Vấn đề không phải ở chỗ bạn đang gặp khó khăn mà chính ở chỗ bạn xem khó khăn là một vấn đề.

Theodore Rubin

 
 
 
 
 
Tác giả: Caprice Crain
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 39
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1123 / 9
Cập nhật: 2016-07-02 16:42:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 30
EAVEN.
Thức dậy trong khách sạn lúc nào cũng bất tiện. Đầu tiên, đôi khi ta không nhớ nổi mình đang ở chỗ quái quỷ nào. Và ngay cả khi đã nhớ, vẫn không tài nào thoải mái nổi khi xung quanh chẳng có gì quen thuộc. Dẫu thế, tôi vẫn thích khách sạn. Tôi yêu chúng. Không phải yêu việc tấm lót chẳng bao giờ vừa vặn, hay việc người ta trùm tấm chăn dơ bẩn ở giữa các lớp trải thay vì mang đi giặt, mà yêu việc họ chẳng hề xin lỗi vì những điều đó. Một số người bực bội vì mọi thứ, từ quầy bar mini tới điện thoại tổng đài, đều bị tính tiền, nhưng bạn phải – ít nhất – tôn trọng sự nghiêm túc và không hề giả tạo của việc tất cả mọi thứ bạn thấy đều phụ thuộc vào “độ dày” của chiếc ví.
Tôi thức dậy trong căn phòng tại Ramada. Brady đang ngồi ở bàn, cúi xuống một cái bát cùng chiếc muỗng – giống một gã phù thủy đang ve vẩy đũa thần. Cậu ta đang bày bừa thứ gì đó. Tôi bước lại, nhìn qua vai cậu ta. Dưới đáy bát là một ít chất lỏng dạng sữa có màu lạ. “Cậu dậy rồi à?”, tôi hỏi.
“Tôi không chỉ dậy thôi đâu. Tôi đã đến cửa hàng, mua các nguyên liệu cần thiết, chế ra một mẻ Sữa quế, đóng chai lại.” Tôi nhìn qua bàn. “Trong chai cho trẻ con à?”
“Thứ duy nhất có niêm phong tôi tìm được”, cậu ta nói. “Ai lại không thích trẻ con nhỉ?”
“Đây”, cậu ta đưa tôi cái tô. “Nếm đi.” Tôi cầm lấy. Cảm thấy như thể mình trở lại tuổi lên bảy, và vừa được nhận một tô Lucky Charm to khủng bố, tôi nghiêng cái tô về phía mặt mình, uống chỗ sữa còn lại. Brady nhìn tôi với ánh mắt trông đợi. Khi tôi ló mặt ra khỏi chiếc tô, Sữa quế dính trên hai má, tôi không nói lời nào. Nghĩa là, tôi biết, nhưng tôi chỉ muốn thấy cậu ta sợ hãi ấy mà, chưa kể, đây là bài luyện tập tốt cho cậu ra khi ở trong phòng cùng Schultz.
“Thế nào?”, cậu ta hét lên. “Thôi nào… cô nghĩ sao?” Tôi không thể kiềm chế nữa. Tôi nở nụ cười thật to, và nói, “Tuyệt vời. Thật đấy. Tôi không thể tin nổi là nó vẫn chưa sánh vai cùng các thứ sữa thuộc tốp hai phần trăm, một phần trăm hay không phần trăm gì đấy trên toàn thế giới. Những kẻ có khả năng bán thứ này họa có ngu mới không trả tiền cho cậu ngay tức thì.”
“Thật chứ?” Cậu ta có vẻ dễ tổn thương hơn bao giờ hết. “Cô không phải đang cố gắng khiến tôi cảm thấy vui đấy chứ? Trước giờ cô có bao giờ cố tình làm thế đâu.” “Không. Hoàn toàn thật. Rất đỉnh”, tôi nói. Brady lập tức nhấc tôi lên ôm chầm lấy. Tôi cũng ôm cậu ta, thế là cậu ta nhanh chóng đặt tôi xuống, ngại ngùng bước lùi lại.
“Thôi, hôm nay là ngày quan trọng”, cậu ta nói. “Đây là lý do chúng ta tới đây.” “Vậy… kế hoạch là gì?”
“Tìm Howard Schultz… khiến ông ta thấy sức quyến rũ của Sữa quế.” “Tuyệt”, tôi nói. “Nhưng chúng ta sẽ tìm ông ấy thế nào đây.”
“Chúng ta à?” “Ừ, chúng ta. Tôi sẽ giúp.”
“Tôi không biết…”, cậu ta nói. “Chà, tôi thì biết. Tôi sẽ đi cùng cậu”, tôi nói trong lúc bước vào nhà tắm. “Sao cậu không dắt Strummer đi dạo một vòng trong lúc tôi tắm nhỉ? Khi cậu quay lại, tôi sẽ sẵn sàng.”
Tôi mở vòi nước, nhanh chóng bước vào để cậu ta không có thời gian cãi lại. Cửa hàng Starbucks đầu tiên chúng tôi đến nằm trên đại lộ số 5. Brady gọi một ly latte trong lúc tôi nấn ná tại quầy. Tôi thấy một người pha chế thiếu cảnh giác đang rót sữa vào bình, bèn lỉnh tới gần, bắt đầu giở mỹ nhân kế.
“Chào”, tôi nói cùng nụ cười thật tươi thường chỉ được dùng khi gặp cảnh sát giao thông. “Chào buổi sáng”, cậu ta nói.
