nơi đó không phải là giống như thiên cung, nơi ở của thần tiên ư?”.
“Đúng rồi. Mẹ, còn có một chuyện lớn nữa. Con bây giờ có tên rồi, là Dương Hạo đại thúc đặt tên cho con. Mẹ... Mẹ”.
Đứa trẻ ngồi dậy, trề trề cái môi. Vì cả ngày đã mệt mỏi nên Mã đại thúc đáp đại mấy câu với đứa con lúc này đang chưa chịu ngủ.
Buổi tối mới là thế giới của nó. Chỉ có buổi tối mới là lúc tinh thần nó tốt nhất. Nó không muốn ngủ, một mình đứng dậy, chạy đến bên đống lửa, lấy một cảnh củi đang cháy từ trong đó ra, khua khua lên cho tắt lửa đi, rồi ngồi bên cạnh đó. Nghiêng đầu chăm chỉ vui vẻ viết tên của mình: “Mã Diệc, bốn chữ lửa. Tên đại thúc đặt thật là hay”.
“A... A... A”. Đạo nhân ngủ say như heo chết không biết từ lúc nào đã ngồi dậy, ngáp mấy cái nói: “Tiểu quỷ, người ta mới chỉ đặt cho ngươi một cái tên mà đã vui vậy sao? Ngươi phải cẩn thận đấy. Thiên hạ này có rất nhiều người xấu, đừng để bị người khác lừa mà bán mất đấy, đến lúc đó xem ngươi còn vui mừng đếm bạc hộ người ta không?”.
“Ngủ đi ông, đi cả chặng đường đều ngủ gật, bây giờ lại tỉnh táo thế, Dương Hạo đại thúc là người tốt, sẽ không hại tôi đâu. Nếu ông nói xấu Dương Hạo thúc, tôi sẽ không để ý đến ông đâu”. Cẩu Nhi nói xong, tức giận quay lưng lại với hắn ta, lại viết tên mình lên mặt đất.
Đạo nhân lôi thôi cười híp cả mắt, lại nằm xuống, gối đầu lên cánh tay, hai chân duỗi dài, nhìn sao trên trời. Thần sắc lại trở nên cổ quái: “Lão đạo tu cả một đời đạo pháp, nhưng đây vẫn là lần đầu tiên gặp phải chuyện kỳ lạ như thế này, lại gặp một người kỳ quái như thế. Lão đạo có thể đi theo hắn, xem xem người này rốt cuộc là thứ gì. Không chừng lão đạo có thể vì đó mà biết được thiên cơ. Lão yêu đạo Thuần Dương Tử. Ha ha, để hắn đợi vài ngày nữa ở quan ngoại vậy, hắn đã sống lâu như vậy, không thể nói chết là chết ngay được. Dương giám trước mắt lại là một kỳ nhân có thể gặp mà không thể cầu”.
*
* *
Trời vừa sáng, đám binh lính đã hối thúc mọi người dậy, ăn chút đồ ăn sáng rồi lên đường. Chặng đường mỗi ngày đều rất dài và vô vị, ngay đã đám binh lính cũng tê hết cả chân. Bất luận là trước hay sau thì đều là những cánh đồng bát ngát mờ mịt. Vùng đất này giống như đất sa đất thổ, không có cây lớn, chỉ có một ít cây bụi thấp bé. Cả chặng đường nếu ngẫu nhiên nhìn thấy mấy con linh dương đang ăn có ở trên núi thì cũng bị đoàn người lớn làm cho kinh động, không biết chạy về hướng nào.
Thời tiết càng ngày càng lớn, khi mặt trời lên cao đến ba sào, thì người người đều toát mồ hôi như tắm. Ngay cả binh sĩ cưỡi trên ngựa cũng có chút không chịu được. Dương Hạo và Trình Đức Huyền đứng song song ở bên đường, nhìn về phía xa nói: “Trình đại nhân, nếu cứ tiếp tục thế này thì ban ngày sẽ không có cách nào đi tiếp được. Huynh xem xem nếu như ban ngày tìm một nơi nào râm mát để mọi người nghỉ, rồi ban đêm lại lên đường, thế nào?”.
Trình Đức Huyền nói: “Mấy vạn người ngựa, đến tối sợ không quản hết được. Đặc biệt là phụ nữ, người già và trẻ nhỏ. Còn có rất nhiều người mắc bệnh về mắt, đêm xuống không nhìn thấy gì. Nói thì dễ nhưng nếu thật sự hành quân đêm thì đội quân có tốt chất mới làm được, chú đám ô hợp này thì...”.
Hắn vừa nói đến đây thì đột nhiên có người kêu thét lên, tiếng gào thét này như bị truyền nhiễm, nhanh chóng tụ thành những tiếng gào thét cực lớn, Trình Đức Huyền rút kiếm ra khỏi vỏ, quát lớn: “Xảy ra chuyện gì?”.
