Love is the only satisfactory answer to the problem of human existence.

Erich Fromm

 
 
 
 
 
Tác giả: Rick Riordan
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 43
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4827 / 81
Cập nhật: 2019-12-06 08:57:23 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7 - Tôi Thả Người Đàn Ông Nhỏ Rơi Rập Đầu
ÓI THẬT NHÉ, CARTER ĐÔI KHI QUÁ NGỐC đến nỗi tôi không thể tin chúng tôi là anh em với nhau cơ đấy.
Ý tôi là khi một ai đó nói Cấm làm điều đó, đó là một dấu hiệu tốt cho thấy rằng điều đó đáng được làm. Tôi đi thẳng ngay đến thư viện.
“Đứng lại!” Carter gào lên. “Em không thể cứ...”
“Anh trai yêu quý,” tôi nói, “có phải tâm hồn anh lại rời khỏi cơ thể lần nữa khi chú Amos đang nói, hay anh có thật sự nghe thấy những gì chú ấy nói không thế? Các vị thần Ai Cập là có thực. Chúa Đỏ là kẻ xấu. Ngày sinh nhật của Chúa Đỏ: rất nhanh đến, rất tệ. Ngôi Nhà của Sự Sống: các nhà pháp sư già nua bẳn tính ghét gia đình chúng ta vì Cha chúng ta là một người hơi nổi loạn, mà nhân tiện anh có thể học hỏi chút ít từ ông đấy. Như thế chừa lại cho chúng ta - chỉ 2 chúng ta thôi nhé - sự mất tích của Cha, một vị thần xấu xa sắp phá hủy thế giới, và một ông chú vừa mới nhảy khỏi tòa nhà - và em thật sự không thể trách chú ấy được.” Tôi hít thật sâu. [Đúng đấy, Carter, thỉnh thoảng em phải thở đấy.] “Em có đang bỏ sót gì không ấy nhỉ? Ồ, đúng rồi, em còn có 1 người anh trai được cho là vô cùng hùng mạnh từ dòng máu cổ xưa, blah blah, vân vân, nhưng lại quá sợ hãi không dám đi vào cái thư viện. Nào, giờ có đi hay không đi nào?”
Carter chớp chớp mắt như thể tôi vừa phang anh ấy một cú, cơ mà tôi nghĩ tôi cũng đã làm thế theo một cách nào đấy rồi.
“Anh chỉ...” anh ấy ấp úng. “Anh chỉ nghĩ chúng ta nên cẩn thận.”
Tôi nhận ra anh chàng tội nghiệp này đang sợ vãi cả ra, mà tôi cũng không thể ghét bỏ gì đâu, nhưng chuyện này quả có khiến cho tôi giật mình. Xét cho cùng, Carter là anh trai cơ đấy - lớn tuổi hơn, thạo đời hơn, người đã cùng Cha đi khắp thế giới. Anh trai được cho là những người phải biết kiềm chế. Những cô em gái nhỏ - ừm, chúng ta phải được quyền đấm mạnh như ta muốn, chẳng phải sao? Nhưng tôi nhận ra rằng có thể, chỉ là có thể thôi đấy, tôi hơi gay gắt với anh ấy một chút.
“Nghe này,” tôi nói. “Chúng ta cần giúp Cha, đúng không? Trong thư viện đó ắt phải có vài thứ quyền năng lắm, nếu không chú Amos sẽ chẳng khóa nó lại như thế. Anh có muốn giúp Cha không?”
Carter bồn chồn cựa quậy. “Ừm... dĩ nhiên là có.”
Tốt, một vấn đề đã được giải quyết, thế là chúng tôi tiến thẳng về phía thư viện. Nhưng ngay khi con Khufu nhìn ra chúng tôi định làm gì, nó bò xuống khỏi ghế cùng với trái bóng rổ và nhảy ngay đến phía trước các cánh cửa thư viện. Ai biết được những con khỉ đầu chó lại nhanh đến vậy chứ? Nó sủa vào chúng tôi, và tôi phải nói rằng con khỉ đầu chó này có những cái răng nanh rất lớn. Và chúng chẳng đẹp hơn chút nào khi chúng đang nhai những con chim màu hồng xinh xẻo.
Carter cố nói lý lẽ với nó. “Khufu, bọn tao sẽ không ăn cắp thứ gì đâu. Bọn tao chỉ muốn...”
“Agh!” Khufu giận dữ nhồi bóng.
“Carter,” tôi nói, “anh chẳng giúp được gì cả. Nhìn này, Khufu. Tao có... xem này!” Tôi đưa cao một cái hộp ngũ cốc màu vàng nhỏ đã lấy từ bàn ăn. “Cheerio! Kết thúc với chữ -o đấy nhé. Ngon lắm!”
“Agh!” Khufu càu nhàu, giờ vui vẻ hơn là giận dữ.
“Có muốn không?” tôi dỗ ngọt nó. “Chỉ cần cầm nó đi đến ghế sofa và vờ như mày không nhìn thấy bọn tao, được không?”
Tôi ném bịch ngũ cốc về phía ghế sofa, thế là con khỉ đầu chó phóng rượt theo. Nó tóm lấy bịch ngũ cốc khi nó vẫn còn lơ lửng giữa không trung và vì quá phấn khởi, nó chạy thẳng đến bức tường và ngồi trên bện lò sưởi, rồi bắt đầu rón rén chọn ra Cheerio và ăn từng miếng một.
Carter nhìn tôi với sự ngưỡng mộ đầy đó kỵ. “Sao em...”
“Ai đó trong chúng ta phải nghĩ xa hơn chứ. Nào, ta mở những cánh cửa kia đi nào.”
Chuyện này làm không dễ. Những cánh cửa được làm bằng gỗ dày rồi còn được ràng bằng những sợi dây xích thép khổng lồ và khóa bằng ổ khóa. Hoàn toàn vượt quá giới hạn.