“Mỗi ngày cậu phải rót đầy mấy thứ này bao nhiêu lần?” “Ồ… thì cô biết đấy. Lúc hết thì phải rót đầy lại.”
“Chà”, tôi nói. Tôi nghĩ nên nói gì tiếp, vì chính xác thì tôi chưa lên kế hoạch cho việc này. “Vậy chẳng phải văn phòng tổng công ty ở gần đây sao?” “Ừm… đúng. Đại khái vậy”, cậu ta nói. Và chỉ có thế.
“Ừ, tôi nghĩ vậy. Ở đâu nhỉ, cách đây năm dãy nhà?” “Không. Nó… chà, ừm, cách đây vài dãy, nhưng chỉ cách một con đường thôi.”
“Đúng rồi. Vậy nó nằm trên đại số số… 4? Không… 6” “Không, cô đoán trúng cái đầu. Đại lộ số 4”, cậu ta nói, rồi quay trở về sau quầy. Tôi tìm đến chỗ Brady, cậu ta đưa tôi một ly latte.
“Cảm ơn.” “Thám thính được gì không?”
“Có. Nó nằm trên đại lộ số 4. Cách đây một con đường.” “Được đấy.” Chúng tôi cụng hai chiếc cốc giấy, rồi bước ra khỏi cửa. Chúng tôi lái xe tới đại lộ số 4, khi tới đó, chúng tôi thấy một tiệm Starbucks khác. Sao lại không thể có một quán Starbucks nữa ở đây chứ nhỉ? Nếu góc phố nào tại mọi thành phố đều có quán thì tôi hình dung thành phố quê hương của nó hẳn phải là một quán Starbucks khổng lồ. Thực sự, tôi ngạc nhiên là người ta không cho chúng tôi một ly Frappuccino khi chúng tôi rời khỏi máy bay.
Brady bước vào, tôi đi theo. Cậu ta gọi một ly latte nữa. Tôi bắt đầu tự hỏi liệu cậu ta có định uống cà phê tại mọi quán Starbucks chúng tôi gặp trên đường tìm kiếm ngài Schultz không. Đây chắc chắn không phải ý tưởng hay ho cho lắm. Cậu ta nói chuyện với người pha chế tại quầy, rồi quay lại, không nhìn thẳng vào tôi.
“Gì đấy?”, tôi hỏi, cảm thấy phải tự vệ. “Gã đó mới nói với tôi là văn phòng tổng công ty nằm ở đại lộ số 1, không phải số 4.”
“Chà, gã mà tôi nói chuyện dường như rất ý thức mình đang nói gì mà.” “Rõ ràng là không rồi”, Brady nói. Cậu ta bước ra, ném ly latte của mình lên vỉa hè.
“Chúng tôi lái xe từ đại lộ số 4 về đại lộ số 1, rồi rẽ phải. “Anh chàng kia có nói với cậu nó ở ngã tư nào không?”, tôi hỏi.
“Có… Lander.” “Cậu có biết Lander ở hướng nào không?”
“Hướng này”, cậu ta nói. Tôi có thể thấy cậu ta đang bồn chồn, vì cậu ta đáp chuyện với tôi hơi cộc lốc. Thường thì cậu ta không như vậy. Ý tôi là, thường thì cậu ta bực bội, khó chịu hoặc vò đầu bứt tai. Nhưng cậu ta chẳng bao giờ nói cộc lốc mà không có lý do. Và tôi hiểu được. Cậu ta sắp có cuộc gặp quan trọng. Đấy là nếu cậu ta được gặp người đàn ông nọ - đó lại là câu chuyện hoàn toàn khác. Tôi ngồi im lặng bên cạnh trong lúc cậu ta lái nốt qua những dãy nhà cuối cùng, vì không muốn gây thêm căng thẳng cho cậu ta nữa. Khi tới giao lộ của Lander và đại lộ số 1, chúng tôi chẳng thấy dấu hiệu gì của văn phòng tổng công ty. Tôi đoán là chúng tôi trông ngơ ngác dữ lắm, vì một phụ nữ gầy guộc với mái tóc có màu rất nhân tạo ra dấu hỏi chúng tôi cần giúp không. Brady hạ cửa kính. Bà ấy bước đến.
“Cô cậu cần giúp gì?”, bà hỏi. “Có cần tôi mách địa chỉ cho không?” “Vâng”, Brady nói. “Chúng tôi được chỉ là văn phòng tổng công ty Starbucks ở đây, nhưng tôi không tìm thấy.”
“À, có một quán Starbucks cách đây vài dãy phố…”, bà nói. “Nhưng tôi không chắc về trụ sở tổng công ty.” “Vâng. Cảm ơn bà”, Brady nói, tiếp tục lái xe về hướng bà ta chỉ.
“Chúng ta đến cửa hàng Starbucks tiếp theo à?”, tôi hỏi. “Bao nhiêu cũng đến”, cậu ta nói. Chúng tôi lái thêm vài dãy nhà tới khi thấy một quán nữa, bèn tấp vào.
Brady bước về phía quầy, mỉm cười với cô gái đội mũ Starbucks. “Chào cô. Tôi có hẹn tại văn phòng công ty, nhưng tôi bị lạc đường. Tôi nghĩ nó nằm ở giao lộ của đại lộ số 1 và Lander…” “Không”, cô gái nói, “Nó nằm ở giao lộ của đại lộ số 4 và Lander”. Ngay khi nghe cô gái nói số 4, tôi muốn ném cho Brady câu tôi đã nói mà, nhưng tôi không làm vậy. Tôi kiềm chế. Brady cảm ơn cô gái, bước về phía tôi.