Một tên binh sĩ chỉ lên trên trời đáp lớn: “Đại nhân. Mau nhìn xem, mau nhìn, trên trời là người ngựa của chúng ta”.
“Cái gì?”. Trình Đức Huyền ngẩng đầu nhìn. Chỉ nhìn thấy một trận sóng trên bầu trời mờ mịt. Một bức tranh hơi mơ hồ dần dần hiện ra rõ rệt. Bức tranh đó đang chuyển động, cực lớn, che khuất cả bầu trời mặt đất. Chiếm vị trí một phần ba bức tranh đó chính là một sườn núi, từ sườn núi đó nhìn xuống thấy vô số quân Tống và dũng sĩ Khiết Đan đang chém giết nhau. Cảnh tượng rất rõ rệt, giống như một trận đại chiến đang diễn ra ngay trước mắt họ vậy. Tàn khốc, thảm thiết, nhưng lại không có bất cứ một âm thanh nào, cho nên càng làm cho nó có vẻ quái dị”.
“Hải Thị Thận Lâu”. Dương Hạo kinh ngạc hét lớn. Trình Đức Huyền vốn cũng có chút kinh hãi, thì vừa nghe Dương Hạo hét lên bất giác cũng thầm nói: “Thật xấu hổ”.
Kỳ cảnh Hải Thị Thận Lâu hắn đã từng đọc qua trong cổ thư, nhưng đây là lần đầu tiên nhìn thấy, cho nên lúc nãy vừa nhìn đã có chút thất thần, lại còn nghĩ là do yêu quái làm ra. May mà chưa nói gì, nếu không thì sẽ cho mọi người thấy mình thật nông cạn.
Nhưng đám binh sĩ, đặc biệt là dân chúng thì đều không biết Hải Thị Thận Lâu là thứ gì. Có một số người dân kinh hãi hét lên: “Thiên binh thiên tướng.”, rồi vội vàng nằm sấp xuống đất ngẩng đầu lên. Cũng có rất nhiều binh sĩ hoang mang không biết phải làm gì. Chỉ tay lên trời hét lớn: “Nhân mã của chúng ta tại sao lại trên trời? Lại còn cả bọn cẩu Khiết Đan nữa, xảy ra chuyện gì vậy?”.
Trình Đức Huyền nhăn mày quát: “Trấn tĩnh lại, hô ầm ĩ như thế còn ra thể thống gì nữa”. Nhưng những người hắn có thể quát dừng lại cũng chỉ có mấy người bên cạnh, còn một đoàn người dài như con rắn, khắp nơi đều kêu gào thì hắn làm sao có thể ngăn được.
Dương Hạo ngẩng đầu lên, mắt nhìn chằm chằm vào đó. Không biết kỳ cảnh Hải Thị Thận Lâu đến khi nào sẽ biến mất. Trên bầu trời, đám người Khiết Đan đang dần chiếm được ưu thế. Quân Tống đang dần dần lui bước, để lại vô số thi thể. Bức tranh luôn được quan sát từ trên sườn núi xuống phía dưới, giống như có một người đang đứng ở trên đó, nhìn sự tranh giành sống chết của hai đại quân trong sơn cốc và sườn núi.
Đột nhiên, một lá cờ lớn từ từ rơi xuống đất, chiếc cờ đó chính là chiếc được cắm thẳng trên sườn núi, nên khi nó rơi vào trong bức tranh thì lập tức bao phủ toàn bộ màn trời. Cả bầu trời đều là đại kỳ chữ Tống màu vàng hơi đỏ, đại kỳ từ từ rơi xuống, liền nhìn thấy vô số người Khiết Đan đang cầm loan đao xông lên núi giống như những con sói, sau đó là hình một đôi giầy chiến đầu phượng đang đạp mạnh lên chiếc cờ bị đổ, một bóng người từ từ hiện lên, chiếm cả màn trời.
Đầu tiên là bóng người thon thả, sau đó nàng ta từ từ quay lưng lại, chỉ nhìn thấy nàng ta mặc một chiếc áo giáp vảy cá, ở eo có thắt tám chiếc váy chiến thêu hình phượng, phía trước ngực là tấm kính hộ tâm sáng lấp lánh, chiếc mũ hộ đỉnh đều được làm bằng lông cáo. Đỉnh đầu là một bó lông vũ đang bay phấp phới. Trên vai có vắt một con thú đang trừng mắt. Phía sau là lọ cũng tiễn. Nàng có đôi mắt hạnh nhân, mày lá liễu, miệng nhỏ anh đào, giữa hai hàng lông mày có một nốt chấm đỏ. Trong cái xinh đẹp có cả uy lực không thể xâm phạm. Lúc này, nàng ta đang đứng gần đó, chân dẫm mạnh lên đất. Những cái lông vũ trên đầu dựng thẳng lên trời, trông giống như Đại Thánh thần giới.
