Books are the compasses and telescopes and sextants and charts which other men have prepared to help us navigate the dangerous seas of human life.

Jesse Lee Bennett

 
 
 
 
 
Tác giả: Duy Khán
Thể loại: Truyện Ngắn
Biên tập: Phạm Kiều Anh
Upload bìa: Phạm Kiều Anh
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 8
Cập nhật: 2021-08-28 15:37:00 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
BÀ NỘI
_Duy Khán_
Cả họ đều nói: Nhà ông bà trước đây khá giả lắm. Có ao sâu trâu nái. Có ruộng cho cấy rẽ. Có năm gian nhà ngói, vườn mít núc ních quả. Chả thế mà bốn người con giai được dựng vợ; hai người con gái được gả chồng. Con giai có học, có nghề…
Từ độ ông mất, bà ở với con thứ ba: chú Chà, thím Chà. Rồi thím Chà ốm lăn ốm lóc. Rồi chú Chà ốm lịa. Chú thím chết đi để lại thằng Lĩnh mồ côi cả bố lẫn mẹ.
Bây giờ thì nhà bà ở cạnh ao Chùa.
Đúng là nhà lợp gianh ba gian. Vách bùn nhào với trấu và rơm băm. Đến mùa gặt, các con đến lợp cho bà mái gianh như nhười mặc áo mới thơm tho vàng óng.
Cái vườn lạ thật, trước nó xanh tốt bao nhiêu, bây giờ nó tàn lụi bấy nhiêu. Dong riềng, hoàng tinh, bầu đất dễ nuôi đến thế mà cũng lụi. Mấy cây khế gầy guộc mà chịu khó ra quả. Bà bảo: các cháu chọc khế mà ăn. Cứ quả méo mó thì ngon. Hồng, cứ quả tròn mà ăn. Nó ít hột. Thị cứ vẹo trôn thì ngọt ít hột.
Người ta nói: đất lành chim đậu. Chim rủ nhau đi đâu cả! Cửa giã không có, lối vào thông thống. Gió tha hồ quấy phá. Những ống tre mái hiên vu vu… Bà và cháu cứ lủi thủi. Ai đi qua không biết có người ở nhà.
Ông giời ở đâu nhỉ? - Ở tít mây xanh kia nên không nhìn thấy. Hàng năm chỉ nghe ông Táo ông Công về tâu. Dương gian cho ăn ngon thì các ông tâu tốt. Và ngược lại.
Ông bà có ác gì cho cam. Người ác càng ngày càng giầu nhiều thêm. Nhà ông xã Tảng, thóc đầy cái bịch. Cái bịch rộng bằng cái giường bốn người nằm, cao bằng đầu một người lớn; trong ngoài tát xi măng, kiến, mối, mọt chỉ có khóc. Thóc lại đầy bồ lớn bồ bé, tràn sang cả cái cót quay lừng lững chấm nóc nhà.
Bây giờ bao nhiêu cái nghèo đói, cái vất cả bà gánh chịu. Vai bà mỏng tanh…
o O o
Tôi ngẩng cao đầu mới thấy tuổi của bà; chứ cứ nhìn bà chặt củi, nhổ sắn, nhìn bà đứng, bà đi thì không ai biết bà đã gần bảy mươi. Bà làm nhanh, đi nhanh, lưng thẳng. Bà không hút thuốc lào như u tôi, nhưng ăn giầu.
Bà như một chiếc bóng; lặng lẽ, đi không ai biết, về không ai hay. Bà tất bật, khi đi trồng sắn ở trại, lúc rẫy ràng ràng, khi đi bắt cua bán, lúc cấy thuê. Có lần bà bỏ nhà bốn năm ngày. Tôi hỏi Lĩnh, nó rớm nước mắt. Tuần phu đi rầm rập bắt thuế. Trống dồn sôi cả bụng, đạp thình thịch vào cái ngực bé nhỏ của tôi.
Cả làng đã im ắng. Bà như chiếc bóng giở về. Ít khi tôi thấy bà nói chuyện nói trò với ai khác ngoài các cháu ra. Ít khi tôi thấy bà đôi co với ai. Dân làng bảo bà hiền như đất. Nói cho đúng, bà hiền như chiếc bóng. Nếu ai lành chanh lành chói bà rủ rỉ khuyên. Bà nói nhiều bằng ca dao, tục ngử. Những chị mồm năm miệng mười, sau khi bà khuyên chỉ còn mồm một miệng hai.