“Nói đi”, cậu ta nói. “Gì cơ?”
“Cô biết mà! Cô đúng rồi. Cô muốn hả hê mà.” “Không có”, tôi tự vệ. “Tôi chỉ vui là hiện giờ chúng ta đã biết nó nằm ở đâu.”
“Ừ ừ…”, cậu ta đáp lại, vẻ tôi–không–tin–đâu. Nhưng tôi vẫn ngậm miệng. Chúng tôi vào xe, lái trở lại đại lộ số 4. Trước khi tới đó, chúng tôi đi ngang một tiệm Starbucks nữa. Một cậu nhân viên đang đứng bên ngoài hút thuốc, nghỉ ngơi. Brady dừng xe lại đó. “Chào anh”, cậu ta nói với anh chàng nọ. “Văn phòng công ty đi hướng này nhỉ?” “Đúng rồi”, anh chàng đáp. “Trên đường Utah.”
“Utah?”, Brady hỏi, tỏ ra bực tức. “Ừ”, anh chàng đáp, rít một hơi xì gà thật dài, “số 2401 đường Utah. Tòa nhà Sears cũ ấy”.
“Tôi tưởng nó nằm ở giao lộ của đại lộ số 4 và Lander?” Brady ném cho tôi ánh mắt tôi–biết–cô–sai–mà, dù tôi chẳng nói gì về vụ đại lộ số 1. “Đúng, đúng là nó nằm ở giao lộ của đường số 4 và Lander”, anh chàng nói. Tôi ném trả Brady một cái nhìn thỏa mãn. “Giao lộ đó nằm giữa đường số 4 và Lander, nhưng tòa nhà thì thuộc đường Utah. Theo hướng đó, số 2401. Đến là thấy liền. Tòa nhà lớn ốp gạch, có logo Starbucks trên đỉnh ấy.”
“Cảm ơn, anh bạn”, Brady nói. Chúng tôi lái xe tới khi trông thấy nó: Tòa nhà to lớn ốp gạch, có logo Starbucks nổi bật như quả cherry đặt trên chiếc bánh. Chúng tôi dừng lại trước tòa nhà, cùng ra khỏi xe.
“Đây rồi”, tôi nói, rồi ôm chặt cậu ta. “Tiến lên đi.” Cậu ta bắt đầu bước đi, rồi lại chạy về xe.
“Khoan! Tôi không làm được!”, cậu ta hét lên. Tôi thực sự đồng cảm với kiểu chần chừ, thiếu quyết đoán này. Cậu ta sợ điều mình không biết. cậu ta đi cả một chặng đường chỉ để bị nỗi nghi ngờ về chính bản thân mình ngăn cản. “Cậu có thể mà!”, tôi hét lên. Cảm thấy cần có thêm sự khích lệ, Strummer cũng nhảy lên, cụng đầu vào khung cửa sổ đang đóng của xe hơi. Brady nhìn tôi ái ngại, rồi vươn tay qua người tôi, với về phía sau xe. “Tôi không thể vào đó mà thiếu thứ này”, cậu ta tóm lấy xấp kế hoạch kinh doanh cùng một bình Sữa quế nhỏ.
Tôi dịch qua chỗ ngồi lái xe, vẫy tay khích lệ cậu ta, rồi lùi về sau. Strummer tót vào ghế ngồi cạnh tài xế. Chúng tôi bật radio. Tôi nói Brady rằng sẽ chờ tới khi cậu ta xong việc để cùng nhau về. Cậu ta nói sẽ gọi điện cho tôi khi xong việc, nhưng tôi không biết cậu ta sẽ mất bao lâu, nên đành lái xe loanh quanh xem phong cảnh trong vùng. Tôi lái ngang qua chợ Pike’s, nơi có những người ném cá và những quầy bán trái cây. Tôi ra khỏi xe mua một túi cherry. Tôi định mua loại cherry đỏ thông thường, nhưng anh chàng đứng quầy thuyết phục tôi mua loại Rainier – trái hơi ngả sang màu trắng, và rất ngon. Thôi thì màu gì cũng được, thú vui đích thực khi ăn cherry là được nhổ hạt qua cửa sổ mà. Đó là một nghệ thuật chẳng mấy người nhận ra, một nghệ thuật mà tôi làm rất giỏi. Để ý thấy Strummer đang nhìn trừng trừng, tôi tiếc vì không thể cho nó ăn cùng. Vì món này có hạt, tôi không muốn nó nuốt phải. Tôi không muốn chịu trách nhiệm nếu bao tử của nó mọc lên một cây cherry.
Tôi tìm được một cửa hàng tiện lợi cách đấy một dãy nhà, bèn đến đó mua thức ăn chiêu đãi Strummer. Trên đường đi, tôi lái xe ngang qua ba đứa trẻ da trắng, dân ngoại ô, đang thực hiện phong trào tuyệt thực Free Tibet[1]. Bây giờ đã là ngày thứ mười lăm của chiến dịch, chúng trông rất khổ sở. Chúng ở ngoài trời, trên chiếc giường tạm bợ, mệt mỏi, yếu ớt, và đói khát. Dám cá chúng sẽ thích cherry.
[1] Chiến dịch đòi tự do cho người Tibet – Tây Tạng. Tôi bước vào cửa hàng tiện lợi. Người ta đang mở kênh nhạc rock cổ điển Seattle, bài Fly Like an Eagle. Tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu một số bài hát bị cấm mở và cấm phát vĩnh viễn. Dường như rock cổ điển đích thực chỉ có năm bài, cứ quanh quẩn thế thôi.
