A truly good book teaches me better than to read it. I must soon lay it down, and commence living on its hint.... What I began by reading, I must finish by acting.

Henry David Thoreau

 
 
 
 
 
Tác giả: Caprice Crain
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 39
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1123 / 9
Cập nhật: 2016-07-02 16:42:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 31
EAVEN.
Brady và tôi ăn trưa tại một nơi gọi là Sandwich Hốc Mật – nghe hơi có vẻ khiêu dâm, nhưng ở đây bán những chiếc sandwich rất được. Nó được thiết kế theo kiểu sông nước u tối, với quầy bar trông như một cái lán cũ ở bờ sông. Nhân viên ở đây rất thân thiện, có vẻ thực sự thích thú với việc làm sandwich. Sau bữa trưa, Brady thay chiếc áo (rất) được của cậu ta và mặc vào chiếc áo thun CBGB cũ. Chúng tôi trở vào xe hơi, lái tới Trung tâm Hội nghị, nhưng ở đó chẳng có gì cả.
“Hmm… lạ thật đấy”, tôi nói. “Chắc nó không phải sự kiện lớn như tôi nghĩ.” “Hẳn là không”, Brady nói.
“Vậy cùng đến công viên Viretta đi”, tôi nói. “Nó ở ngay góc phố gần nhà cũ của Kurt.” “Chỉ đường đi”, cậu ta nói. Tôi lấy ra tờ bản đồ Seattle, và chúng tôi lái xe tới đó để tỏ lòng tôn kính với Kurt.
Khi tới công viên ngay đối diện nhà cũ của Kurt, tôi rùng mình ngay khi xe dừng lại. Láng giềng ở đó đặc biệt tốt tính. Những ngôi nhà rất to. Rõ ràng đây là khu cực kỳ giàu có. Tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên bởi số người quá ít tại đó. Không vắng hoe, nhưng cũng không phải hàng nghìn hàng nghìn đứa trẻ như từng thấy tại Trung tâm Seattle mười năm trước. Những đứa trẻ đó hẳn đã trưởng thành, chúng có những điều hay hơn để làm. Chúng tôi đỗ xe rồi bước lên thảm cỏ.
Có hai anh chàng hippie phê thuốc, nồng nặc mùi dầu hoắc hương, đang tựa vào một gốc cây. Một trong hai kẻ đó nhìn Brady, cười khẩy. “Chào, Bé Hợp thời”, hắn nói.
“Bé Hợp thời?”, Brady vặc lại, không chắc lắm mình đang phải đối mặt với điều gì. “Ừ, Bé Hợp thời”, hắn nói, trỏ chiếc áo thun CBGB. “Mua cái áo thun đó ở đâu vậy… siêu thị hả?”
“Tôi từ New York tới. Tôi mua nó ở New York – nơi tôi sống.” “Làm bộ làm tịch”, gã phê thuốc nói.
“Um… không. Tôi sống ở New York”, Brady nói. “Mặc kệ hắn”, tôi nói.
“Ồ, giờ cô lại nói lý à?”, Brady nói với tôi. “Ừ”, tôi đáp.
“Được thôi”, cậu ta đáp, vì biết là tôi đúng. Nếu là một ngày khác, tại một nơi khác, tôi sẽ tự mình bảo thằng nhóc này biến đi. Nhưng hôm nay thì không. Ở đây thì không. Có nhiều người ngồi trên thảm cỏ, tựa vào gốc cây, chơi guitar, hát những bài của Nirvana. Băng ghế dường như trở thành bệ thờ. Lũ nhóc từng đến đây vào mười năm trước đã viết nguệch ngoạc lên đó những dòng nhắn cho Kurt. Nhưng hôm nay, nó đầy ắp nến, hoa, và ảnh Kurt. Cũng có thơ và thư viết cho Kurt, thậm chí còn có một thanh khử mùi Teen Spirit – tôi nghĩ việc đó thật thú vị. Lũ nhóc đang hát bài All Apologies. Tôi đứng cạnh băng ghế, nhìn chiếc bệ thờ dã chiến, mặc niệm một mình, bỗng một giọt nước mắt trào ra khỏi khóe mi. Tôi không kìm nén được.