Người ta bảo: ''Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà’’. Bà như thế thì chúng tôi hư làm sao được. U tôi như thế, chúng tôi không nỡ hư hỏng.
Câu ấy đúng với nhiều nhà. Như nhà thẳng Tỏi. Thầy u nó nhiều tiền lắm. Bà nó cũng có tiền vốn. Biết thế, nó cứ vòi bằng rỗng bao bà:
-Bà ơi cho cháu xin xu, cháu mua quà.
Bà móc bao, đưa ba xu, nó không lấy; phải cho nó năm xu. Năm xu thì to lắm.
-Bà ơi, giời mưa, cháu không ra quán được, bà phải đi mua cho cháu.
Bà như sợ nó, vội đội nón, khoác tơi, run rẩy, liêu xiêu ra tận quán bà cả Tuệ. Bà cứ mẩm bụng: ba xu, ba cái kẹo vừng bằng ba cái chén tống, chắc thẳng Tỏi thích lắm đây…
Về đến nhà, vừa nhai giầu bỏm bẻm bà vừa đưa kẹo cho nó:
-Kẹo thì cháu thèm vào!
Nó cầm ba cái kẹo ném vào bà. Lần này bà giận ứ cổ. Bà đánh liều, phát vào đít nó một cái. Nó kêu, nó khóc từ thông buổi đến trưa, bà nựng nó. Bà lại sợ nó, chiều nó rồi!
U nó đi chợ về, la từ cổng la vào:
-Đứa nào làm gì con tao đấy!
-Bà đánh!
-Sao bà dám đánh nó?
Lên năm lên sáu tuổi, nó béo như con lợn ấy thế mà vẫn bú. Bây giờ thì nghe u nựng, nó nín. U nó nựng toàn tiếng nhịn như nựng trẻ lên một lên hai. U nó bế nó lên. Nó chỉ ra quán.
-U cho quà này!
Nó sáng mắt lên, tưởng là quà gì ghê gớm lắm. Lại kẹo vừng. Nó vứt ra sân, nhoài khỏi tay u nó; vừa khóc vừa lăn ra giẫy đành đạch như đỉa phải vôi. Không biết nó khóc đến bao giờ. Anh em tôi ù cả tai, kéo nhau về, tiếng om sòm giữa nàng dâu mẹ chồng và thằng bé hư nổi lên ầm cả xóm.
Nhiều nhà thường xảy ra đứng như câu ca. Nhưng đấy là người mẹ thế nào, người bà ra sao?
Bà tôi có học hành gì đâu, một chữ cắn đôi không biết. Bà lặng lẽ, cứ tưởng bà không biết gì. Bà thuộc như cháo hàng trăm nghìn câu ca. Bà nói những câu sao mà đúng thế. Bà bảo u tôi:
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Người ta như cây. Uốn cây phải uốn từ non. Nếu để lớn lên mới uốn, nó gẫy. Có khi nó còn bật vỡ mặt mình.