More Than a Feeling của Boston, Hotel California và Life in the Fast Lane của Eagles – hai bài này ngang ngửa nhau, Feel Like Makin’ Love của Bad Company, Stairway to Heaven của Led Zeppelin, cùng tất cả mọi bài hát của Steve Miller Band. Tôi dành riêng một vị trí cho tất cả những bài của Steve Miller Band. Nếu bỗng nhiên ra đời đạo luật cấm các bài hát này, tôi đoán là tất cả các kênh nhạc rock cổ điển sẽ tiêu tùng hết. Tôi xem lướt qua dãy thức ăn cho chó. Bài Fly Like an Eagle lắng dần, chuyển sang The Joker, chứng minh cho luận điểm của tôi. Người ta chỉ bán những thứ thức ăn cho chó rất vớ vẩn làm từ phế phẩm rác rưởi, đồ bỏ đi. Tôi không muốn Strummer ăn những thứ đó, nên đành mua cho nó một cái sandwich thịt nguội và pho mát. Cửa hàng cũng có máy bán Slurpee, vấn đề là không làm ra Slurpee đích thực. Có vị cherry và đá lạnh. Tôi trộn lẫn hai vị. Cũng không quá tệ hại, nhưng tôi thích vị Cola hơn.
Tôi cũng tìm thấy Pringles, nhận ra đã rất lâu mình không ăn món này, và hiện tại thì rất muốn. Lúc còn nhỏ, tôi cũng ăn Pringles, thường ăn thành từng vốc, bốn năm vị cùng lúc. Tôi tự hỏi Brady có thể ăn nhiều cỡ nào. Tôi xúc một lọ, bắt đầu thầm chia thành vốc, tính thử xem bao nhiêu vốc sẽ hết một lọ. Trong lúc tôi đếm, một anh chàng đẹp trai cao ráo đội chiếc mũ bóng chày đứng tần ngần ở chỗ quầy tạp chí, quan sát tôi. Thế là tôi cố gắng giải thích. “Tôi đang nghĩ xem bao nhiêu vốc tay thì ăn hết một lọ này.”
“Vậy cô ra kết quả là gì?” Anh chàng nói trong lúc nhìn ra cửa sổ. Trông anh chàng hơi lo lắng. “Tôi nghĩ là bảy”, tôi đáp. “Hoặc sáu.”
“Tham vọng đấy”, anh chàng nói, rồi lại nhìn ra ngoài cửa sổ. “Cô có biết nước đái mèo phát sáng trong bóng tối không?” “Ơ… không. Tôi không biết.”
“Chà, sự thật đấy”, anh ta đặt quyển tạp chí xuống, cầm quyển khác lên. Có thể anh ta muốn chơi trò giương Đông kích Tây, tôi không chắc. Dù sao đi nữa, bỗng dưng tôi thấy mừng là mình có một con chó. “Tôi dùng bóng đèn màu đen và thay tất cả đèn ở mọi phòng trong căn hộ, vì thế tôi thấy nó khắp nơi! Nước đái mèo chết tiệt!” “Được rồi…”, tôi nói. Tôi chẳng thể, cũng chẳng muốn nói thêm gì vào cuộc nói chuyện dông dài này. Thế là tôi lấy bảy lọ Pringles vì quyết định sẽ cùng Brady thi xem ai ăn hết một lọ nhanh hơn.
Cuối cùng, tôi mua một bình nước mười một lít, bảy lọ Pringles, sandwich thịt nguội và pho mát cho Strummer, Slurpee cho tôi, cùng một chiếc kính râm ngộ nghĩnh theo phong cách Foster Grant. Thanh toán xong, tôi nhận ra mình thất nghiệp, nhưng lại đang mua sắm như thể có công việc thu nhập rất tốt. Tôi lê hai chiếc túi một lượt ra xe, mở cốp. Trong lúc tôi chất chỗ túi vào cốp xe, cậu Nước đái mèo bước lại.
“Để tôi giúp cô chất mấy thứ đó”, anh ta nói. “Cảm ơn”, tôi đáp. “Chỗ nước uống này thực sự sẽ giết tôi mất.” Tôi ném chỗ hàng hóa còn lại vào phía trước xe.
“Xong rồi đấy”, anh ta nói. Anh ta cho chỗ nước uống vào cốp xe rồi tiến đến trước tôi, mỉm cười. “Chỉ có thế thôi nhỉ?” “Đúng rồi”, tôi nói.
“Vậy cô đi đi”, anh ta đóng cốp xe lại. Thấy không? Đấy, anh chàng này là người tốt. Thật ngọt ngào. Tốt bụng. Mấy gã ở New York đâu có được như thế. “Cảm ơn nhiều”, tôi nói. Tôi gắng sức nói với ra từ chỗ ngồi đằng trước, nhưng chẳng biết anh ta có nghe thấy không, vì anh ta đang trên đường đi về phía cuối phố rồi. Thôi vậy!