Carter bước lên trước. Anh ấy cố nâng các cánh cửa bằng cách nhấc tay mình lên, việc khá gây ấn tượng vào đêm trước, chỉ có là bây giờ lại chẳng đạt được gì.
Anh ấy lắc lắc những chiếc dây xích theo cách cũ, rồi giằng những cái ổ khóa.
“Không được rồi,” anh ấy nói.
Luồng không khí lạnh nhói nhẹ sau cổ tôi. Gần như thể ai đó - hay thứ gì đó - đang thì thầm một ý tưởng vào trong đầu tôi. “Từ mà chú Amos đã dùng trong buổi ăn sáng với cái đĩa lót là gì nhỉ?”
“Có nghĩ là ‘kết hợp’ ấy hử?” Carter nói. “Hi-nelm hay từ gì đó.”
“Không, cái từ khác cơ, nghĩ là ‘phá hủy’ ấy.”
“Ừm, ha-di. Nhưng em cần phải biết phép thuật và chữ tượng hình, chẳng phải sao? Và thậm chí khi đó...”
Tôi đưa tay lên về phía cửa. Tôi chỉ 2 ngón tay và ngón cái của mình - một cử chỉ kỳ quái mà trước nay tôi chưa bao giờ làm, như một cây súng ảo ngoại trừ việc ngón cái song song với mặt đất.
“Ha-di!”
Những chữ tượng hình vàng chói đốt cháy cái ổ khóa lớn nhất.
Và các cánh cửa nổ tung. Carter ngã xuống sàn khi những sợi xích vỡ toác và mảnh vụn bay khắp Đại Sảnh. Khi bụi tan, Carter đứng dậy, cả người phủ đầy bào gỗ. Tôi dường như không bị gì. Con Muffin quanh quẩn chân tôi, kêu meo meo một cách mãn nguyện, như thể tất cả những điều này đều rất ư bình thường.
Carter trố mắt nhìn tôi. “Chính xác thì...”
“Chả biết,” tôi thừa nhận. “Nhưng thư viện đã mở.”
“Có nghĩ là em làm hơi quá không? Chúng ta sẽ gặp rắc rối lớn...”
“Chúng ta sẽ nghĩ cách để dán cánh cửa lại vậy, chẳng phải sao?”
“Không có thêm dán diếc gì nữa, làm ơn đi,” Carter nói. “Vụ nổ đó có thể đã giết chết chúng ta.”
“Ồ, anh có nghĩ là nếu em thử câu thần chú đó lên con người...”
“Không được!” Anh ấy run rẩy lùi lại.
Tôi cảm thấy hài lòng khi tôi có thể làm cho anh ấy rúm ró, nhưng tôi cố không mỉm cười. “Thôi chúng ta vào khám phá thư viện đi vậy, nhé?”
Sự thật là tôi không thể ha-di bất cứ ai. Ngay khi tôi bước lên trước, tôi cảm thấy lả cả người đi khiến tôi gần như ngất xỉu.
Carter tóm lấy tôi khi tôi lảo đảo. “Em ổn không?”
“Ổn,” tôi nói, mặc dầu tôi chẳng thấy ổn chút nào. “Em mệt” - dạ dày tôi kêu ùng ục - “và đói”
“Em vừa mới ăn một bữa sáng vĩ đại mà.”
Đúng thật, nhưng tôi cảm thấy như thể tôi đã chẳng ăn gì trong nhiều tuần rồi.
“Không sao đâu,” tôi nói với anh ấy. “Em chịu được.”
Carter nhìn tôi hoài nghi. “Những chữ tượng hình mà em tạo ra có màu vàng. Cha và chú Amos đều là màu xanh. Tại sao?”
“Có thể mỗi người có một màu riêng,” tôi đoán. “Có thể anh sẽ có màu hồng nóng bỏng.”
“Buồn cười đấy,”
“Đi thôi, thiên tài màu hồng,” tôi nói. “Đi vào bên trong nào.”
Thư viện thật tuyệt, tôi gần như quên đi cơn choáng váng. Nơi đây lớn hơn nhiều so với những gì tôi tưởng tượng, một cái hốc tròn chìm sâu vào bên trong tảng đá đặc, như một cái giếng khổng lồ. Như thế này thật vô lý, vì tòa biệt thự nằm trên đỉnh của một nhà kho, nhưng mà thôi chẳng có điều gì khác về nơi này là hoàn toàn bình thường cả.
Từ nền nhà nơi chúng tôi đứng, một cầu thang đi qua ba tầng đến phần sàn nhà, và trần mái vòm đều được trang trí bằng các bức ảnh con người, các vị thần và quái vật đầy màu sắc. Tôi đã nhìn thấy các hình minh họa đó trong các cuốn sách của Cha (vâng, đúng thế, đôi khi ở trong tiệm sách Piccadilly thì tôi lại lang thang vào khu vực Ai Cập và lén nhìn lướt qua các cuốn sách của Cha, chỉ để cảm thấy có sự gắn kết nào đó với ông, chứ không phải vì tôi muốn đọc chúng đâu) nhưng các bức ảnh trong các cuốn sách luôn mờ và nhòe đi. Những hình ảnh trong thư viện này như vừa mới được vẽ, khiến cho cả căn phòng là một tác phẩm nghệ thuật.
“Đẹp quá,” tôi nói.
Một bầu trời xanh đầy sao sáng lấp lánh trên trần nhà, nhưng nó không hẳn là một cánh đồng toàn màu xanh. Đúng hơn là, bầu trời được vẽ theo mẫu hình xoay xoáy kì lạ. Tôi nhận ra bầu trời được tạo hình như một người phụ nữ. Bà ta nằm cuộn tròn một bên - toàn thân, 2 cánh tay, đôi chân có màu xanh đậm, lấm tấm những vì sao. Phía bên dưới, sàn thư viện cũng được vẽ tương tự, đất màu xanh lục và nâu tạo thành cơ thể của một người đàn ông, được điểm xuyết với các cánh rừng và những ngọn đồi cùng thành phố. Một con sông uốn lượn ngang qua ngực ông ta.