Chúng tôi nói chuyện với một vài đứa trẻ. Tôi gặp một cô bé từ Kansas đến đây cùng mẹ. Chỉ vì sự kiện này. Cô bé kể với tôi rằng họ tình cờ gặp ông của Kurt sáng nay, ông mời họ tới nhà dùng trà. Ông còn tặng cô bé vài tấm ảnh lúc còn nhỏ của Kurt. Một câu chuyện thật tuyệt – thật đáng nhớ. Thực ra, điều khiến tôi kinh ngạc, là lứa tuổi của những cô cậu nhóc này. Những người bạn nghĩ sẽ ở đây lại không chiếm số đông. Phần lớn thuộc lứa tuổi trẻ hơn. Có một cô bé mặc áo thun Nirvana, không quá mười ba tuổi, nghĩa là chỉ mới ba tuổi khi Kurt mất. Chúng cũng không có vẻ gì là những đứa trẻ trầm cảm, hư hỏng. Chúng trông như những đứa trẻ ngoan ngoãn, thông minh và yêu âm nhạc. Chúng đến đây vì nghĩ Kurt rất thật. Đúng là vậy! Nhiều người đang khóc. Số khác chỉ im lặng ngồi uống cà phê. Kỳ lạ là mọi người ở đây đều có một cốc cà phê Starbucks.
Rồi một thằng ngốc đột nhiên xuất hiện. Trước lúc này, mọi thứ khá bình yên, nhưng thằng cha này dẫn chương trình của một kênh truyền hình cáp địa phương, đưa ra đủ loại giả thuyết âm mưu về cái chết của Kurt. Gã bắt đầu la hét đủ thứ nhảm nhí, những con số thống kê kinh hãi, trỏ tay vào Courtney Love, và khiến mọi thứ loạn xị cả lên. Gã chĩa camera về đám đông, một camera khác gắn ngay hông để tự quay chính mình. Gã đang làm trò để gây chú ý, điều này thật sự rất khó chịu.
“Biến khỏi đây đi!”, một đứa nhóc la lên. “Toàn là ngụy biện!”, gã hét trả. “Cả đám các người thoải mái ngồi đây khóc lóc, nhưng chẳng ai làm gì để sửa chữa mọi thứ! Các người đã làm gì cho Kurt?” Gã bắt đầu đi theo một số cô cậu nhóc cùng chiếc camera, hét vào mặt chúng. Khi gã chọc tới một cậu bé đáng thương mười bốn tuổi, thực sự chọc vào người cậu bé, Brady bèn bước tới trước mặt gã.
“Anh bạn, bình tĩnh”, Brady nói. “Mọi người tới đây để thể hiện lòng tôn kính với Kurt. Họ không cần anh hét vào mặt.” “Chính cha của Courtney nghĩ rằng cô ta đã làm đấy!”, gã hét lên.
“Ngậm quách cái mồm của ông lại đi”, gã hippie gọi Brady là “Bé Hợp thời” vào mười phút trước lên tiếng. Đúng vậy. Không gì khiến mọi người đồng tâm hiệu quả bằng một kẻ thù chung. Brady và gã hippie, cùng mọi người khác, hiện giờ đã ở cùng một chiến tuyến. “Tất cả các người đều là đồng bọn! Đồ giết người!”, gã điên kia hét lên.
“Nghe này”, Brady nói, đột nhiên áp sát vào mặt gã. “Ở đây bọn tôi đông hơn ông. Nếu ông không mang cái camera nhỏ kia, cùng với cái mõm của ông biến đi chỗ khác, chúng tôi sẽ xé xác ông ra làm đôi, rồi quay lại đây sau mười năm nữa để kỷ niệm cái chết của ông đấy.” Mọi người bắt đầu tung hô, còn gã hippie ôm chầm lấy Brady. Mọi người tiếp tục chơi các bài nhạc, và cùng nhau hát.