Tôi đưa Strummer chiếc sandwich. Khi nó ăn xong, chúng tôi đi bộ một chút dọc dãy nhà. Chúng tôi đi ngang một cửa hàng Rite Aid, một quán cà phê tên Tully’s, rồi đến phố Union, sau đó rẽ phải. Chúng tôi dừng chân, lắng nghe một nghệ sĩ đường phố chơi guitar, hát liên khúc những bài của Nirvana để kỷ niệm ngày mất của Kurt. Strummer và tôi lắng nghe ông hát, “I feel stupid… and contagiou. Here we are now… entertain us”. Strummer kéo tôi, thế nên chúng tôi bắt đầu đi ngược về. Trên đường có rất nhiều xe cảnh sát phóng qua. Khi về đến chỗ xe hơi, Strummer hít ngửi xem còn sandwich không, còn tôi mở một lọ Pringles. Hai lọ dùng để thi thố. Hai lọ khác phòng khi Brady thua và muốn đấu lại. Hai lọ nữa phòng khi cậu ta thắng trận đấu lại, và tôi muốn chơi trận quyết định cuối cùng. Lọ thứ bảy là để tôi thực hành. Tôi tóm một nắm đầy, lùi xe khỏi chỗ đỗ.
Trong lúc lái về giao lộ của đường số 4 và Lander, một nhóm xe cảnh sát nữa – đang bật đèn nhấp nháy – chạy nhanh qua tôi theo hướng ngược lại. Tôi rất muốn quay ngược đầu xem có vụ việc gì, nhưng ráng kiềm chế, tiếp tục lộ trình đang đi, trở lại đón Brady. BRADY
Tôi đến địa chỉ số 2401, đại lộ phía Nam Utah. Hệt như tôi trông đợi. Vâng, có một cửa hàng Starbucks ngay tầng trệt, và vâng, đây là một tòa nhà văn phòng khá đông những anh chàng mặc vest và lưa thưa mấy người đưa thư bằng xe đạp – tất cả đến rồi đi thật vội vàng. Tôi xem qua bảng hướng dẫn, tìm Schultz. Văn phòng của ông ở tầng tám. Tôi bước đến dãy thang máy. Chẳng có ai ngăn tôi lại để hỏi xem tôi muốn đi đâu. Tôi bước vào. Cứ thế. Thang máy mở ra tại tầng tám. Lại một hành lang nữa, nhưng ở tầng này, cà phê được miễn phí. Những ấm cà phê được đặt dọc theo một dãy kệ, cùng tất cả các phụ liệu có tại Starbucks, tất nhiên rồi. Đằng sau bàn tiếp tân là một gã nhỏ con mặc sơ mi cài nút kín cổ cùng áo len cổ chữ V bên ngoài. Gã đeo kính, nét mặt y như thể mới bị ai đó đút một muỗng dầu nhớt vào miệng.
“Chào buổi sáng”, gã nói. “Tôi có thể giúp được gì?” “À, tôi có hẹn với ngài Howard Schultz.”
“Tên ngài là?” Gã nhìn tôi từ trên xuống dưới, nhăn mũi khi trông thấy chiếc chai nhỏ. “Tên tôi là? Được. Tên tôi là Brady Gilbert.”
“Chờ một lát”, gã đáp trong lúc gọi đến cho ai đó, tôi đoán là thư ký của Schultz. “Chào… Brady Gilbert?” Gã nói với cô nàng. Tim tôi bắt đầu đập mạnh tới mức e là gã có thể nghe thấy tiếng. “Chờ một giây”, gã nói, rồi che ống nói điện thoại bằng một tay. “Ngài từ đâu tới?”, gã hỏi tôi. “New York”, tôi nói. Sự thật mà.
“Vâng… công ty nào nhỉ?” “Tôi… tôi…” Chết tiệt thật! Tôi nói gì bây giờ? Nói “Sleestak Records” hẳn sẽ không giúp tôi qua cánh cửa này. Nói “Sữa quế” thì lại làm lộ ý tưởng thiên tài của tôi. “Tôi đến từ Quỹ Make–a–Wish”, tôi buột miệng.
“Tốt lắm”, gã nói. “Cậu ta đến từ Quỹ Make–a–Wish”, gã nói lại vào điện thoại. “À ha? Được. Tốt.” Gã cúp máy, nhìn tôi cùng nụ cười mím môi. “Tôi xin lỗi, nhưng không có cuộc hẹn nào với ngài được ghi nhận cả.” “Hẳn phải có sai sót gì rồi”, tôi nói.
“Ngài Schultz có những hai trợ lý riêng đấy. Không phải một… hai đấy. Cả hai hợp thành một cỗ máy hiệu quả cực cao, họ được thuê để bảo đảm rằng không có sai sót.” “Không”, tôi nói, cố kềm chế tông giọng nài nỉ của mình. “Cậu không hiểu. Tôi cần phải gặp ngài Schultz trong hôm nay.”
“Không được đâu, anh bạn”, gã nhỏ thó kiêu căng đáp lại. Tôi thấy mình cần phải thay đổi phương pháp. Nhưng trước tiên, tôi cần một tách cà phê. Tôi bước khỏi chiếc bàn to, đi về phía dãy cà phê. Tới tận đây mà không uống cà phê miễn phí thì quá ngốc. Tôi nhấp một ngụm cà phê, đi tới đi lui. Gã kia đang nhìn tôi. Tôi bèn ngồi xuống. Rồi lại đứng lên.
“Nghe này, tôi cần gặp ông ấy. Sự thật là… tôi không phải người của Quỹ Make–a–Wish. Tôi xin lỗi. Tôi không biết tại sao lại nói thế. Tôi tưởng như thế sẽ giúp tôi được vào.” “Phải rồi, nói dối rằng mình làm việc cho một công ty ban phát điều ước cho những trẻ em sắp chết là ý tưởng tuyệt vời đấy. Tôi hiểu được tại sao cậu lại nghĩ điều đó sẽ giúp cậu vào được.” Gã mở một tờ tạp chí, bắt đầu lật trang, như thể tôi không hề ở đó.
