There is a temperate zone in the mind, between luxurious indolence and exacting work; and it is to this region, just between laziness and labor, that summer reading belongs.

Henry Ward Beecher

 
 
 
 
 
Tác giả: Dang Chi Binh
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 214
Phí download: 13 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4611 / 119
Cập nhật: 2023-03-29 02:21:49 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 178: Đất Nước Vạn Dừa
ột buổi, như mọi khi tôi và Thiện ra mãi vùmg xa, cách nhà đến một cây số. Một ven biển dài khi thủy triều xuống, lè ra bao nhiêu bãi đất cát. Chăm chú, tôi chợt nhìn thấy như con ruồi trâu, nhúc nhích trên cát và đất. Tôi vẫy tay cho Thiện cùng ngồi xuống, yên lặng. Rõ ràng con ruồi nhồ lên, rồi lại chui xuống cát, tôi từ từ tiến đến, và bà con ơi! Là hai cái mắt của một con cua bể kềnh.
Chúng tôi chỉ cần ngồi im, quan sát, sẽ thấy những cái mắt cứ thò lên nhìn, rồi lại cụp xuống. Tôi chỉ việc lẹ làng bới cát, là một chú cua nằm đấy, căng phồng, vàng óng như lụa Hà Đông. Tôi suy đoán, những con cua này, vừa khôn lại vừa lười, nước triều xuống, việc gì phải chạy theo nước, rồi lại phải trở lại theo nước?
Tại sao, chỉ cần bới cát rồi đằm mình xuống đấy, vừa được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng mơ màng, chỉ một lúc là nước lại lên như cũ, bấy giờ chỉ cần lách ra kiếm ăn như thường. Như thế, cái tốt, cái lợi chẳng phải lúc nào cũng dành cho cua khôn, cua lười!
Một việc chiều hôm qua, vẫn còn vấn vít hồn tôi cho đến bây giờ. Tôi ngồi ngoài một cái chái hồi phía sau cửa nhà bếp, tay mân mê xoa nắn ngón tay, vì hôm qua một con cua kẹp khá lâu hãy còn sưng tím. Cô Hoài, cô Hằng cùng với một cậu bé chừng 10,11 tuổi mặc quần đùi, ngập ngừng đến trước mặt. Cô Hằng giơ ra hai cái túi con, mầu lá mạ xinh xinh, mặt cô hồng lên như mới tăng thêm máu, giọng rụt rè:
- Chú … mang thử… có vừa không?
Bàng hoàng, tôi lúng túng ra mặt, mãi tôi quýnh quáng chưa xỏ buộc được. Cô Hằng đã ngồi xuống xỏ vào tay tôi. Nhìn đôi bàn tay “ngó cần”, mó máy, ngọ nguậy trước mặt, hồn tôi cứ thập thò định lỉnh ra ngoài.
Chẳng muốn, nhưng hình như, tôi cũng bị bơm máu lên, mặt tôi nóng bừng bừng. Cô đã thấy tay tôi run run, nên cô nhìn thẳng vào mắt tôi như đóng đinh, tay cô bóp nhẹ ngón tay trỏ của tôi. Tôi ngửng nhìn, hãy còn những hạt phấn vàng óng ánh vương vãi phía đuôi con mắt của cô.
Tôi không tìm được một lời nào để nói, nên tôi càng như đang bay trong mây, để rồi cả ba người đã kéo nhau đi, mà tôi vẫn ngồi yên. Tôi chợt, định với theo để cảm ơn, nhưng họ đã vào trong nhà rồi. Trở lại chỗ ngồi, khe khẽ, nhè nhẹ, tôi tụt hai cái túi ra gấp lại.
Hai cái túi như được hấp, được giầm trong làn hơi đặc quánh của búp sen 17, nó còn ngạt ngào, quyện quấn chung quanh. Tôi cứ ngồi bần thần để nghe tiếng đời xua động, và tiếng kẽo kẹt, của võng lòng đu đưa, thì em Hoa lù lù, một tay bế con gái Mai Lynh, một tay dắt mẹ tôi, tiến đến.