Thư viện không có lấy một cuốn sách nào. Thậm chí cũng chẳng có giá sách. Thay vào đó, các bức tường được đẽo theo hình tổ ong tạo thành các khu vực tròn nhỏ, mỗi cái chứa một thứ trông như một ống hình trụ bằng nhựa.
Ở mỗi một góc la bàn là một bức tượng bằng sứ đặt trên bệ. Các bức tượng có kích thước một nửa của con người, mặc váy và mang giày sandal, với mái tóc đen bóng loáng kiểu mái bằng và đường kẻ đen quanh mắt họ.
[Carter bảo cái thứ chì kẻ mắt gì đó được gọi là phấn côn, như thể nó quan trọng lắm vậy.]
Mà thôi, một bức tượng cầm một cây bút trâm và một cuộn giấy. Một bức khác giữ một cái hộp. Cái khác nữa thì cầm một cây gậy ngắn, đầu có móc câu. Bức cuối cùng chẳng mang thứ gì.
“Sadie.” Carter chỉ về giữa phòng. Nằm trên một chiếc bàn đá dài là cái túi đồ nghề của Cha.
Carter bắt đầu leo xuống cầu thang, nhưng tôi đã tóm lấy tay anh ấy. “Chờ đã. Thế có bẫy thì sao?”
Anh ấy cau mày. “Bẫy gì?”
“Chẳng phải các lăng mộ của người Ai Cập đều có bẫy sao?”
“Ừm... đôi khi thôi. Nhưng không phải là lăng mộ. Ngoài ra, chúng thường có các lời nguyền hơn, như lời nguyền đốt cháy, lời nguyền con lừa...”
“Ồ, yêu chưa kìa. Thế nghe hay hơn nhiều.”
Carter chạy lóc cóc xuống các bậc cầu thang, khiến tôi cảm thấy khá kỳ lạ, vì tôi thường là người dẫn đầu. Nhưng tôi cho rằng nếu ai đó phải chịu lời nguyền với da nổi bọc ngứa hay bị tấn công bới phép thuật nào đó, thì tốt hơn hết nên là anh Carter chứ không phải tôi.
Chúng tôi đi được đến giữa phòng mà chẳng có gì xảy đến. Carter mở túi xách. Vẫn chẳng có lấy một cái bẫy hay lời nguyền rủa nào. Anh ấy lấy ra cái hộp kỳ lạ mà Cha đã sử dụng trong Bảo tàng Anh.
Hộp được làm bằng gỗ, có kích thước vừa đúng của một ổ bánh mỳ Pháp. Nắp đậy được trang trí rất giống với thư viện, với các vị thần và quái vật và con người đang đi nghiêng một bên.
“Làm sao người Ai Cập di chuyển như thế được nhỉ?” tôi thắc mắc. “Tất cả đều nghiêng sang một bên với 2 chân và 2 tay lòi ra. Có vẻ ngớ ngẩn quá.”
Carter ném cho tôi một trong các cái nhìn Chúa ơi, em mới ngốc làm sao. “Họ không đi kiểu đó trong đời thực đâu, Sadie.”
“Ừm, vậy sao họ lại được vẻ như thế?”
“Họ nghĩ hội họa như là một phép thuật. Nếu em vẽ chính mình, em phải trưng ra tất cả chân và tay của mình. Nếu không, trong kiếp sau em sẽ được tái sinh mà chẳng có các bộ phận đó.”
“Thế tại sao khuôn mặt lại nghiêng sang một bên? Họ không bao giờ nhìn thẳng vào anh. Chẳng phải điều đó có nghĩa là họ sẽ mất mặt bên kia của họ sao?”
Carter ngần ngừ. “Anh nghĩ họ sợ bức ảnh quá con người nếu nó nhìn thẳng vào em. Nó có thể cố để trở thành em.”
“Vậy có bất cứ điều gì mà họ không sợ không?”
“Em gái này,” Carter nói. “Nếu họi nói quá nhiều, người Ai Cập ném họ cho cá sấu đấy.”
Anh ấy làm tôi ngớ người trong 1s. Tôi không quen với việc anh ấy thể hiện sự hài hước. Rồi tôi đấm vào người anh ấy. “Hãy mở cái hộp quỷ sứ này ra đi.”
Thứ đầu tiên anh ấy lấy ra là một miếng lầy nhầy màu trắng.
“Sáp ong,” Carter tuyên bố.
“Hấp dẫn đấy.” Tôi cầm lên cây bút trâm và tấm bảng màu có vết lõm vào nhỏ trên bề mặt để đựng mực, rồi một vài bình mực bằng thủy tinh - đen, đỏ và vàng. “Và một bộ vẽ thời tiền sử.”
Carter lấy ra một vài đoạn dây màu nâu, một bức tượng mèo nhỏ bằng gỗ mun, và một cuộn giấy dày. Không, không phải giấy. Giấy cói. Tôi nhớ Cha giải thích cách người Ai Cập đã làm ra nó từ một loài thực vật mọc ở bờ sông vì họ chưa bao giờ phát mình ra giấy. Cái thứ đó dày và xù xì, khiến tôi muốn biết người Ai Cập đáng thương có dùng giấy vệ sinh làm từ giấy cói không. Nếu có, không có gì lạ khi họ nghiêng sang một bên như thế.
Cuối cùng tôi lấy ra một bức tượng sáp.
“Khiếp,” tôi nói.
Là một người đàn ông bé xíu, được tạo hình một cách sơ sài, như thể người tạo ra đang phải vội. 2 tay ông ta bắt chéo trên ngực, miệng mở rộng, và đôi chân bị cắt đứt ở phần đầu gối. Một mớ tóc người được quấn quanh eo của ông ta.
Con Muffin nhảy lên bàn và ngửi ngửi hình người bé nhỏ đó. Nó dường như nghĩ ông ta khá thú vị.