“Nhưng tôi đã thú nhận rồi. Như thế cũng có ý nghĩa gì chứ.” “Gì nữa đây?”, gã nói. “Năn nỉ xin tôi rót sữa cho một đứa bé đang chết đói trong tưởng tượng nào đó à?”
Ban đầu tôi không hiểu ý gã, nhưng rồi tôi thấy gã đang nhìn vào chiếc chai nhỏ. “Ồ, cái này ấy à? Đây… đây là bữa trưa của tôi.” “Hay thật”, gã nói. “Mẹ chuẩn bị bữa trưa cho cậu à. Tôi nghe mùi như Fritos ấy.”
“Nghe này, tôi bay từ đầu bên kia của đất nước để gặp ngài Schultz đấy. Tôi phải gặp để nói với ngài ấy về một thứ sẽ thực sự đem lại rất nhiều tiền.” “Ừ, cậu cũng giống tất cả mọi người bước qua cánh cửa kia. Quay lại xếp hàng đi.”
“Này, tôi sẽ xếp hàng… nếu cậu chỉ cho tôi hàng ở đâu.” “Chỉ là một cách nói thôi”, gã đảo mắt.
“Tôi biết. Tôi đang đùa mà.” “Ngài ấy đã có rất nhiều tiền rồi. Cảm ơn cậu đã đến. Nếu cậu muốn để lại ấn phẩm truyền thông, hoặc nhắn lại bất cứ điều gì muốn nói với ngài Schultz, thì cứ vui lòng.”
“Rất quan trọng đấy”, tôi nói. “Cậu làm ơn nói với ngài ấy là có người ngoài đây cần nói với ngài ấy điều vô cùng quan trọng.” Gã với lấy xấp giấy ghi chú, cầm bút lên. Tôi thấy gã ghi tên tôi lên đó. Cuối cùng thì tôi cũng tiến lên được một chút ít rồi đây.
“Được rồi. Brady… Gilbert… chuyện… rất… quan… trọng”, gã giơ lên cho tôi xem. “Thế này ổn chưa?” “Ừ”, tôi nói.
Gã vo tờ giấy lại, vứt vào thùng rác. “Ngài ấy bận họp.” Bài thử thách tinh thần khiến tôi muốn gí một trong số những bình cà phê ở đây lên sống mũi của gã. Tôi thở một hơi. “Tôi sẽ chờ”, tôi nói.
“Chờ bảy tháng nhé.” “Tôi chỉ cần gặp ngài ấy năm phút thôi”, tôi nhấn từng từ.
“Tôi biết mà. Cậu có một ý tưởng mới toanh sẽ đem lại cho ngài ấy cả tỷ tỷ đô la – hoặc là, khoan đã – để tôi thử đoán… cậu đã tái phát minh được hạt cà phê! Cậu tưởng không có sẵn cả tá người ‘chỉ cần năm phút’ của ngài Schultz giống như cậu à?” “Nhưng tôi không muốn tái phát minh hạt cà phê! Tôi chỉ muốn nói chuyện với ngài ấy thôi!”
Thật quá tầm thường, cái gã này. Mặc chiếc áo sơ mi nhỏ xíu cùng áo len cổ chữ V bên ngoài. Một thằng nhóc học lớp năm lớn tướng cả đời bị ức hiếp, giờ thì có được một vị trí đầy quyền lực. Đừng hiểu lầm, tôi chỉ là kẻ-thất-bại-ở-trường-học-làm-nên-nghiệp-lớn. Khi ra xã hội, những gã thất bại và hay bị bắt nạt ở trường học thường làm ăn tốt hơn những kẻ từng nổi tiếng ở trường rất nhiều. Những đứa trẻ từng nổi tiếng khi còn đi học hiện đều đang sống một cuộc đời nhạt nhẽo ở ngoại ô, với hàng rào trắng, xe SUV, trong khi đám từng bị coi thường lại nổi danh trong xã hội. Ngoại trừ gã hề này. Gã này có một công việc quá sức quan trọng – tiếp tân. Công việc của gã là loại bỏ mọi kẻ hạ lưu. Gã là người gác cổng. Gã cùng con át chủ bài: Kiểu thái độ anh là ai đấy nhỉ? Gã là thế. Một gã khốn khổ quỵ lụy con át. Mà một gã giàu có cũng chưa chắc tốt lành gì hơn. Dù sao tất cả họ đều sẽ dẹp tôi sang bên, thật không thể nào chấp nhận được.
Tôi bắt đầu tự làm mình phát hoảng bằng những hình ảnh tưởng tượng về gã này cùng với quân bài át. Chúng cười nhạo tôi. Ngay khoảnh khắc đó, tôi nhận ra mình đã uống quá nhiều cà phê. Gã không định nhúc nhích, tôi sẽ phải nghĩ ra kế hoạch hay hơn. Một kế hoạch hay hơn? Thôi kế hoạch nào cũng được… “Cậu còn cần tôi giúp gì nữa không?”, gã hỏi tôi.
“Không… không còn gì. Chỉ là, cậu biết đấy… cho tôi gặp ngài Schultz.” “Được rồi, nếu không còn gì khác, tôi sẽ phải yêu cầu cậu rời khỏi đây ngay.”