Như vỡ toang một giấc mộng ngày, tôi đứng lên, chậm chạp đi vào nhà, để rủ cậu Thiện đi làm nhiệm vụ cho cả thuyền.
Tôi với cậu Thiện vừa ra đến mom đảo, nghe nhiều tiếng kêu quen thuộc khu… oách, khu… oách. Một đàn hải âu, cánh vàng ửng dưới ánh chiều đại dương, chúng chao đảo, ngang dọc trên cái nền xanh “ái ân” của bầu trời. Cảm thấy khác thường với mọi khi, tôi ngửng lên cố tìm người bạn quen thuộc ngày ấy, nhưng đành chịu, con nào cũng như con nào. Một thoáng vấn vương trong lòng: Đã hơn một tháng rồi, chẳng biết con chim “tị nạn” bây giờ ở đâu? Nó có bạn mới chưa? Cuộc sống đã ổn định và gặp may mắn không? Tôi cứ đi trong huyễn tưởng, bất chợt giọng cậu Thiện đã giật tôi trở về:
- Anh Bình! Con chim của anh kìa?
Tay cậu đang chỉ về phía sát mí nước, sáu con hải âu, đang đứng như xếp hàng nhìn về phía chúng tôi, rõ ràng có con ” tị nạn ” thật! Làm sao tôi quên được vệt cháy xạm đen, trên cánh của nó.
Tôi đã bỏ cậu Thiện, để tiến đến đàn chim. Chúng nó như không biết sợ người, tôi ngồi hẳn xuống, năm con hơi giãn ra, nhưng con ” tị nạn ” vẫn đứng yên ngắc ngư cái mỏ, nhìn tôi. Không kìm được lòng, tôi ôm lấy con chim, nó mập và lông óng hẳn ra, đôi mắt mầu vàng bây giờ như có viền một chút mầu xanh tương lai.
Hai tay tôi ôm, ủ con “tị nạn” vào lòng, tôi đưa hẳn nó lên gần mắt, để nhìn cho rõ cái mặt và cái mắt đầy thoải mái, nhàn du, nhởn nhơ của nó. Tôi lại muốn hỏi nó:
- Mày là con trai hay con gái!
- Mày đã có bồ chưa?
Cũng như lần đầu gặp nó, tôi đành chịu và tự suy đoán. Điều chắc chắn tôi nhận thấy, là bây giờ nó đẹp và tươi hơn khi cứu nó trên ngọn cây cột buồm, trong một trận giận khùng của biển khơi. Tôi tự hiểu mỗi người, kể cả chim đều phải có trách nhiệm với cuộc sống của mình. Tôi phải đi với cậu Thiện để lo cho thuyền, và hẳn con tị nạn cũng phải giải quyết thích ứng với bạn bè của nó. Tôi mừng vui vì con chim có cuộc sống như ngày nay, có một phần nhỏ, góp công sức của mình.
Tôi đã đưa con chim lại chỗ đàn chim, để xuống bãi cát, tôi trở lại kéo tay Thiện xuống một cái hẻm, có nhiều hang cua. Trên trời vẫn những tiếng khu… oách…, khu… oách… níu chặt vào gió mặn, của đại dương.
Thật là hưng phấn cho cả con thuyền, tin của chúa đảo cho hay:
“Cao Ủy tị nạn sẵn sàng đón nhận đồng bào đến Kuku, nhưng Cao Ủy không có phương tiện đón. Do đó trong thuyền tự đóng góp sao có 160. 000 Rupias, tương đương với 200 dollars giai đoạn ấy”.
Do tinh thần đùm bọc truyền thống của dân tộc, người có hoàn cảnh, người không. Người nhiều, người ít đều đóng góp, đã đủ số ngân khoản, mà chúa đảo yêu cầu.