Tôi quay lại chỗ bệ thờ, nhận ra một dấu vết ai đó đã để lại dưới băng ghế. Dòng chữ ĐỪNG QUÊN LAYNE STALEY. Anh này là ca sĩ chính của nhóm Alice In Chains, một nhóm nhạc Seattle khác. Layne chết vì dùng heroin quá liều hai năm trước, cũng vào tháng này (tháng tồi tệ đối với các ngôi sao nhạc rock Seattle) ở tuổi ba mươi tư. Gần như ngay khi tôi thấy dòng chữ này, một con chó ba chân đi ngang qua buổi cầu nguyện. Thề với Chúa, tôi nói thật đấy! Việc đó khiến tôi phát khiếp lên, vì trên bìa một album nhạc của Alice In Chains có bức ảnh của một con chó ba chân. Khác biệt duy nhất là con chó trên bìa đĩa bị mất chân trước, còn con chó này mất chân sau. Nhưng nó giống như một dấu hiệu. Như thể Layne cũng ở đây với chúng tôi. Hoặc có thể anh ta đến cùng Kurt, và cả hai đều ổn.
“Có chuyện gì với tất cả chỗ cà phê Starbucks kia thế nhỉ?” Brady hỏi khi chú ý thấy một bàn đầy hộp và ly cà phê Starbucks. “Cứ như thể họ tới đây để giễu cợt tôi ấy.” “Ông chủ Starbucks sống ngay trên kia mà”, tôi nghe có người nói. Brady và tôi đồng loạt quay lại.
“Cậu đùa tôi chắc”, Brady nói. “Giỡn mặt làm gì. Em nhớ tên ông ta là Howard thì phải. Em đến đây suốt để tỏ lòng kính trọng với Kurt. Em gặp ông ta rồi. Khá tốt tính. Ông ta quyên góp miễn phí toàn bộ cà phê Starbucks cho mọi người đến đây hôm nay.”
“Nhà nào vậy?”, Brady hỏi. “Căn đầu tiên bên phải”, thằng nhóc chỉ tay.
“Không-thể-tin-nổi”, Brady nói. “Cậu cần phải đến đó”, tôi nói với Brady. “Phải đến. Ý tôi là… chắc chắn phải đến. Đây là định mệnh.”
“Thật hơi kỳ lạ đấy.” “Quá lạ. Linh hồn Kurt đã mang cậu đến đây.”
“Wow”, Brady nói. “Cảm ơn, Kurt.” “Đến đó đi”, tôi thúc giục.
Brady quay sang cậu nhóc. “Căn nhà ngay trên kia đúng không?” “Vâng”, thằng nhóc đáp. Brady nhìn tôi, chạy đến chỗ xe hơi, chộp bản kế hoạch cùng chiếc chai nhỏ, rồi lao về phía căn nhà.
Tôi bước về phía mấy cô cậu nhóc đang ngồi hát thành vòng tròn. “Không thể tin nổi”, một cô bé nói. “Ra đi ở tuổi hai mươi bảy. Quá trẻ!” Tôi lại được gợi nhắc về nỗi sợ hãi của mình. Tôi vẫn chưa tìm được chồng. Tôi thậm chí còn chưa hẹn hò. Trừ phi tính cả Darren vào đêm nọ, nhưng hôm đó chúng tôi thậm chí còn chẳng ra ngoài ăn tối. Tôi bắt đầu bồn chồn, muốn gạt nó ra khỏi tâm trí. Tôi không muốn nghĩ về điều đó vào lúc này. Hay sự thật rằng sự nghiệp chuyên môn PR của tôi đang nhạt phai thành dĩ vãng. Hay việc tôi thậm chí không giữ nổi công việc phục vụ bàn, chứ chưa cần nói tới một mối quan hệ nghiêm túc. Tôi sẽ quay lại với cái gì đây?