“Chẳng có gì trong này,” Carter nói.
“Anh muốn thứ gì?” tôi hỏi. “Chúng ta đã có sáp, một vài cuộn giấy vệ sinh bằng giấy cói, một bức tượng xấu xí...”
“Thứ gì đó giải thích chuyện đã xảy ra với Cha. Làm thế nào mang ông quay trở lại? Gã người lửa cha đã triệu hồi là ai?”
Tôi đưa người đàn ông sáp lên. “Người nghe anh ấy nói rồi đấy, chú lùn nhỏ bé mụn cơm kia. Hãy nói cho chúng ta những gì ngươi biết.”
Tôi chỉ đang nói tào lao vậy thôi. Nhưng người đàn ông sáp trở nên mềm đi và ấm lên như da thịt. Ông ta nói, “Tôi đáp lại lời hiệu triệu.”
Tôi hét lên thả rơi ông ta đập đầu xuống đất. Ừm, bạn có thể trách tôi sao?
“Ối!” ông ta kêu lên.
Con Muffin đi đến và ngửi ngửi, và người đàn ông nhỏ bé đó bắt đầu nguyền rủa bằng một thứ tiếng khác, chắc là tiếng Ai Cập cổ. Khi làm thế không hiệu quả, ông ta kêu rít lên bằng tiếng Anh: “Đi chỗ khác đi! Ta không phải là chuột!”
Tôi bế con Muffin lên và đặt nó xuống sàn.
Mặt Carter trở nên ngờ nghệch và nhợt nhạt như mặt của người đàn ông nhỏ. “Ông là ai?” anh ấy hỏi.
“Tôi là shabti, dĩ nhiên là thế!” Bức tượng xoa xoa cái đầu bị lõm vào. Ông ta trông vẫn khá ngốc nghếch, chỉ là giờ ông ta là một người ngốc nghếch sống mà thôi. “Ông chủ gọi tôi là Cậu Bé Bột Mỳ, mặc dầu tôi thấy cái tên đó thật là sỉ nhục. Các người có thể gọi tôi là Luhu-Của-Mình!”
“Được rồi, Cậu Bé Bột Mỳ,” tôi nói.
Ông ta cau có nhìn tôi, tôi nghĩ thế mặc dầu không dễ nhìn ra điều này từ khuôn mặt bị đè nát kia.
“Ngươi đáng lẽ ra không nên kích hoạt ta! Chỉ có ông chỉ mới được làm điều đó.”
“Ông chỉ, ý là Cha sao,” tôi đoán, “Ờ, là Julius Kane ấy?”
“Chính là ông ấy,” Cậu Bé Bột Mỳ gầm gừ. “Chúng ta xong việc chưa? Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ rồi chứ?”
Carter ngây người nhìn tôi, nhưng tôi nghĩ tôi đang bắt đầu hiểu mọi việc.
“Vây, Cậu Bé Bột Mỳ này,” tôi nói với gã khờ đó. “Ngươi đã bị kích hoạt khi ta nhấc ngươi lên và cho người mệnh lệnh trực tiếp. Hãy nói cho chúng ta những gì ngươi biết. Nói như thế có đúng không nhỉ?”
Cậu Bé Bột Mỳ khoanh 2 cánh tay múp míp của mình lại. “Các người đang đùa với tôi. Dĩ nhiên điều đó là chính xác. Mà này, chỉ có ông chủ mới được quyền kích hoạt tôi. Tôi không biết cô đã làm điều đó như thế nào, nhưng ông ấy sẽ cho cô nổ tung thành từng mảnh khi ông ta khám phá ra.”
Carter hắng giọng. “Cậu Bé Bột Mỳ, ông chỉ là cha chúng tôi, và ông đang mất tích. Ông đã bị phép thuật đẩy đi bằng cách nào đó và chúng tôi cần sự giúp đỡ của ông...”
“Ông chỉ đã biến mất sao?” Cậu Bé Bột Mỳ mìm cười toe toét, tôi đã nghĩ khuôn mặt sáp của ông ta sẽ bị rách toạc mất. “Cuối cùng cũng được tự do! Chào nhé, lũ ngốc!”
Ông ta lao tới về phía cuối bàn những quên mất rằng mình chẳng có chân. Ông ta đáp xuống ngã dập mặt xuống bàn, rồi bắt đầu bò về phía gờ bàn, dùng 2 tay tự kéo lê mình về phía đó. “Tự do! Tự do!”
Ông ta ngã xuống khỏi cái bàn và rơi thịch xuống nền nhà, nhưng điều đó dường như không làm ông ta nhụt chí. “Tự do! Tự do!”
Ông ta bò thêm được 1 hay 2 cm nữa trước khi tôi nhặt ông ta lên và ném ông ta vào trong chiếc hộp phép của Cha. Cậu Bé Bột Mỳ cố để thoát ra, nhưng cái hộp đủ cao để ông ta không thế với tay lên vành hộp. Tôi tự hỏi liệu có phải nó được thiết kế với mục đích này.
“Bị bẫy!” ông ta rên rit. “Bị bẫy!”
“Ôi, câm miệng đi,” tôi bảo ông ta. “Giờ ta là cô chủ của ngươi. Và ngươi sẽ phải trả lời các câu hỏi của ta.”
Carter nhướn mày. “Sao em lại là người phụ trách chứ?”
“Vì em đủ thông minh để kích hoạt ông ta.”
“Em chỉ đang đùa giỡn thôi!”
Tôi lờ đi anh trai, đây là một trong vô số các tài năng của tôi. “Giờ, Cậu Bé Bột Mỳ, trước hết, shabti là gì?”
“Cô có để cho tôi ra ngoài cái hộp nếu tôi nói cho tôi không?”
“Ngươi phải nói với ta,” tôi chỉ ra. “Và không, ta sẽ không làm thế.”