Trong những ngày chờ đợi thuê tàu, cậu Sinh, một cậu chừng 24- 25 tuổi ở ngay vùng Chu Hải. Cậu cũng từng vật lộn nhiều với núi đồi, biển cả của Vũng Tàu, hôm nay cậu trổ tài leo lên một cây dừa cao ngất, hái về hàng mấy chùm dừa tươi. Tôi chợt nhớ đến anh Nguyễn Văn.. đã nằm lại đảo vì trèo dừa. Tôi đi theo sát cậu Sinh, để lượng định những điều có thể.
Cũng thật là thiên phú, đôi chân của cậu như một con vượn, thoăn thoắt leo tít lên mãi trên mây, cả tàu không ai làm được, mà ngay người Indo cũng lắc đầu, mở to mắt mà nhìn. Thành ra gần ngày đi, thức ăn đã có dừa kho, dừa ăn vã. Cái điều tôi băn khoăn là, tại sao từ hàng tháng trước, thức ăn chỉ có muối, Sinh không đi hái dừa cho bà con? Một hôm, tôi lựa lời hỏi thẳng, thì Sinh đã cười như ngỗng đòi ăn:
- Cua biển ăn mới ngon, dừa chỉ chống đói! Vả lại khi ấy, em hay bị đau bụng!
8:00 giờ sáng mai, 21-01-1983 tất cả thuyền sẽ ra tàu về đảo Kuku, một điểm đón nhận người tị nạn của những năm đó. Mới 6 giờ tôi đã dậy, ra ngoài làm vài động tác hít thở, tôi vẫn duy trì từ ngày còn ở trong tù. Nhìn những miếng giấy vụn, manh chiếu rách, miếng giẻ đã hết thời, vất, ném đây đó. Tôi vào gặp bác Bang, anh Nghĩa và cả Phạm Lộc, tôi đề nghị:
- Để thể hiện lòng tự trọng dân tộc, chúng ta hãy hô hào bà con mỗi người một tay hãy dọn sạch sẽ khu vực chúng ta đã ăn ở hơn một tháng nay. Nếu không làm được sạch, đẹp, gọn ghẽ hơn, thì phải làm như khi chúng ta mới đến căn nhà này.
Bác Bang và tất cả đều đồng ý, bác hô hào bà con, và chính bác cũng đi nhặt từng cọng rác. Chỉ một giờ sau, căn nhà sàn rộng nhớp nhúa, bừa bộn đã sạch sẽ gọn gàng. Dù người khó tính nhất, cũng phải nở nụ cười.
Mọi người đã ôm đồm, bế bồng con cái ra xếp hàng dài phía trước cửa. Anh Nghĩa, chị Châu và Phạm Lộc dẫn đầu ra, về phía cầu tàu Trong lúc tôi đang lúi húi vơ vài chiếc quần áo cũ và mấy thứ lặt vặt, cho vào chiếc tay nải đã rách, thủng vài lỗ, cô Hằng lẹ đặt một cái túi xách bằng nhựa mầu xương rồng, trước mặt tôi. Mắt cô nhìn tôi như muốn “photocopy”, miệng ngập ngừng, khe khẽ:
- Chú… dùng đi!
Nói rồi, cô vội vàng lách vào trong góc nhà, tôi cũng chẳng cảm ơn được, như khi cô đưa hai chiếc túi tay. Không nói được lời nào nên đã gói lại, dồn sâu vào mãi trong cùng, chỗ trân quý nhất của tôi.
Chiếc tàu nhỏ mầu cánh cam đang nhấp nhô, thở khò khè ngoài bến bãi. Từ xa, tôi đã nhìn thấy ông chủ đảo và mấy người lính bên cạnh chiếc tàu. Phải nói là canot thì đúng hơn, nó chỉ nhỉnh hơn chiếc thuyền buồm của chúng tôi một ít.