Tôi cố gắng dẹp yên tiếng nói trong đầu và chỉ đứng đây. Yên lặng nghe mọi người hát và tưởng nhớ Kurt. Nhưng rồi họ hát sang bài Something in the Way, tâm trí tôi bắt đầu quay cuồng quanh cuộc chia tay với Darren và hai mối quan hệ nho nhỏ thất bại sau Darren. Rồi mọi thứ tua nhanh tới những bộ phim nhỏ - những họa tiết màu sắc nghèo nàn về những điều ngu ngốc tôi từng nói, từng làm. Có lẽ đó là những ví dụ cho nguyên do tại sao tôi vẫn độc thân? Vẫn thất nghiệp? Vẫn không có được điều gì đáng nói? Có lẽ mọi thứ hoàn toàn là lỗi của tôi. Nhưng khoan, chết tiệt thật! tôi độc thân là vì tôi kén chọn. Tôi độc thân là vì tôi không định an phận. Đúng, tôi sẽ tìm một công việc, nhưng không phải việc gì cũng được. Và đúng, tôi cần phải kết hôn khá sớm, nếu không tôi sẽ chết, nhưng tôi vẫn sẽ không an phận. Đó không hoàn toàn lỗi của tôi. Chấm hết.
*** “Tôi đoán chúng ta đang rất nghiêm túc. Tôi đoán những trò bông đùa đã kết thúc rồi, nhỉ?”
- Carl Spackler, Caddyshack “Nhưng làm sao cậu chắc chắn được?”
- Buttercup, The Princess Bride BRADY
Tôi đi bộ tới nhà Schultz, nhiễm sắc thể Y trong người tôi lập tức trỗi dậy. Thay vì tập trung vào công việc trước mắt, tôi bắt đầu so sánh nhà của ông với dinh thự mình sẽ có khi trở thành triệu phú. Chỗ này thật ấn tượng, đầy đủ hết. Nhưng tôi thì sẽ có tối thiểu năm chiếc xe trước nhà, giống như mọi ngôi sao nhạc rap biết tự trọng khác. Và tôi sẽ thuê người để đảm bảo những chiếc xe đó luôn được đánh bóng hoàn hảo. Mỗi ngày. Tôi biết vì tôi đã xem quá nhiều tập phim Cribs trên MTV. Nhưng bạn biết mình không thấy được gì trong những tập Cribs trên MTV không, loạt chương trình phô trương sự giàu có của những người nổi tiếng ấy? Bờ hào. Khi tự kiếm được tiền, tôi sẽ xây một con hào ngay trước cửa nhà. Để phòng hờ thôi. Biết đâu sẽ có ngày Howard và tôi cùng đi chơi, săn bắn này nọ, làm những thứ đàn ông hay làm cùng nhau – đánh giá các cô siêu mẫu, nhiếc móc các tay huấn luyện viên thể thao chuyên nghiệp, tranh luận xem ai có nhiều tóc hơn – lúc đó tôi sẽ luôn có bờ hào. Quân bài chiến lược. Schultz à? Chà, ông đâu có cái bờ hào nào! Chịu thua đi!
Rồi khi đứng đó, gật gù với hào nước, tự hài lòng với chính mình, tôi bừng tỉnh vì một người làm vườn bước vào nhà, để cổng mở toang. Tôi đâu phải người tin vào các dấu hiệu, ám chỉ này nọ. Nhưng nếu Heaven đứng đây, cô nàng sẽ dứt khoát cho rằng đây là một dấu hiệu. Và rằng tôi nên bước vào sau người làm vườn. Thế là tôi đi vào. Được rồi, ông ấy có thể không có hào nước, nhưng căn nhà này đẹp chết đi được. Tôi không biết chính xác nên làm gì ở đây, bèn bước lên thảm cỏ cùng bản kế hoạch kinh doanh. Ngay lúc đó, bất thình lình tôi nghe một giọng nữ Mexico chói tai cất lên.