Ông ta thở dài. “Shabtti có nghĩa là người trả lời, thậm chí ngay cả một nô lệ ngu ngốc nhất cũng có thể nói cho cô biết điều đó.”
Carter búng tay. “Giờ thì anh nhớ rồi! Những người Ai Cập nặn ra các người mẫu bằng sáp hay đất sét - là những nô lệ làm đủ mọi kiểu công việc họ có thể tưởng tượng ra ở kiếp sau. Họ được cho là sẽ sống lại khi người chủ của họ gọi, để những người đã qua đời có thể, ví như là, ườn ra thư giãn và để cho shabti làm mọi việc của người đó đến muôn đời.”
“Trước hết nhé,” Cậu Bé Bột Mỳ công kích, “đó là đặc trưng của loài người! Ăn không ngồi rồi trong khi bọn tôi là tất cả mọi việc. Thứ 2 là, công việc kiếp sau mới chỉ là một chức năng của shabti thôi đấy. Bọn tôi đồng thời cũng được các pháp sư sử dụng cho rất nhiều việc trong kiếp này, vì các pháp sư sẽ hoàn toàn bất lực nếu thiếu bọn tôi. Thứ 3, nếu các người biết quá nhiều như thế còn hỏi tôi làm gì?”
“Sao cha lại cắt chân ông,” tôi thắc mắc, “và để cái miệng lại cho ông nhỉ?”
“Tôi...” Cậu Bé Bột Mỳ ấn mạnh 2 bàn tay nhỏ bé lên miệng. “Ồ, rất vui đấy. Đe dọa bức tượng sáp. Đồ bắt nạt to xác! Ông ta cắt chân của tôi để tôi không bỏ chạy hoặc sống lại dưới một hình dáng hoàn hảo và giết ông ta, dĩ nhiên rồi. Bọn pháp sư rất hèn hạ. Họ làm các bức tượng thương tật để kiểm soát bọn tôi. Họ sợ bọn tôi mà!”
“Ông sẽ sống lại và giết cha tôi nếu như ông ấy không làm cho ông bị thương tật sao?
“Chắc chăn rồi,” Cậu Bé Bột Mỳ thừa nhận. “Chúng ta xong việc chưa?”
“Chưa tới một nửa,” tôi nói. “Chuyện gì đã xảy ra với cha chúng tôi?”
Cậu Bé Bột Mỳ nhún vai. “Sao tôi biết được? Nhưng tôi nhận ra là đũa phép và gậy của ông ta không có trong hộp.”
“Không,” Carter nói. “Cây gậy - cái thứ đã biến thành một con rắn ấy - đã bị đốt thành tro. Còn đũa phép thì... Đó có phải là thứ giống cái bumerang không?
“Cái giống cái bumerang?” Cậu Bé Bột Mỳ nói. “Các vị thành Ai Cập vĩnh hằng ơi, cậu thật là đần độn. Dĩ nhiên đó là cây đũa phép của ông ta.”
“Nó bị vỡ nát rồi,” tôi nói.
“Kể tôi nghe thế nào nào,” Cậu Bé Bột Mỳ yêu cầu.
Carter kể cho ông ta nghe câu chuyện. Tôi không chắc đó có phải là một ý kiến hay nhất hay không, nhưng tôi cho là một bức tượng cao 10 cm không thể gây hại đến mức ấy cho chúng tôi được.
“Điều này thật tuyệt!” Cậu Bé Bột Mỳ hét lớn.
“Tại sao?” tôi hỏi. “Cha vẫn còn sống chứ?”
“Không! Ông ta gần như chắc chắn là ngủm rồi. Năm vị thần của các Ngày Đen Tối được thả ra sao? Tuyệt! Bất của ai đấu tay đôi với Chúa Đỏ...”
“Chờ chút,” tôi nói. “Ta ra lệnh cho ngươi nói cho ta biết chuyện gì đã xảy ra.”
“A!” Cậu Bé Bột Mỳ nói. “Tôi chỉ buộc phải nói những gì tôi biết thôi chứ. Việc đưa ra các dự đoán có khản năng chính xác lại là một nhiệm vụ khác hoàn toàn. Tôi tuyên bố sự phục vụ của tôi đã được hoàn tất!”
Dứt lời, ông ta biến trở lại thành một bức tượng sáp vô tri vô giác.
“Chờ đã!” tôi lại cầm ông ta lên mà lắc mạnh. “Nói cho ta biết các dự đoán có khả năng chính xác của ngươi nào!”
Chẳng có gì xảy ra.
“Có lẽ ông ta được định giờ,” Carter nói. “Như là một ngày một lần. Hoặc có thể em đã làm hỏng ông ta.”
“Anh Carter, đưa ra gợi ý nào hữu ích một chút đi! Chúng ta làm gì bây giờ?”
Anh ấy nhìn 4 bức tượng sứ đứng trên bệ. “Có thể...”
“Các shabti khác ư?”
“Đáng để thử đấy.”
Nếu các bức tượng là những người trả lời, thì chúng chẳng được giỏi việc ấy cho lắm. Chúng tôi cố ôm lấy chúng khi đưa ra các mệnh lệnh, nhưng chúng khá nặng. Chúng tôi thử chỉ tay vầ chúng và hét lớn. Thử yêu cầu chúng một cách đàng hoàng. Chúng chẳng cho chúng tôi bất cứ câu trả lời nào.
Tôi bắt đầu thất vọng đến nỗi chỉ muốn ha-di chúng thành hàng triệu mảnh cho rồi, nhưng tôi vẫn thật đói và mệt, tôi có cảm giác rằng câu bùa chú đó sẽ không tốt cho sức khỏe của mình.
Cuối cùng chúng tôi quyết định kiểm tra các lỗ hình tròn bao quanh các bức tường. Các ống hình trụ bằng nhựa là thứ mà bạn có thể trông thấy ở một ngân hàng lái xe ngang qua rút tiền rồi đi - cái thứ di chuyển lên xuống trong các ống dẫn khí nén ấy. Bên trong mỗi hộp là một cuộn giấy cói. Một vài cái trông còn mới. Một số trông đến hàng ngàn năm tuối. Mỗi một hộp được dán nhãn bằng chữ tượng hình và (may thay) chữ tiếng Anh.