Một đám người dân Indo quanh vùng, cả mấy đứa nhỏ, cũng ra tiễn hay tò mò, nhìn đám người bất hạnh, đã đánh mất quê hương? Ông chủ đảo đã vồn vã bắt tay từng người, cả những đứa nhỏ tí còn bế trên tay. Chúng tôi xin cảm tạ những người dân Indo anh em, các người đã dậy cho chúng tôi thế nào là tình nhân loại. Con tàu đã rời bến, nhìn về hòn đảo Natuna hiền hòa, như một dấu ấn khắc ghi, vào tâm hồn một đời, cho những ai lỡ đường ghé đến.
Hàng chục con hải âu trắng toát, vùng vẫy trong gió lộng, với những tiếng khu … oách, khu … oách, khu… oách, quyện vào tiếng sóng gào. Tôi cố dõi mắt nhìn từng con như muốn tìm, như băn khoăn thấp thỏm, vương vấn hồn vào đám mây trời trên cao. Mọi người đã xuống hết dưới khoang tàu, tôi vẫn còn ngồi phía sau chòi hoa tiêu, rõi nhìn hòn đảo Natuna mờ dần.
Tàu rời bến chừng mươi phút, rõ ràng, lẫn vào lớp sóng bạc đầu có hai chấm vàng sậm, rõ dần là hai con Hải Âu. Tôi đến ngỡ ngàng, mỗi con sà đến đậu vào một bên vai của tôi, cánh nó khỏa đập cả vào tai, vào đầu tôi. Ối giời ơi! Con ”tị nạn” chiếc cánh bị cháy xém đã mờ, nó vừa thở vừa nhìn tôi, cái mỏ cứ cắp vào tai tôi như trách… Sao đi mà không cho nó biết! Hay như xin lỗi… nó đến chậm? Tôi tự suy đoán. Còn con kia, đôi mắt hiền như bồ câu, hay sáo đá, có vẻ e ấp như một cô gái, lông má đã nhú dài.
Như vậy, đã cho tôi hiểu con chim ”tị nạn” là một anh chàng. Vậy cái con ở lại Chu Hải Việt Nam là bồ hay là vợ? Tại sao không cùng đi oversea với chồng? Do con ”tị nạn” đẩy lại, phải về nhà với con, hay cô ả ”nhát” ở lại, hoặc lưỡng lự hai lòng?
Con ”tị nạn cắn mạnh vào tai tôi, rồi bay lên cùng với con kia. Hai con lượn một vòng quanh chiếc tàu, rồi sải cánh chui vào mây trời với những tiếng khu… oách, khu… oách rớt lại.
Thoáng một bóng người, trong phòng hoa tiêu lách ra, cao lớn mầu da bánh mật, chừng 4 chục. Y nói líu ríu cái gì nghe như: Khoét … loét … choét… Tôi chẳng hiểu gì cả. Chắc ông ta đã thấy nét mặt của tôi… nên ông ta cũng là con cóc cố kêu được mấy tiếng: I am… very…surprised! Với đôi mất mở to nhiều lòng trắng. Tôi giơ tay ” shake hand ” rồi lí nhí kêu: Thank…You! Tôi mỉm cười với ông ta. Vội vàng tôi cũng mò xuống dưới khoang.
Chừng 4 giờ sau, tàu ghé bến Kuku. Nhìn ngay bến tàu, vóc dáng nhà cửa, tôi đã hiểu Kuku là một hòn đảo lớn hơn nhiều lần Natuna, thậm chí còn thấy xe đạp, mô tô chạy qua lại. Một số người lố nhố ở cửa bến tàu, lẫn mũ Kê-pi mầu đen trắng, với mũ mầu chiến trường.
Chúng tôi phải đi lên đảo hàng một, để họ điểm người.
Cũng chị Châu, anh Nghĩa và Phạm Lộc dẫn đầu để giao tế. Đoàn người rẽ phía phải vào một căn nhà, mọi người lần lượt đến một bàn giấy có 3 người Indo để khai tên tuổi.