“Cậu muốn gì?” Tôi không biết nên nhìn vào đâu, nhưng vẫn trả lời như thể đang nói chuyện với một phù thủy xứ Oz.
“Tôi chỉ… có vài thứ cho ngài Schultz”, tôi đáp, giơ bản kế hoạch cùng chiếc chai nhỏ lên để chứng tỏ mình thực sự có vài thứ. “Ngài Schultz không có ở nhà. Cậu không được mời. Cậu là kẻ đột nhập! Tôi gọi cảnh sát!”
“Không, không cần phải vậy!” Tôi vẫn còn tự hỏi liệu bà ấy có vô hình hay sao, hoặc có lẽ bà ấy nói chuyện thông qua máy phát thanh gắn đâu đó trong thảm cỏ. “Tôi gọi cảnh sát NGAY!” Bà ấy nói, rồi tôi nghe tiếng “click”. Ban đầu, bộ não hoảng hốt của tôi nghĩ rằng đó là tiếng lên cò súng. Nhưng không, nghe giống như tiếng cửa đóng sập vào hơn. Mà thôi, tôi khá chắc bà ta không nói đùa. Rồi lại có vấn đề khi người làm vườn hùng hổ đi về phía tôi cùng cái nhìn rất đáng sợ với chiếc cào cỏ bằng kim loại khổng lồ trong tay. Tôi bèn chạy khỏi thảm cỏ, qua cổng, xuôi xuống đồi, trở lại chỗ Heaven đang nói chuyện với mấy đứa bé.
Chạy đến chỗ cô nàng, tôi đã mệt đứt hơi, cúi người về trước, chống tay lên gối mà thở hồng hộc mất mấy giây. Strummer đi đến, liếm mặt tôi. “Chuyện gì vậy?”, cô nàng hỏi. “Cậu gặp ông ấy chứ?”
“Không, tôi thấy người làm vườn của ông ấy, và bị quát mắng bởi ai đó mà tôi đoán là quản gia, trừ phi ông ấy kết hôn với một quý bà giọng cao the thé và nói tiếng Anh không sõi.” “Ai biết được chứ”, Heaven đáp. “Có thể bà ấy thực ra rất tốt, nhưng uống cà phê quá nhiều. Tôi bảo đảm trong nhà đó có nguồn cung cà phê vô tận.”
“Tôi sẽ phải đáp không về việc đó. Tôi nghĩ xác xuất cao là chẳng có ai dám kết hôn với mụ đó.” Cô nàng nhìn xuống tay tôi, tôi đang cầm bản kế hoạch cùng chiếc chai. “Cái gì kia?”, cô nàng hỏi. “Tại sao bản kế hoạch vẫn ở trong tay cậu?”
“Cô không nghe hết à? Quý bà giọng the thé, người làm vườn… cái cào?” “Này, đưa tôi xem”, cô nàng nói rồi tóm lấy bản kế hoạch cùng chiếc chai khỏi tay tôi, cô nàng oai vệ tiến về phía một đứa nhóc đang phê thuốc. Chỉ loáng sau, tôi thấy thằng bé cởi chiếc áo thun hipster kiểu để chơi bowling ra, đưa cho cô nàng. Cô nàng lộn nó lại, mặc vào người, cuộn tóc lên thành búi, rồi oai vệ đi về phía lối dẫn tới nhà Schultz, hướng cửa trước.
“Rất vui được quen cô”, tôi la lên. Tôi thậm chí không dám nhìn. Nhưng vì mạng sống của Heaven đang rơi vào nguy hiểm, tôi nghĩ việc này có thể thú vị. Thế là từ đằng sau xe hơi, tôi nhìn qua thảm cỏ, cô nàng đã đi tới cửa trước ngôi nhà to sụ của Schultz. Tôi nhìn về phía cánh cửa mở, thấy một người mặc áo đen, và Heaven nói chuyện với ông ta trong khoảng thời gian dường như dài cả thiên niên kỷ. Rồi đóng cửa lại. Và như thể chẳng có gì xảy ra, cô nàng quay lại.