“Cuốn Sách về Con Bò Thần Thánh,” Carter đọc lên một cuộn. “Tên kiểu gì thế này? Em có gì thế, Con Lửng Thần Thánh sao?”
“Không,” tôi đáp. “Cuốn Sách Về Tiêu Diệt Apophis[7].”
Con Muffin kêu meo meo ở một góc phòng. Khi tôi nhìn sang, cái đuôi của nó cứ ngỏng cả lên.
“Có chuyện gì với nó thế?” tôi hỏi.
“Apophis là một con quái vật rắn khổng lồ,” Carter lầm bầm. “Hắn là một tin xấu đây.”
Con Muffin quay đi chạy lên cầu thang, trở lại Đại Sảnh. Lũ mèo. Thật không thể hiểu nổi.
Carter mở một cuộn giấy khác. “Sadie, nhìn này.”
Anh ấy tìm thấy một cuộn giấy cói khá dài, và phần lớn chữ trong đó dường như là các dòng chữ tượng hình.
“Em có thể đọc được bất cứ chữ nào trong này không?”
Tôi cau mày nhìn những dòng chữ viết, và điều kỳ lạ là, tôi không thể đọc được nó - ngoại trừ dòng trên cùng. “Chỉ có một đoạn ngắn nơi đáng lẽ nên là dòng tiêu đề thôi. Nói là... Dòng Dõi của Ngôi Nhà Vĩ Đại. Điều đó có nghĩa là gì?”
“Ngôi Nhà Vĩ Đại,” Carter suy ngẫm. “Những từ đó phát âm theo tiếng Ai Cập thì nghe thế nào nhỉ?”
“Per-roh. Ồ, là pharaoh, chẳng phải sao? Nhưng em nghĩ pharaoh là một vị vua cơ mà?”
“Phải,” Carter nói. “Từ đó nghĩa đen có nghĩa là ‘nhà lớn’, như là cung điện của nhà vua. Kiểu như dùng ‘Nhà Trắng’ để ám chỉ tổng thống. Thế nên chỗ này chắc chắn có nghĩa là Dòng Dõi của Các Pharaoh hơ, tất cả họ, toàn bộ dòng dõi của các vương triều, chứ không phải chỉ 1 người.”
“Vậy sao em lại phải quan tâm đến dòng dõi của các pharaoh, và sao em lại không thể đọc được bất cứ chữ nào còn lại?”
Carter liếc nhìn các dòng chữ. Đột nhiên mắt anh ấy mở lớn. “Chúng là tên. Nhìn này, tất cả chúng đều được viết bên trong các bảng tên.”
“Gì chứ?” tôi hỏi, vì từ bảng tên nghe như một từ thô lỗ nào đó hơn, và tôi lấy làm tự hào mình biết được những từ đó.
“Các vòng tròn,” Carter giải thích. “Chúng tượng trưng cho vành đai phép thuật. Chúng được cho là để bảo vệ người mang cái tên đó khỏi ác thuật.” Anh nhìn tôi. “Và có khả năng cũng làm cho các pháp sư khác không đọc được tên của họ.”
“Ôi, anh thần kinh quá,” tôi nói. Nhưng tôi nhìn vào các dòng chữ đó, và hiểu ý anh ấy muốn nói. Tất cả các chữ khác đều được các bảng tên bảo vệ, và tôi không thể hiểu được bất cứ chữ nào trong số chúng.
“Sadie,” Carter nói với giọng gấp gáp. Anh chỉ về phía bảng tên cuối cùng của danh sách - dòng cuối cùng của cái trông như là danh mục liệt kê hàng ngàn cái tên vậy.
Bên trong vòng tròn là 2 ký hiệu đơn giản, một cái rổ và một gợn sóng.
“KN,” Carter cho biết. “Anh biết từ này. Đó là họ của chúng ta, KANE.”
“Mất một vài chữ ấy nhỉ?”
Carter lắc đầu. “Người Ai Cập thường không viết các nguyên âm. Chỉ viết các phụ âm. Em phải đoán nguyên âm được đọc như thế nào từ ngữ cảnh.”
“Họ quả là điên quá đi. Vậy chữ đó có thể là KON hay IKON hay KNEE hay AKNE.”
“Cũng có thể,” anh Carter đồng ý. “Nhưng đó là họ của chúng ta, Kane. Anh từng yêu cầu Cha viết ra cho anh bằng chữ tượng hình, và đó là chữ ông ấy đã viết. Nhưng sao chúng ta lại có tên trong danh sách này nhỉ? Và ‘dòng dõi của các pharaoh’ là gì?”
Cơn đau nhói lạnh lẽo đó lại xuất hiện phía sau cổ tôi. Tôi nhớ những gì chú Amos đã nói, về việc cả bên ngoại và bên nội của chúng tôi đều rất cổ xưa. Carter bắt gặp mắt tôi, và căn cứ từ nét mặt anh ấy, thì anh cũng đang có ý nghĩ tương tự.
“Không phải chứ,” tôi chống đối.
“Ắt đó hẳn là một trò đùa,” anh ấy đồng ý. “Không ai lại giữ gia phả tận mãi xưa đến thế.”
Tôi nuốt xuống, cổ họng tôi đột nhiên khô khốc. Có quá nhiều sự kỳ diệu xảy ra với chúng tôi trong ngày hôm qua, nhưng chỉ đến khi nhìn thấy họ của chúng tôi trong cuốn sách đó thì tôi rốt cuộc mới bắt đầu tin rằng cái trò Ai Cập điên rồ này là có thật. Các vị thần, các pháp sư, các con quái vật... và gia đình chúng tôi bị ràng buộc vào trong đó.