Tôi nhìn hai bên cửa, có hai tấm bảng to phủ lưới thép, trong bảng có nhiều loại giấy tờ:
- Giấy chứng minh nhân dân.
- Giấy khai sinh.
- Giấy bệnh viện chợ Rẫy.
- Giấy thông hành.
- Giấy có những tấm hình v.v...
Trên bảng có ghi chữ to, bằng phấn trắng:
”Nếu ai biết những người có giấy tờ này, hãy báo tin cho gia đình, họ đã chết ở biển Indo “
Tôi đọc thoáng có những cô gái 20 tuổi ở đường Cô Giang Sài Gòn, một ông 40 tuổi ở Bến Tre, một bà 35 tuổi ở đường Lê Văn Duyệt Cầu Bông. Nhìn đọc những giấy tờ, lòng tôi trĩu nặng đầy vơi về kiếp người, về nỗi ai oán thương đau của dân tộc. Gia đình thân nhân có biết rằng những người này, chạy trốn cái vòi hút máu của con Hồng Tuộc, đi tìm tự do, nhưng đã không may chìm vào lòng biển cả, trong những trận bão hay cướp biển hãi hùng?
Đàn ông con trai vào một buồng, đàn bà con gái vào một buồng, được lệnh phải cởi hết quần áo, xếp hàng lần lượt đi qua một bàn giấy.
Phía đàn ông chúng tôi, có người ngượng ngùng chưa cởi những quần si- líp. Nhưng rồi mọi người đều phải cởi hết, có một tên Indo mặc áo blouse trắng, bắt chổng mông, nắn chim khám xét Tôi không biết phía bên phụ nữ đàn ông hay đàn bà khám?
Thôi thì những người mất quê hương, phải gánh chịu những niềm tủi nhục này, mỗi người mặc lại áo quần. Sau đấy tất cả được dồn vào một buồng rộng, lần lượt đến một bàn giấy rộng, có mấy người mũi lõ, mắt xanh để khai báo lý lịch, thân thế với đại diện Cao Ủy Tị Nạn.
Tôi nhớ đến lượt tôi, khi họ hỏi anh bị đi cải tạo mấy năm? Tôi nói bị tù 18 năm, cái ông Cao Ủy quắc mắt hỏi lại:
- Tại sao lại là “eight”?
Theo họ, người tù nhiều nhất khi đó cũng chỉ 7 năm, từ 1975-1982, tại sao tôi lại 8? Tôi đã trả lời:
- Không phải eight mà là eighteen!
Cả ba, bốn người đều mở to mắt, kể cả chị Châu ngồi đấy thông dịch cũng ngạc nhiên, để rồi tôi thành cái tên “ông tù 18 năm” độc nhất thời gian ấy, ở Indo.
Xong hết, chúng tôi được dẫn đến một khu có hàng rào thép gai, cách đấy 300 mét, trong này có hai căn nhà gỗ lợp tôn to, họ gọi là barrack. Trong barrack có những sàn gỗ, một vài vết tích, tôi đã hiểu trước đây có những đợt người vượt biên ở rồi. Đặc biệt bên cạnh có một nhà thờ con nho nhỏ, bụi bám đã lâu ngày.
Tôi và cậu Thiện đã kiếm được cái chổi cùn, quét dọn sơ sơ, cậu cũng theo đạo Thiên Chúa, nên chúng tôi đã quỳ gối cảm tạ Chúa, chúng tôi đã đến nơi này an toàn. Không ngờ, cũng có nhiều người khác trong tàu, vào quỳ dưới cây thánh giá, cả gia đình bác Bang, cậu Sinh, một số ông già, bà cả. Tôi rủ cậu Thiện ra ngoài lang thang đến một hẻm đồi, có cây thánh giá to, nơi đây có 7 ngôi mộ cỏ dại, lá khô đã phủ dầy. Hai cây thánh giá con thứt thẹo, ghi tên người Việt. Như vậy hẳn đây là những người bất hạnh, nhưng vẫn còn một chút thỏa lòng, được gửi xác trên mảnh đất tự do, ngoài nanh vuốt của con Hồng Tuộc.