“Brady?”, cô nàng gọi. “Đây này”, tôi nói từ chỗ trốn đằng sau xe hơi, hiện tại trông tôi hơi hèn. Cô nàng khom người. “Chuyện gì vậy?”, tôi thì thào.
“Một người ra mở cửa… tôi nói ông ấy là tôi có thứ rất quan trọng cần giao cho ngài Howard Schultz, và gán hết cho ông ta trách nhiệm phải đảm bảo đưa nó tới cho ngài Schultz trong tình trạng nguyên vẹn, bằng không…”, rồi cô nàng vẫy tay trong không khí. “Bằng không thì sao?”
“Tôi quên mất mình đã dùng từ gì rồi”, cô nàng nói, “nhưng ông ấy rất ấn tượng với tính nghiêm trọng của vấn đề. Thế nên tôi nghĩ chúng ta có năm mươi phần trăm cơ hội.” Ông ta không phải người duy nhất bị ấn tượng. Thành công hay không, đó cũng là điều thật thần thánh. Cô nàng lôi tôi khỏi phía sau chiếc xe. Chúng tôi quay trở lại mặt-đối-mặt với thằng bé mười hai tuổi đang mặc chiếc áo thun Nirvana cùng áo khoác chạy mô tô màu đen.
“Áo khoác đẹp đấy”, tôi nói. “Trông nhóc giống như Fonz[1] ấy.” [1] Nhân vật giả tưởng trong loạt phim sitcom “Những ngày hạnh phúc” của Mỹ, do Henry Winkler đạo diễn, công chiếu vào năm 1974.
“Là ai vậy?”, thằng bé hỏi. Tôi thậm chí không màng đưa ngón cái lên nói “ai da” để trêu chọc trí nhớ của thằng bé, vì nó làm gì có ký ức về chuyện đó. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy mình là thằng đàn ông già cỗi nhất trái đất. Ngay lúc này, một chiếc xe cảnh sát đỗ lại ngay sau chiếc xe hơi thuê của tôi. Hai viên cảnh sát bước ra.
“Chết tiệt”, tôi nói. “Bà quản gia quỷ quái kia gọi cảnh sát thật luôn à?” “Gì thế này?”, Heaven hỏi.
“Chúng ta chỉ cần vờ vịt chút”, tôi nói. “Vờ vịt. Cứ ra vẻ tự nhiên đi.” Nhưng hai viên cảnh sát đi về phía xe chúng tôi, bắt đầu chiếu đèn pin vào bên trong. “Khốn nạn thật… họ biết là tôi. Hẳn là tôi nên đi lại đó.” Tôi đi lại phía chiếc xe, Heaven theo sau.
“Xin lỗi, sĩ quan, tôi nghĩ các vị đang tìm tôi”, tôi nói. “Tôi không định làm gì cả, tôi chỉ muốn nói chuyện với ngài…” “Cô ta kìa! Đứng yên! Nằm xuống đất”, họ kêu lên, rút súng ra. “Nằm xuống.” Tôi làm theo. Chết tiệt! Schultz hẳn là rất có tiếng tăm ở cái thị trấn này. Nhưng tại sao lại là “cô ta”? Tại sao Heaven lại dính líu vào đây?
“Cả hai!” Họ nhìn Heaven. Cô nàng làm theo. Tôi cảm thấy thật tệ khi Heaven cũng bị lôi vào việc này. “Này, sĩ quan, cô ấy chẳng liên quan gì tới vụ này cả”, tôi nói.
Chúng tôi bị họ còng tay khi vẫn còn nằm dưới đất. Rồi họ đưa chúng tôi tới xe cảnh sát, ấn vào xe, quay lưng về phía họ. “Dang chân ra”, họ quát với chúng tôi. “Các người có vũ khí không?”