Một hôm thằng Lĩnh gánh nước, thổi cơm xong, chờ bà đỏ mắt. Ông giời sai thần mưa đổ nước xuống từ sáng đến giờ. Bà về. Bà đi lảo đảo. Áo xống ướt sũng. Cái khăn trên đầu không bao giờ bà vấn thành mỏ quạ mỏ cò gì cả. Nó ướt và giỏ nước ròng ròng, bà vuốt mặt không kịp. Bà thắt lưng con cón, cái giỏ cua bên sườn đầy ắp, nhộn nhạo. Con lớn giơ càng cắp con bé. Bà tháo giỏ cua rồi chạy vào giường, hai bàn chân xoa vào nhau rồi bà nằm xuống. Thằng Lĩnh đặt tay lên trán bà. Nó hốt hoảng đi tìm bác Ký gái, u tôi, chị Điệp, cô Toàn, cô Nụ. Chỉ một lúc thôi, con cháu đầy nhà. Cô Toàn thay áo xống cho bà. Cô Nụ đốt chổi xể gầm giường. Cô Nụ hái lá bưởi, lá ruối, lá tre, hương nhu, đun nước xông. Bà chùm trăn xông lùng bùng và có tiếng sụt sịt. Thầy tôi đánh gió cho bà bằng gừng nướng với rượu. Sau đó, thầy đổ rượu vào chén, lửa cháy xanh lè. Thầy úp chén, bốn cái chén nóng như nồi rang vào lưng bà. Khi lấy chén ra, bốn cái hình tròn tím bầm. Thầy lấy gai bưởi nhể ra. Những giọt máu đen sì. Thầy đã nhiều lần mười chết một sống, thầy thuốc đã dáo cho thầy như thế. Có một sự lạ: Bà không rên nửa tiếng. Thầy gật đầu: “Khỏi, Khỏi’’ Bác Ký gái thì lắc đầu: “Những người không ốm bao giờ, khi ốm thì khó qua khỏi’’. Mọi người buồn ra mặt. Riêng thầy tôi cười nói như không. Lạ thật!
Tối nhọ mặt người, bà đã ngồi dậy được. Con cháu mừng quá, bác Ký sai anh Liễn bưng cho bà bát miến gà. Bà không ăn. Cô Nụ cho bà nải chuối chín cây. Bà ăn hết bát chiết yêu cháo tía tô kinh giới. Bà ăn xong, mồ hôi trán vã ra. Thằng Lĩnh biết tính bà, nó mua đâu được con cá rô to tướng. Nó ra vườn bà hái lá hẹ vầ nấu canh. Đúng là rối như canh hẹ, nhưng bà thích ăn, bà giồng một luống xanh mướt.
Hôm sau bà đã đi lại được chung quanh nhà. Bà ốm cho nên rỗi, không thể tham công tiếc việc. Đi mỏi, bà lại vào nằm. chúng tôi xì xào với nhau một lúc rồi mới vào thăm bà, quay quanh giường bà. Nói là giường nhưng nó chỉ là chiếc chõng tre chú Chà để lại. Chỉ năm người là vây kín giường bà. Thấy con khúc vách kêu tắc tắc, bà bảo:
-Ngày xưa có một ông quan có tài, ngay thẳng. Bọn quan gian tức làm. Nó đặt điều vu cho ông trăm tội, tâu lên vua. Tâu mười lần đến trăm lần, vua ra lệnh giết ông. Ông biến thành con khúc vách, cha truyền con nối đời này qua đời khác, khúc vách cứ tắc tắc lưỡi và lắc đầu oán hận…
Cái Bảng thích nghe chuyện lắm. Nó định hỏi bà bao nhiêu chuyện. Tôi gạt đi, để bà nghỉ đã.
Thấy bà khỏi ho, giọng đã trong, tôi đánh bạo thưa với bà để bà hát ru cho nghe. Bà ngồi dậy như một người khỏe mạnh. Tóc bà xõa xuống. Bà cũng thích hát ru. Bà đã ru sáu người con, một cháu, và bây giờ bà ru cho các cháu hàng đống hàng đàn nghe. Gió nồm từ ao chùa lùa vào tóc bà rối tung. Bà ngồi bó gối, lưng dựa vào vách:
-Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót (a…) lòng mày khế (à…) ơi…
(Ả, à, ơi…, ả… à… ời…)
-Con ơi nghe lấy lời này
Cướp đêm là giặc (a…) cướp ngày là (à…) quan…
(Ả, à, ơi…, ả… à… ời…)
-Cái bống là cái bống bình
Thổi cơm gánh nước (a…) một mình bống (à…) ơi
(Ả, à, ơi…, ả… à… ời…)
-…
Ru đến câu thứ ba thì Lĩnh rơm rớm nước mắt, vì câu ấy vận vào đúng nó.