Tôi và cậu Thiện đã cúi đầu, như chào, ngậm ngùi cảm thông với các vị nằm trong mộ. Thoáng có bóng người, làm cho tôi đến đờ đẫn bàng hoàng. Cô Hằng và cậu bé, cô thường dắt theo. Nét mặt hiền dịu “con Đức Mẹ” lấp loáng trong làn tóc huyền giẫy giọn, với gió chiều Kuku, đã làm cho nơi vắng lặng khô cằn, đìu hiu này, như nở một nụ cười rạng rỡ hẳn ra. Tôi đã đến bên xoa đầu em nhỏ, nói nhè nhẹ, như hỏi:
- Cô Hằng … cũng là công giáo?
Mặt cô lại tăng máu, cứ au lên, lí nhí:
-.. Cháu ….. không phải!
Ý tôi định cảm ơn cô, đã cho tôi túi xách và đôi túi tay, nhưng lại nói ra ý khác:
- Cảm ơn…Hằng ….đã đến thăm viếng… những người bất hạnh!
Môi cô như mím lại, dẹp ra, mắt hơi cau lại nhìn tôi, như muốn “ăn”, làm cho hai tay tôi như quờ quạng giơ lên, đẩy ra. Tôi đã kéo tay cậu Thiện lủi vội ra về. Cô Hằng và cậu nhỏ cũng theo ra. Có lẽ cô chẳng yên lòng đứng lại nơi cô tịch, với những người đã nằm yên?
Ngay chiều tối hôm ấy, dưới ánh trăng 18 của Kuku, tôi kéo vợ chồng Phạm Lộc ra chiếc cầu gỗ phía sau barrack. Ngồi nhìn chị Hằng Nga nhấp nháy, trong nước triều dâng mấp mé, tôi đã trang trọng nói với, cả hai vợ chồng Lộc:
- Dưới mặt trăng và trên chị Hằng (một chị Hằng dưới nước), tôi xin cúi đầu biết ơn Lộc + Liên, lời của một người tự trọng hàm ơn. Khi đến nước thứ ba, tôi sẽ nỗ lực với trí óc và đôi bàn tay, bằng mọi cách tôi sẽ thanh toán 3 cây vàng ân tình, ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống.
Cả hai vợ chồng đều cười rộ:
- Chúng em đã đòi đâu? Còn 6, 7 người nữa ở trong thuyền, nhưng anh là người nói đầu tiên, chúng em vui lòng rồi?
Khoảng 5 ngày sau, một đêm tôi đang mê mệt trong giấc ngủ nhiều mầu xanh dương, tôi giật mình thức giấc. Tiếng gào, tiếng rú của gió Kuku, xa xa nghe tiếng biển, sôi lên ùng ục. Gió réo vào mái, vào vách, mưa như đổ nước, căn barrack rung lên như động đất. Chiếc thuyền 61 người tối hôm qua ghé đến Kuku, đang ở banack bên cạnh. Mấy ông bà chạy túa ra cửa nhìn nhớn nhác.
Barrack bên này cũng nhốn nháo dậy cả, dưới ngọn đèn 100 watts của cả khu, hai bên nhìn nhau bằng những đôi mắt chẳng có lòng đen. Chẳng ai nói một lời, nhưng hẳn tự thầm suýt soa nổi da gà: ” Nếu thuyền mình còn ở ngoài khơi, chắc chẳng còn nhìn nhau bằng những đôi mắt thất thần?”. Gió hung hãn xoáy rồn rột như cây đổ, đá rơi.