“Không”, cả hai chúng tôi đáp. Họ bắt đầu sờ soạng chúng tôi từ trên xuống dưới. Ngay lúc đó, khoảng bảy xe cảnh sát nữa lao về phía chúng tôi, đèn nhấp nháy. Một viên cảnh sát cho tay vào túi quần của Heaven, móc chìa khóa ra. “Đó là chiếc Ford Focus của cậu à?, ông ấy hỏi.
“Vâng… ý tôi là, không… là xe thuê”, tôi nói. Họ mở cốp xe, lôi ra một chiếc túi vải thô lớn.
“Cái gì đó?”, tôi hỏi Heaven. “Tôi không biết”, cô nàng đáp.
Một viên cảnh sát mở túi, nhìn các cảnh sát khác bằng ánh mắt tôi không hiểu lắm. Rồi ông ta lôi ra một khẩu súng khổng lồ. “Ôi lạy Chúa!”, Heaven lẫn tôi cùng thốt lên.
“Các người có quyền giữ im lặng…”, ông ta nói. Rồi tiếp tục đọc ra các quyền của chúng tôi, giọng bị những người tại buổi cầu nguyện át đi. Họ đột nhiên lại đang la ó, huýt gió về phía chúng tôi. Thêm nhiều cảnh sát đến. Chúng tôi bị áp giải xuyên qua đám đông tại buổi cầu nguyện cho Kurt Cobain, tay bị còng, một cảnh sát cầm súng – khẩu súng vừa tìm thấy trong cốp xe của chúng tôi. Họ ghét chúng tôi. Ai đó thậm chí còn nhổ vào tôi, rồi vài người khác cũng làm theo.
“Kurt chết vì tội lỗi của các người đấy!”, một cô bé nào đó la lên. Rồi bỗng nhiên chúng tôi đã trở thành kẻ thù chung, mọi người đều kết bè chống lại chúng tôi. “Cô ta cướp cái áo của tôi!”, thằng bé phê thuốc nói. Cái này đặc biệt chua chát, vì tuy chỉ tình cờ, nhưng cũng đúng. Strummer bắt đầu sủa như điên, không ngừng nghỉ.
“Sao thứ đó lại chui vào cốp xe của chúng ta?”, tôi hỏi Heaven. “Tôi không biết! Họ đang nhổ vào tôi này!”, cô nàng rên rỉ.
“Heaven! Nghĩ đi! Một khẩu súng? Tại lễ cầu nguyện của Kurt Cobain? Cô cũng biết đó là cách cậu ta tự sát mà, đúng không?” “Tất nhiên tôi biết.”
“Chà, tôi cũng muốn nhổ vào cô đây.” “Không phải lỗi của tôi!”, cô nàng la lên.
“Lần gần nhất cô gây ra việc tội lỗi là bao giờ? Chưa bao giờ chứ gì? Thôi, hỏi vậy thôi”, tôi đáp. Rồi tôi nói thêm, “Cô là Thủ đô Xấu hổ của cả thế giới đấy, cô biết không?” Chúng tôi tới chỗ xe cảnh sát. Ông ta mở cửa, che đầu chúng tôi để không bị đụng đầu vào trần trong lúc đưa chúng tôi vào xe. Họ mang Strummer theo, đưa nó vào một chiếc xe khác. Không bị còng.
Tôi nhìn trừng trừng vào Heaven, nhưng cô nàng không nhìn tôi. Cô nàng cảm thấy ánh mắt của tôi hướng về mình, nhưng không nhìn lại. Cô nàng hệt như Strummer mỗi khi làm sai điều gì đó – nghe được cảm xúc trong giọng nói của tôi nhưng giả vờ không biết và chẳng thèm nhìn tôi. “Chiếc xe cũng bị tịch thu”, cảnh sát cho hay. “Tất nhiên rồi”, tôi quay lại, đối mặt với mối đe dọa bên phải. “Được rồi… Heaven?” Tôi gọi, cô nàng vẫn cứ ngồi đó, từ chối nhìn vào tôi. “Tôi chính thức nâng mức báo động quốc gia của cô từ cam sang đỏ.”