“Hãy thử nghĩ nếu cậu là tôi”, tôi thử một phương cách hoàn toàn mới, vì chẳng hề có kế hoạch quỷ quái gì cả. “Cậu vừa bay từ đầu bên kia đất nước tới đây để gặp ngài Schultz. Trở ngại duy nhất là một anh chàng – một anh chàng rất tử tế, ăn mặc đẹp – anh ta chỉ đang làm việc của mình mà thôi.” “Đi dùm đi”
Tôi bước khỏi khu tiếp tân, nhưng rồi lại ló đầu vào… “Đừng để tôi phải gọi bảo vệ”, gã nói. Tôi đành phải rụt đầu lại. Tôi đứng trong hành lang ít phút, suy nghĩ. Phải có cách chứ. Cửa hông… lối thoát hiểm… gì cũng được.
Một gã giao thức ăn ra khỏi thang máy, bước về phía khu tiếp tân. Tôi dừng gã này lại, hỏi liệu gã có được vào trong đưa thức ăn không, hay bất kể ai gọi, thức ăn đều phải dừng lại tại quầy tiếp tân. Gã nói với tôi rằng mình không được phép đi qua khu tiếp tân. Thế là tiêu một ý tưởng. Tôi đi thang máy xuống dưới, lượn quanh sảnh chính, cố gắng nghĩ ra một kế hoạch mới. Hóa trang chăng? Trong phim thì như thế hiệu quả mà, đúng không? Tôi có thể vào vai Fletch. Không may, tôi chẳng thể tự do đi vào cửa hàng quần áo hóa trang. Sẽ phải ứng biến thôi.
Tôi bước ra ngoài, nhìn quanh. Chẳng có gì nhiều. Tôi thực sự đã nghĩ tới việc bẻ một mớ cành cây rồi giả làm một cái cây để lên kia. Nhưng đấy là nếu gã nọ có óc hài hước, và có trái tim. Tôi đi bộ trở vào tòa nhà, trông thấy một người lau dọn vệ sinh. Tất nhiên rồi, tôi có thể cho ông ta hai mươi đô để được mặc bộ trang phục đó, nhưng như vậy thì sao chứ, ngoài việc túi tiền của tôi bay mất hai mươi đô. Mọi ý tưởng điên loạn tôi nghĩ ra đều có vẻ như lấy từ một tập trong phim Laverne & Shirley, tôi ghét chính mình vì đã không chuẩn bị kỹ hơn. Nhưng làm sao mà chuẩn bị cho việc gặp mặt một quý ông được canh gác đằng sau tổng đài 1-800 cơ chứ?
Rồi tôi nảy ra một ý tưởng. Phòng vệ sinh. Tôi vào thang máy, quay trở lại tầng tám, đi thẳng vào nhà vệ sinh. Sẽ phải có lúc ông ấy cần “xả” chứ, đúng không? Tôi sẽ ở trong nhà vệ sinh chờ cho tới khi ông ấy vào. Thế là tôi ngồi trong một buồng – chẳng có lấy một mẩu giấy để đọc. Chán điên lên được! Không chỉ chán, mà là chán như con gián. Câu này tôi nảy ra nhiều năm trước, khi nhận một công việc vào mùa hè: Làm gác cửa tại một tòa nhà khá đẹp. Công việc chỉ là ngồi đó, chờ mọi người đi ra đi vào. Tôi lại còn làm việc vào giờ thấp điểm, mọi người rất hiếm khi ra vào. Tôi ngồi đó. Tôi cố gắng tự làm mình khuây khỏa. Không được phép đọc sách, nên tôi phải tự tưởng tượng.
Hồi đó tôi rất mê Stephanie Seymour. Tôi nghĩ về cô nàng suốt cả đêm. Tất nhiên, việc đó chắc chắn dẫn đến cảm giác khó chịu kinh khủng. Thế là tôi lại cố gắng tẩy sạch đầu óc, không nghĩ đến cái gì cả. Cứ ngồi đó, chán như con gián. Tôi chờ trong buồng. Mọi người đi vào rồi đi ra. Tôi ló đầu ra, không thấy Schultz đâu. Đã một tiếng mười ba phút. Tôi đã nghe đủ thứ tiếng động, ngửi đủ thứ mùi mà dù có cố gắng cũng không thể tạo ra nổi.
Hai gã bước vào, lần lượt, bắt đầu tán dóc về một cuộc đua nào đó: “Này, cậu có định tới Portland dự cuộc chạy đua Nike Run Hit Wonder 10K không?”, gã đầu tiên nói.
“Cậu đùa à? Tôi sẽ không thể nào bỏ lỡ! Tôi là fan bự của Tone–Loc đấy.” Gã này thừa nhận trắng trợn luôn à? “Còn ai chơi nữa không?”, gã thứ nhất hỏi.
“Tommy Tutone, Flock of Seagulls, General Public, cùng một nhóm bí ẩn. Devo đang là hạt giống”, gã thứ hai nói. Gì thế này? Devo? Devo chắc chắn có nhiều hơn một chiến thắng, không đặc biệt liên quan đến việc chạy, nên tôi không hiểu tại sao họ lại tham gia. Tại sao không mời Bob Seger? Dù cũng không phải nhà vô địch, nhưng ít nhất anh chàng này biết cách “Chạy ngược gió”. “Devo không nhận được sự tôn trọng xứng đáng”, tôi nghe thấy mình buột miệng nói to. Tôi lập tức lấy tay che miệng, để bắt mình im đi. Không gã nào đáp lại, nhưng cả hai vội vã rời đi.