Sáng sớm hôm sau, tin tức còn tối đất, do phòng kiểm thính Kuku, có một chiếc tàu chở 106 người đã chìm xuống đáy biển bên phải đảo Binkulu, cách Kuku 16 hải lý.
Xin cảm ơn những tâm hồn “đứng thẳng” của các vị Cao Ủy ở Indo. Mới tờ mờ sáng, một chiếc tàu của Cao Ủy với dáng dấp của mấy vị đã xét hỏi tôi mấy ngày trước, họ đã rẽ sóng tiến về Binkulu, may ra còn cứu vớt được người nào. Cả hai con thuyền 53 người và 61 người đều ra mé biển, ngóng về hướng con tàu đắm, cầu xin trời Phật hãy cứu giúp những kẻ khốn cùng.
Mãi gần buổi chiều, con tàu Cao Ủy mới trở lại, tôi làm sao quên được cái hình ảnh một đời. Cái ông Cao Ủy bụng to, bước lên bờ đầu tiên, tên ông là Bob người Canada, người đã đếm đốt ngón tay cười với tôi, khi biết tôi tù 18 năm: ” Như thế cả tuổi trẻ của anh trong nhà tù? “.
Ông Bob hai tay cầm hai cái que gỗ dài, mỗi que xọc đeo hơn chục chiếc dép, guốc xanh đỏ, cả dép Thái Lan. Theo ông, tàu Cao Ủy đã cố công tìm kiếm phía sau đảo san hô Binkulu. Chỉ có hơn một chục xác chết đàn ông, đàn bà, con gái trẻ con dạt vào bãi, vài chục chiếc dép guốc rải rác đó đây, còn tất cả, cả con tàu đều biến mất, chỉ còn nước với trời.
Điều đặc biệt, tàu đã kiếm được một người duy nhất còn sống, anh ta nằm rúc đầu vào một tảng san hô. Khi lôi ra thì tim anh còn đập, nhưng không hề biết một điều gì, trong giấy tờ tên là Lý Minh, người Việt, gốc Tàu 34 tuổi. Cao Ủy đã đưa trước về phía bên kia Kuku, có bệnh xá.
Do tính sục sạo tò mò, ba ngày sau, tôi đã rủ cậu Thiện đi bộ hơn ba cây số, đến tận bệnh xá, để nhìn cái người duy nhất còn lại, của một chuyến tàu định mệnh 106 người. Sau một lúc tìm tòi thăm hỏi, chúng tôi đã đến chỗ giường nằm của cậu Lý Minh, mặt và mắt của cậu trắng bệch như không còn máu. Có thể quá hãi hùng nổi chìm trong nước, trong những cơn sóng thần sầu, để rồi thần biển đã nhét đầu cậu vào một tảng san hô.
Cả 106 người, chỉ còn một mình cậu sống sót, nhưng hồn vía cũng chẳng còn. Không biết bố mẹ cậu, vợ con cậu, anh chị em của cậu, có cùng đi chuyến tàu xóa sổ này không? Có chăng chỉ xin hỏi ông trời, nỗi uất nghẹn thương đau này vì đâu?
Tôi vừa về tới barrack thì cậu bé đã đến bên, ghé tai:
- Chú ơi! Chị Hằng mời chú, ra phố uống nước!
Ngạc nhiên, đắn đo, nhưng những chuyện khác thường vẫn có sức lôi cuốn lòng tôi, nghĩ thế tôi đã gật đầu với cậu bé. Cậu bé về một lúc, Hằng và cậu bé đi ra phố, tôi để cho Hằng đi một quãng, tôi đi theo.
Cô Hằng như có mắt phía sau, cô đi vòng đến gần một đồn cảnh sát, nơi có một số nhà, mấy cửa hiệu tạp hóa. Đặc biệt chỉ có một tiệm bán đồ giải khát, thấy cô và cậu bé ngồi mãi một cái bàn phía trong, tôi cứ tiến vào. Trước mặt cô và cậu bé, mỗi người có một lon Coca với cái ly, một lon và một ly để đối diện, cô đã giơ tay mời tôi ngồi.