Tôi ngồi trong một buồng giam tại nhà tù quận King, ở trung tâm Seattle. Heaven và tôi vừa phá vỡ toàn bộ buổi cầu nguyện của Kurt Cobain, bị bắt giữ vì sở hữu trái phép vũ khí cùng dụng cụ cướp ngân hàng. Tại sao mọi thứ lại xảy ra như vậy, thì tôi không biết. Chúng tôi bị lấy dấu vân tay, tôi bị giam trong buồng. Heaven ở trong buồng cạnh bên, đang bắt đầu hát liên khúc cũ kỹ về các băng đảng. Tôi đảo mắt với cô nàng.
“Tôi xin lỗi”, cô nàng nói qua các chấn song. Rồi gương mặt cô nàng biến đổi, như thể vừa thấy ma. “Này!” Cô nàng nói với một gã đội chiếc mũ bóng chày, bị cảnh sát còng tay dắt ngang qua chúng tôi. Đó là gã Nước đái mèo! Gã thì thào với tôi. Rõ ràng không phải một con ma. Gã Nước đái mèo. Chẳng hiểu ý gì nữa! Rồi tôi nghe tiếng bước chân đi về phía chúng tôi. Tôi quay lại, rất sốc khi thấy gã lùn tại văn phòng Schultz cùng một quý bà gốc Tây Ban Nha thấp tịt, mập ú mặc trang phục của quản gia đang nhìn vào buồng giam của chúng tôi.
“Đúng rồi, thưa sĩ quan”, gã nói. “Chính là cậu ta.” “Đúng”, bà Tây Ban Nha nói. “Người xấu!”
“Các người giỡn mặt với tôi chắc. Bây giờ dùng nhà vệ sinh cũng là tội sao?” “Không, nhưng xâm nhập tư gia thì là tội”, viên cảnh sát nói. “Cậu rõ ràng đã quanh quẩn ở đó cả ngày, cậu Gilbert.”
“Ai đó nhéo tôi một cái đi”, tôi nói. “Tát một cái… làm gì cũng được. Đánh thức tôi khỏi cơn ác mộng này đi.” Rồi tôi nhìn gã đang ở cùng buồng, bỗng nhiên gã chồm lên. Tôi chắc chắn cần chỉnh lại lời vừa nói. “Tôi không thực sự cần tát đâu.” “Ai đó?”, Heaven nói.
“Gã tiếp tân”, tôi nói. “Biến khỏi đây đi, đồ sâu bọ tí hon!”, Heaven hét về phía gã. “Cậu sẽ phải hối tiếc khi biết mình vừa gây sự với ai!”
“Cô đang làm mọi thứ tệ thêm”, tôi nói với cô nàng. “Xin lỗi”, cô nàng đáp, ấn khuôn mặt vào giữa các chấn song để thấy rõ hơn gã Nước đái mèo.
“Cậu đang làm gì ở đây thế?”, cô nàng hỏi. “Ôi lạy Chúa… là cậu!” Cô nàng nói như thể vừa đột nhiên nhận ra điều gì. Cô nàng vươn cả cánh tay khỏi song chắn để trỏ ngón tay kết tội về phía hắn. “Cậu bỏ khẩu súng vào cốp xe của tôi. Và cậu là lý do tại sao cảnh sát đến.” “Gì cơ?”, tôi hỏi.
“Là súng của hắn.” “Hắn là ai?”
“Hắn là gã tốt bụng đã giúp tôi cho đồ vào cốp. Hóa ra… chẳng tốt bụng lắm.” Gã đó thậm chí chẳng nhìn vào Heaven. Chỉ nhìn chằm chằm xuống đôi giày.
Anh Chàng Ngu Ngơ Và Cô Nàng Rắc Rối Anh Chàng Ngu Ngơ Và Cô Nàng Rắc Rối - Caprice Crain Anh Chàng Ngu Ngơ Và Cô Nàng Rắc Rối