Thế thì bà ru hay hơn u tôi ru. Hay hơn ở chỗ là bổng thật bổng, trầm thật trầm, bà ru thong thả, bà buồn theo lời ru. Tiếng à… ời… ở cuối câu kéo dài. Tôi cứ tưởng kiến trong tổ cũng phải bò ra mà nghe. Bà ru xong, chúng tôi im lặng và đứa nào cũng thương bà hơn trước.
o O o
Sớm ngày thứ ba, mặt trời độ một con sào, nắng đỏ lựng cả sân. Chúng tôi ríu ran chào bà. Bà ngồi giữa sân sưởi nắng. Bà chải đầu bằng lược bí để bắt chấy. Tôi đứng nhổ tóc bạc, tóc sâu cho bà. Nhưng tóc bà bạc trắng. Người ta cứ hay nói: cháu nhổ tóc bạc cho bà; nói như thế để tỏ ra thương bà mà thôi. Tôi không nhổ một sợi tóc nào. Hình như mỗi ngày tóc bà bạc đến mười sợi. Tôi ngậm ngùi. Bà tự xâu kim lấy, tôi lại vui: Giàu hai con mắt. Tay bà run run vá cái áo; tôi lại buồn: Khó hai bàn tay. Bác Ký thấy bà mặc vá, may cho bà cái váy, cái áo; cho thằng Lĩnh bộ áo quần. Chưa lần nào bà nhận. Cứ gần tết, bà mua mươi vuông vải diềm bâu, vài thước vải trúc bâu. Bà sai thằng Lĩnh đi hái lá bang về nấu lên ruộm, rồi sau đó ruộm bằng nước củ nâu. Ruộm mãi vài chục nắng, nó thành màu cánh gián. Riêng mấy thước vải của bà, bà giải ra sân, trát kín bằng bùn ao phủ, phơi mấy đêm ngày, nó đen nhẫy. Đấy là vải váy của bà. Bà mua láng đen về làm khăn. Thế là bà mặc xênh xang ba ngày Tết và cả năm. Khi nó rách thì bà lại vá.
Mới mưa. Nước ao chùa lênh láng, đục ngầu. Những loài ở nước được ngày mở hội. Chả mấy khi bà được rảnh rang. Chúng tôi tha hồ hỏi bà.
Cái Bảng hay hỏi nhất; bà mà bắt chuyện trẻ con thì thâu đêm suốt sáng nó không chán:
-Bà ơi, sao con ễnh ương ngắn cổ mà gào to thế?
-Nó phải gào lên để nó dọa những con hại nó.
-Bà ơi, sao con chẫu chuộc lại kêu “chuộc chuộc’’?
-Ngày xưa có một ông nhà giầu, gặp lúc nạn, ông bán hết cả ruộng, cả nhà cho một ông giầu hơn. Đến khi tai qua nạn khỏi làm ăn khấm khá, ông đến xin chuộc lại cái gì mình đã bán, ông kia phản lời cam đoan. Ông này tức, về uống nước vôi mà chết. Ông thành con chẫu chuộc. Đời này qua đời nọ, ông dặn con cháu phải chuộc, không chuộc được thì cứ gào lên cho thấu đến bàn dân thiên hạ: “chuộc, chuộc…’’
Tôi hỏi:
-Bà ơi. Con cóc có phải là cậu ông giời không?
Bà cười.
Cái Bảng nhanh nhẩu:
-Chuyện này dì Dụ đã kể em nghe là: Con cóc là cậu ông giời - Đứa nào đánh nó, ông giời đánh cho - Trước khi mưa bao giờ ông giời cũng báo cho cậu biết, để báo khắp vùng bằng cách là nghiến răng còn cọt.
Tôi cướp lời:
-Thế sao cậu Trang bắt hàng nghìn con cóc, chặt lấy đùi lột da, xào cho thằng Trải ăn chữa bệnh còi xương, sao ông giời không đánh cậu Trang? Thằng Trải đã khỏi bệnh. Con rắn hễ thấy cóc nhái là bắt ăn. Ông giời có đánh rắn bao giờ.
Bảng ta tâng hẵng. Bà cười. Cái áo bà vá đã gần xong. Lĩnh chạy về áo quần lấm bê bết. Nó xách xâu cá đến chục con.
-Ba con cá to nhất nó nhảy từ ao lên bờ. Trưa nay bà tha hồ ăn canh hẹ nấu cá!
Bà ngẩng phắt lên nhìn Lĩnh.
-Chim sa, cá nhảy là đừng có bắt, phải tội. Nó gặp nạn phải cứu nó. Cháu thả ngay ba con cá ấy xuống ao Chùa!