Kể từ buổi điểm tâm, khi tôi ngộ ra rằng Cha lâu nay đã cố để mang Mẹ quay trở lại từ cõi chết, thì một cảm giác kinh khủng cứ mãi muốn chiếm cứ lấy tôi. Mà đấy không phải là cảm giác sợ chết khiếp. Đúng thế, toàn bộ ý tượng này quả là rùng rợn, còn rùng rợn hơn nhiều so với cái hòm thờ người mẹ quá cố của tôi mà ông bà ngoại tôi để trong tủ ly ở hành lang. Và phải, tôi đã nói với bạn là tôi không sống trong quá khứ và chăng có gì có thể thay đổi sự thật rằng Mẹ tôi đã mất. Nhưng tôi là một kẻ nói dối. Sự thật là, tôi có mãi một giấc mơ từ khi lên 6: được nhìn thấy mẹ một lần nữa. Được thật sự hiểu bà, được nói chuyện, đi mua sắm, làm bất cứ điều gì với bà. Được ở cùng với bà chỉ một lần thôi để tôi có thể có được một hoài niệm đẹp đẽ hơn mà bấu viu vào. Cảm giác tôi đang cố giũ sạch là hy vọng. Tôi biết tôi đang đặt mình vào một nỗi đau to lớn. Nhưng nếu quả thật việc mang bà quay trở lại là khả dĩ, thì tôi hẳn sẽ cho nổ tung bất cứ số lượng Phiến đá Rosetta nào để khiến điều đó xảy ra.
“Chúng ta tiếp tục tìm xem nào,” tôi nói.
Một vài phút sau, tôi tìm thấy một bức tranh có một vài vị thần đầu động vật nào đó, năm vị đứng thành một hàng, với một hình ảnh của phụ nữ sáng như sao cong người phía trên họ vẻ che chắn như một cái ô. Cha đã thả 5 vị thần. Hừm.
“Carter này,” tôi gọi lớn. “Thế cái này là gì?”
Anh ấy đến nhìn và 2 mắt sáng rực lên.
“Là nó!” Carter reo. “5 vị này... và ở phía trên, mẹ của họ, nữ thần Nut.”
Tôi cười lớn. “Một nữ thần tên là Nut sao? Họ của bà ấy có phải là Case[8] không?”
“Hài hước đấy,” Carter nói. “Bà ấy là nữ thần của bầu trời.”
Anh ấy chỉ tay về phía trần nhà được sơn vẽ - người phụ nữ với làn da lấp lánh ánh sao màu xanh, giống y hệt trong cuộn giấy.
“Thế bà này là sao?” tôi hỏi.
Carter cau mày. “Chuyện gì đó về Ngày Đen Tối. Có liên qua gì đó với sự hạ sinh ra năm vị thần, nhưng Cha đã kể cho anh nghe chuyện đó cách đây lâu lắm rồi. Anh nghĩ là toàn bộ cuộn văn tự này được viết bằng chữ thấy tế. Đó là một kiểu viết thảo của chữ tượng hình. Em có thể đọc nó không?”
Tôi lắc đầu. Hình như, kiểu điên rồ đặc biệt của tôi chỉ áp dụng duy nhất đối với các chữ tượng hình thông thường.
“Anh ước gì mình có thể tìm thấy câu chuyện này bằng tiếng Anh,” Carter bảo.
Ngay khi ấy một tiếng kêu rắc lớn vang lên phía sau tôi. Bức tượng đất sét tay không nhảy xuống khỏi bệ tượng và đi xăm xăm về phía chúng tôi. Carter và tôi lồm cồm tránh ra khỏi hướng đi của nó, nhưng nó đi thẳng qua mặt chúng tôi, cầm lấy một cái ống từ cái lỗ ong và mang nó đến cho Carter.
“Nó là shabti tìm kiếm,” tôi nói. “Một thủ thư đất sét!”
Carter bồn chồn nuốt khan rồi cầm lấy cái ống. “Ừm... cám ơn.”
Bức tượng đi xăm xăm về lại cái bệ của mình, nhảy lên và bắt đầu đông cứng lại thành bức tượng đất sét bình thường.
“Em thắc mắc không rõ...” tôi quay đối diện với shabti. “Bánh sandwich và khoai tây chiên, làm ơn!”
Buồn thật, chẳng có bức tượng nào nhảy xuống mà phục vụ tôi cả. Có lẽ thức ăn bị cấm trong thư viện vậy.
Carter mở nắp ống và trả cuộn giấy cói ra. Anh ấy thở phào nhẹ nhõm. “Phiên bản này bằng Tiếng Anh.”
Khi anh đọc lướt qua nội dung, lông mày anh ấy càng cau có hơn.
“Anh trông không vui chút nào,” tôi nhận định.
“Vì giờ anh đã nhớ được câu chuyện. Năm vị thần... nếu Cha thật sự đã thả họ, đó không phải là tin tốt lành gì.”
“Chờ đã,” tôi nói. “Bắt đầu từ đầu đi.”
Carter run rẩy hít vào. “Được rồi. Nut, nữ thần bầu trời, kết hơn với Geb, thần trái đất.”
“Là thằng cha trên sàn nhà ấy hử?” tôi nhịp nhịp chân lên gã đàn ông màu xanh lục to lớn với dòng sông và các ngọn đồi cùng các khu rừng bao phủ lấy cơ thể ông ta.
“Ừ,” Carter đáp. “Tiếp nhé, thần Geb và nữ thần Nut muốn có con, nhưng vua của các vị thần, thần Ra - ông này là thần mặt trời - nghe được lời tiên tri xấu về một đứa con của nữ thần Nut...”
“Đứa con của nữ thần Nut,” tôi cười khúc khích. “Xin lỗi, cứ tiếp tục đi.”
“...một đứa con của thần Geb và nữ thần Nut một ngày nào đó sẽ thay thế thần Ra trở thành vua của các vị thần. Vì thế khi thần Ra biết được rằng nữ thần Nut mang thai, ông ta tá hỏa. Ông ta cấm nữ thần Nut sinh con vào bất cứ ngày hay đêm nào trong năm.”