Ít phút sau, có người khác đi vào. Hắn vào buồng cạnh buồng của tôi, ngồi xuống. Tôi nhận ra đôi giày. Là gã Át chủ bài. Tôi nín thở, không muốn gã biết tôi ở đây. Tôi ngồi bất động đến tím tái cả người, còn gã thì chẳng có lấy một động tĩnh. Cũng không phải tôi muốn nghe âm thanh gì từ gã, nhưng tôi thấy lạ là gã chẳng hề làm bất cứ điều gì. Tôi không muốn bị lộ, chứ không thì đã khuyên gã đi mà ăn bột sắn. “Nói để cậu biết… chúng tôi biết cậu ở đây, biết từ lúc cậu mới vào rồi”, gã nói.
“Cậu nói với tôi đấy à?”, tôi hỏi, không phải theo kiểu De Niro, mà theo kiểu ngây thơ ai cơ, tôi ấy à? “Ừ, cậu đấy.”
Tôi ra khỏi buồng, gã cũng vậy. “Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi. Hoàn toàn tỉnh bơ. Tôi chú ý thấy hai tay bảo vệ đứng ở cửa. “Nghe này… Tôi hiểu việc này quan trọng với cậu”, gã Át nói.
“Được đấy, cuối cùng cũng có tiến triển.” “Nhưng vấn đề là… ngày cả khi tôi muốn để cậu vào trong kia gặp ông ấy… cũng chẳng ích lợi gì.”
“Tại sao?” “Tại vì”, gã nói, “ngài Schultz đang ở Barcelona, dự Hội nghị Thượng đỉnh về Thực phẩm Toàn cầu.”
“Barcelona… Tây Ban Nha à?” “Không, Barcelona, đảo Rhode”, gã nói.
“Ông ấy đang ở nước ngoài?” “Đúng.”
“Vậy là cậu để tôi ngồi đây hơn một tiếng đồng hồ?” “Ừ.”
“Tại sao?”, tôi hoang mang hỏi. “Tôi không biết”, gã nói, như thể gã thật tình không biết. Và câu đó bật ra hiển–nhiên tới mức tôi muốn đấm cho gã một quả vào mặt.
“Đồ khốn nạn”, tôi mắng. Rõ ràng câu đó không đúng đắn, vì ngay khi tôi thốt ra, hai gã bảo vệ Khỉ đột tóm lấy tôi, lôi ra ngoài. Họ đưa tôi tới thang máy. Ngay khi cửa sắp đóng lại, gã Át đưa tay ra, dừng cửa lại. Cửa mở ra lần nữa, gã tự mãn nhỏ thó đó lại hiện ra, khoanh hai tay trước ngực. “Ồ, và nhân tiện…”, gã nói. “Ngài Schultz có phòng vệ sinh riêng, nên ngay cả khi ngài ấy có ở văn phòng… cậu cũng chẳng bao giờ thực hiện được cuộc hội nghị trong toilet đâu.” Rồi gã xoay người bước đi. Ngay trước khi cửa đóng lại, tôi nghe gã nói “Giờ thì ai khốn nạn đây nhỉ?”.
Gã đã thắng. Gã chết tiệt nhỏ thó đó đã thắng. Khi tới hành lang, tôi thấy Heaven và Strummer ngay phía ngoài, đang chờ tôi. Tôi bước ra. Vẻ mặt của tôi – cùng hai gã bảo vệ hai bên – khiến Heaven nhận ra ngay rằng mọi thứ không diễn ra như dự kiến.
“Ít nhất thì cậu thấy được ông ấy chứ?”, cô nàng hỏi. “Không.”
“Cậu có gặp được ai không?” “Có, gã tiếp tân. Và, tất nhiên, đám canh gác cà phê”, tôi ra hiệu về phía hai gã vừa ném tôi về phía Heaven.
“Cậu ở trong đó lâu kinh khủng”, cô nàng nói. “Tôi không muốn nói về chuyện đó.”
“Được thôi.” “Cô thì sao? Hy vọng cô có trải nghiệm tốt hơn tôi.”
Cô nàng khoanh tay trước ngực. “Chà, tôi có một trải nghiệm thú vị. Liên quan đến giáo dục…” “Nói đi…”
“Tôi học được là nước đái mèo phát sáng trong bóng tối. Cậu có biết việc đó không?” “Không, tôi không biết.”
“Chà, tôi cũng vậy”, cô nàng nói. Tôi không biết cô nàng lôi ở đâu ra mấy chuyện này. Đầu óc cô nàng, giống như một cái hầm bí mật mà một ngày nào đó, khoa học sẽ phát hiện ra hoặc chẳng bao giờ tìm thấy. Tôi nghĩ thế càng hay. Giống như khi tôi rất thích một ban nhạc, nhưng chẳng ai biết đến họ. Tôi muốn những người tôi thích được nghe họ, nhưng khi cả thế giới đều nhào vào cuộc chơi, thì tôi rất bực. Vì tôi tìm thấy ban nhạc trước tiên mà. Tất nhiên trừ phi đó là một trong các ban nhạc của tôi… khi đó cả thế giới cứ thoải mái mà nhảy vào. Ngoại trừ Heaven… tôi mong là không có một ai khác nhảy vào chộp cô nàng.
Anh Chàng Ngu Ngơ Và Cô Nàng Rắc Rối Anh Chàng Ngu Ngơ Và Cô Nàng Rắc Rối - Caprice Crain Anh Chàng Ngu Ngơ Và Cô Nàng Rắc Rối