Lĩnh đang vui, bây giờ nó tiu nghỉu lặng lẽ đi thả cá.
Bỗng nhiên con cuốc ở đâu bay đến, lủi vào bụi ruối sát mặt nước góp vui ngày hội ao chùa! “Luốc cuốc cuốc già già già…’’ Nó kêu đến khản cổ. Thế là dàn bát âm thêm được một giọng. Nghe tiếng cuốc, bà lắc đầu lẩm bẩm:
-Rõ khổ. Nó hiền lắm. Nó kêu vì cái nỗi nước mất nhà tan. Nó kêu suốt đêm, suốt ngày, suốt mùa hè. Hết mùa hè nó chỉ còn một nắm xương khô. Trước lúc chết nó tìm chỗ kín để giấu xác, cho nên ít người tìm thấy xác nó…
o O o
Bà đã khỏi lại gần như trước. Bà lại lam lũ sớm tối.
Hơn một năm sau, vào một buổi trưa mùa đông, bà đi đâu về, bà bảo Lĩnh mua bốn cái đâu nướng. Ngồi trên giường, bà bẻ hai cái đậu chấm muối ăn. Bà nhìn Lĩnh lũn cũn ra sân, mỗi miếng nhai nước mắt bà ròng ròng. Bà gọi Lĩnh cho nó hai cái. Bà sụt sịt như ăn phải gừng. Bà nằm xuống, phủ cái chăn đụp. Như linh tính của con trẻ, Lĩnh ngơ ngác: Sao hôm nay bà ngủ trưa? Sao hôm nay bà ăn đậu? Nó áp mặt vào mũi bà, không thấy bà thở. Nó sờ chân bà, lạnh như đồng ngâm. Nó gào lên. Chỉ một lúc con cháu đến chật nhà, hàng xóm đến đầy sân. Mọi người lay gọi bà. Bà Xích ra cổng gào lên mười lần:
-Ba hồn, chín vía bà Ngoạn ở đâu thì về với con với cháu, với xóm với làng…
-Bà ơi, bà chết thật rồi!
Chúng tôi vừa khóc vừa gào thế. Trong đám trẻ con, thằng Lĩnh gào khản đặc cả cổ.
Chiều hôm sau con cháu, họ hàng, làng xóm đưa bà đi. Tiếng trống cái thì thùng, cái lệch rè kêu phèng phèng. Giời mưa phùn gió bấc mà đám ma của bà đông quá. Nhẽ ra thì phải cúng tế, có kèn. Nhưng sao được! Mọi người đi chậm. Bát cơm và quả trứng luộc để bà ăn đường. Nó được đặt trên nóc quan tài. Đường xa, mới đắp gập ghềnh thế mà nó vẫn đứng im. Ấy là do những người khiêng hết lòng và đi khéo. Bác Ký, thầy tôi và chú Xếp đội mũ rơm, mặc áo xô, chống gậy xoan cúi đầu đi sau quan tài. Các cô và những người con dâu chít khăn trắng dài, các cháu sau quan tài. Đường qua đồng trắng toát. Màu trắng buồn rợn người.
Đã đến huyệt. Tiếng trống tiếng lệnh đổ dồn một hồi.
Những ai hôm qua khóc một thì lúc này khóc mười. Bà đã nằm sâu ba thước đất, cách biệt cháu con một trời một vực. Mồ yên, mả đẹp rồi mà cô Toàn, cô Nụ, cái Bảng, thằng Lĩnh còn cào cào vào mồ, lăn ra, quần áo đỏ những đất.
Những người ốm lâu rồi chết thì những người còn sống đau đớn một phần. Những người đang khỏe, bỗng chết thì cái đau đớn ấy tăng lên mười phần.
o O o
Lĩnh được bác Ký đem về nuôi. Ba gian nhà gianh gió lùa. Mấy cái ống tre ngoài hiên khóc vu vu cả ngày lẫn đêm.
Tôi đi qua có lần tưởng bà còn sống vì bà mất vội quá. Bà ơi! Bà! Bà vẫn hát đấy:
Trèo lên cây khế nửa ngày…
Bà Nội Bà Nội - Duy Khán Bà Nội