Tôi khoanh tay lại. “Thì đã sao, vậy bà ta phải mang thai mãi mãi sao? Ác quá.”
Carter lắc đầu. “Nữ thần Nut tìm ra được một cách. Bà gài bẫy một trò chơi đổ súc sắc với thần mặt trăng, Khons. Mỗi một khi thần Khons thua, ông ta phải cho nữ thần Nut một ít ánh trăng của mình. Ông ta thua xiểng liểng, nữ thần Nut thắng được lượng ánh trăng đủ lớn để tạo ra năm ngày mới và thêm chúng vào ngày cuối cùng của một năm.”
“Ồ, làm ơn đi,” tôi nói. “Trước hết này, sao anh có thể chơi trò cá cược bằng ánh trăng cơ chứ? Và nếu anh làm thế, sao anh có thể tạo ra thêm ngày bằng nó được?”
“Đó là một câu chuyện cơ mà!” Carter phản đối. “Dù sao thì lịch của người Ai Cập có 360 ngày trong một năm, như thể có có 360 độ trong một vòng tròn vậy. Nữ thần Nut đã tạo ra 5 ngày và thêm chúng vào cuối năm - những ngày đó không thuộc về năm thông thường.”
“Những Ngày Đen Tối,” tôi đoán. “Vậy chuyện thần thoại giải thích lý do cho việc một năm có 365 ngày. Và em cho là bà ấy đã sinh con...”
“Trong năm ngày đó,” Carter đồng ý. “Mỗi ngày một đứa.”
“Lại nữa, làm sao ta sinh 5 đứa con liên tục, mỗi đứa mỗi ngày khác nhau được chứ?”
“Họ là các vị thần mà,” Carter nói. “Họ có thể làm những việc như thế.”
“Cũng giống hệt như việc được gọi lên là Nut vậy. Nhưng làm ơn, nói tiếp đi.”
“Vì thế khi thần Ra phát hiện ra, ông ta nổi đóa lên, nhưng đã quá muộn. Những đứa trẻ đã được sinh ra. Tên chúng là Osiris...”
“Là vị thần mà Cha theo đuổi.”
“Rồi đến Horus, Set, Isis, và, ừm...” Carter tra cứu trong cuộn văn tự của mình. “Nephthys. Anh luôn quên cái tên đó.”
“Và gã đàn ông lửa trong bảo tàng đã nói, ngươi đã thả ra tất cả 5 vị thần.”
“Chính xác. May lỡ họ bị giam cầm với nhau và Cha đã không nhận ra? Họ được sinh ra cùng nhaum vì thế có thể họ được triệu hồi cùng nhau quay lại thế giới. Vấn đề là, một trong những gã đó, gã Set ấy, thật sự là một kẻ xấu xa. Như là một kẻ hung ác trong thần thoại Ai Cập. Vị thần của tà ma và hỗn loạn và các cơn bão sa mạc.”
Tôi rùng mình. “Có lẽ hắn ta có gì đó liên quan đến lửa?”
Carter chỉ vào một trong số các hình người trong bức ảnh. Vị thần có cái đầu động vật, nhưng tôi không thể nhận ra được đó là loại động vật nào: Chó ư? Thú ăn kiến? Thỏ bông độc ác? Dù có là con nào, thì đầu tóc và quần áo của gã đều có màu đỏ rực.
“Chúa Đỏ,” tôi nói.
“Sadie, còn nữa,” Carter nói tiếp. “Năm ngày đó - Những Ngày Đen Tối - là điềm rủi ở Ai Cập cổ đại. Em phải cẩn thận, mang các bùa may mắn, và không làm bất cứ điều gì quan trọng hay nguy hiểm trong những ngày đó. Và ở Bảo tàng Anh, cha đã nói với Set rằng: Họ sẽ ngăn ngươi lại trước khí Những Ngày Đen Tối kết thúc.”
“Đừng có nói anh nghĩ ông có ý muốn đề cập đến chúng ta,” tôi nói. “Chúng ta được cho là người ngăn chặn gã Set đó sao?”
Carter gật đầu. “Và nếu năm ngày cuối cùng trong năm dương lịch của chúng ta vẫn được xem như là Những Ngày Đen Tối của người Ai Cập - chúng bắt đầu vào ngày 27/12, đó là ngày kia.”
Bức tượng shabti dường như đang nhìn tôi với vẻ mong đợi, nhưng tôi không có bất cứ một ý tưởng nhỏ nhoi nhất là sẽ phải làm gì. Những Ngày Đen Tối và con thỏ bông độc ác - nếu tôi nghe thêm một điều bất khả thi nào nữa, đầu tôi sẽ nổ tung.
Và điều tệ hơn hết là gì? Giọng nói nho nhỏ dai dẳng trong đầu tôi đang nói: Đó là điều không thể. Để cứu Cha, chúng ta phải đánh bại Set.
Như thể điều đó đã nằm sẵn trong danh sách các việc phải làm trong kỳ nghỉ Giáng Sinh của tôi. Gặp Cha - rồi. Hình thành các sức mạnh kỳ lạ - rồi. Đánh bại một gã thần xấu xa của sự hỗn mang - rồi. Toàn bộ ý tưởng đó thật điên rồ!
Đột nhiên một tiếng vỡ loảng xoảng lớn vang lên, như thể thứ đó vỡ trong Sảnh Lớn. Khufu bắt đầu gầm lên cảnh báo.
Carter và tôi nhìn nhau. Rồi chúng tôi đâm bổ về phía cầu thang.
Biên Niên Sử Nhà Kane 1 - Kim Tự Tháp Đỏ Biên Niên Sử Nhà Kane 1 - Kim Tự Tháp Đỏ - Rick Riordan Biên Niên Sử Nhà Kane 1 - Kim Tự Tháp Đỏ