Rất nhiều người đang cuống quýt khấu đầu, hô vang: “Quan Âm nương nương hiển linh”.
Họ chỉ nhìn thấy người con gái này đang đưa ánh mắt sáng trong như ánh mùa thu nhìn về phía xa, mỉm cười, khua tay lên, thì rất nhiều dũng sĩ Khiết Đan liền xông lên núi như hổ như sói.
Trên trời lại có một làn sóng chập chờn, bóng dáng yêu kiều của nữ tướng bắt đầu méo dần. Lờ mờ còn có thể nhìn thấy một trận tạp loạn diễn ra khi đội quân Khiết Đan xông lên núi. Ngay sau đó thì đốt lửa lên, đốt đỏ cả bầu trời, lửa cháy nuốt hết tất cả, nữ tướng xinh đẹp đó không hề mất đi sự anh dũng, dần dần biến mất trong biển lửa.
Trình Đức Huyền kêu lớn lên một tiếng, quay đầu cười: “Dương đô giám thật là có kiến thức, ta cũng từng đọc được những ghi chép về việc này trong cổ thư. Nghe nói thế gian có ảo ảnh. Nó có thể nuốt cả mây, huyễn hóa lên các tầng lớp, nhân vật xe ngựa. Tất cả những gì lúc nãy chúng ta nhìn thấy, nghĩ rằng... Dương đô giám, ngươi làm sao vậy, sắc mặt tại sao lại trở nên khó coi vậy?”.
Dương Hạo mặt xanh xao nói: “Trình đại nhân, cảnh Hải Thị Thận Lâu này thực không phải là do ảo yêu biến thành, mà là do thời tiết nóng quá, không khí bị đốt nóng. Nó giống như một tấm gương, đem tất cả cảnh tượng in lên bầu trời, chiếu lại một cảnh đang diễn ra ở nơi khác”.
Trình Đức Huyền nói: “Ồ, đúng là nguyên nhân này. Dương đô giám thật là hiểu rộng. Trình mỗ còn...”. Câu nói vẫn chưa nói hết thì sắc mặt của hắn bống biến đổi: “Dương đô giám, ngươi nói...?”.
Dương Hạo trầm giọng nói: “Không sai, tất cả những cảnh tượng diễn ra lúc nãy đều là thật, hơn nữa nó đang xảy ra”.
Trình Đức Huyền sắc mặt từ từ thay đổi. Ánh mắt dừng lại nói: “Dương đô giám, ngươi nói... Quân ta bại rồi?”.
Dương Hạo hơi lắc đầu, nói: “Chưa chắc, nên nói là... Quân ta lui rồi”.
Trình Đức Huyền hơi ngẩn ra, liền hiểu ngay sự khác biệt giữa những từ này. Bại là bị uy lực cực lớn của địch làm cho lui về, còn rút lui là hoàn thành nhiệm vụ ngăn cản di chuyển của địch, hai cái này không giống nhau. Nhưng, Dương Hạo làm sao biết được quân Tống là lui hay là bại?”.
Hắn nghi ngờ hỏi: “Dương đô giám, cảnh tượng lúc nãy quân ta rõ ràng là bại. Ngươi nói quân ta rút lui chứ không phải là bại, ngươi dựa vào đâu vậy?”.
Dương Hạo nói: “Dựa vào đám lửa lớn trên trời”.
“Lửa?”.
“Không sai. Ngọn lửa này từ đâu mà tới? Người Khiết Đan không có lý do gì để phóng hỏa. Khi chúng đang chiếm thế thượng phong mà lửa lớn sẽ không có lợi cho chúng tiến công. Như vậy ngọn lửa này là do Quan Gia phóng. Mục đích là gì? Là để ngăn địch mà thôi. Huynh xem chỗ lương thực kia vốn không dễ cháy, nhưng lại cháy lớn như vậy, tất là đã được tưới dầu. Nếu như không phải là quân ta có ý định rút lui mà là trận chiến đã bại thì sao lại có thể làm ra một ngọn lửa to đến thế?”.
Trình Đức Huyền nghe thấy Dương Hạo nói thế liền thức tỉnh, không khỏi vui vẻ nói: “Không sai, không sai. Dương đô giám nói đúng. Nếu quân ta đã chủ động rút lui, thì thương vong tổn thất chắc sẽ không lớn”.
Dương Hạo thở dài nói: “Nhưng... Chúng ta mấy ngày nay đi quả thật là không nhanh, trừ phi là người Khiết Đan không muốn đuổi đến, nếu không... Chỉ dựa vào chút binh mã này thì chúng ta có thể chạy đi đâu?”.
Trình Đức Huyền vừa nghe lập tức đơ người ra. Tất cả sự vui mừng đều tan biến hết.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên Bộ Bộ Sinh Liên - Nguyệt Quan Bộ Bộ Sinh Liên