Thực sự, tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy Coca, chứ đừng nói là thưởng thức, tôi cũng nói thực, tôi chưa hề uống cái loại này. Cô vừa mở, vừa rót vào ly cho tôi và cũng chân thành:
- Hằng… cũng mới uống một lần ở …. Sài Gòn!
Hôm nay Hằng lại xưng tên, tôi cũng ngập ngừng nhìn vào đôi mắt nhiều điện từ, hỏi thẳng:
- Làm sao … tôi được ngồi đây … hôm nay?
Hằng nhìn ra một khung trời, ngoài cửa sổ:
- Để mừng … chúng ta còn sống … và cảm tạ đất trời!
Tôi vẫn không rời đôi mắt, nhiều điện thế:
- Rồi sẽ đi ….một con đường thật dài!
Hằng đã biết ý lấp lửng, nên cằm cô hơi ưỡn ra một cái, một tí lưởi đỏ lè ra giữa cặp môi mím, giống hệt một nụ đào đầu xuân bất đầu hé. Tôi quờ quạng, vớ vào ly Coca đưa lên miệng, như muốn đè bớt nguồn rạo rực bốc lên hừng hực. Giữa lúc ấy, vợ chồng Phạm Lộc từ ngoài cửa bước vào. Đôi mắt của Lộc +Liên quắc lên như xì khói, nhìn Hằng và tôi, rồi quay ngoắt ra.
Cậu bé, tôi đã biết tên là Thành, gọi với theo: ”Cô Liên ơi! “
Nhưng hai người như không nghe thấy, đi khuất vào đám đông.
Tôi đang dự định uống hết ly nước, rồi kiếu từ, nhưng thái độ của Lộc + Liên, tôi lại ngồi lại nữa. Nụ đào hơi nhếch lên như cười nhưng rèm mi hơi khép lại, nét mặt rắn cương ra. Hằng quay lại tôi, rành rọt:
- Chú … có thích thiên nhiên?
Câu này đáng lẽ tôi hỏi Hằng, nhưng tôi lại nói một câu không đâu:
- Trăng nước Kuku vừa dữ lại vừa hiền!
Hằng nhìn như muốn vẽ, vào miệng tôi:
- Chú có thể ….nói rõ với Hằng?
Cô này có trình độ, nên tôi cứ thực lòng:
- Tôi ngắm mãi nàng trăng tối hôm qua, nét mặt chất phác hiền hòa, nhưng tôi có một cảm giác không lành. Dù bộ mặt như ”ma soeur” nhưng cứ nghĩ chuyến tàu 106 người, tôi lại thấy nàng trăng Kuku nhiều bí hiểm.
Đã hơn một giờ chuyện trò ngoài quán nước, tôi xin từ giã, vì có hẹn với cậu Thiện. Được biết cô Thu Hằng ở phía bên Tân Thuận, vì trục trặc hơn hai năm, nên bây giờ cô vẫn còn đang học lớp 11. Tôi cũng hơi ngạc nhiên về thái độ của vợ chồng Lộc+ Liên; định hôm nào thuận tiện, tôi sẽ hỏi thẳng.
Giống như tối hôm qua, lại một mình tôi mò ra phía cầu gỗ phía sau barrack, để nhìn nàng trăng lạ Kuku. Để nghe nước biển chuyện trò với gió lộng và để nhìn về phía quê hương, và có lúc lắng đọng để nghe lòng mình nhún nhẩy, đong đưa với cảnh đời mới.
Quê nhà đã vào tháng củ mật nên đêm thật dài, mới hơn 6 giờ chiều chim muông đã sải cánh về tổ ấm, gà qué đã ậm oẹ lên chuồng.
Thép Đen Thép Đen - Dang Chi Binh Thép Đen