Thất bại ư? Tôi chưa bao giờ gặp phải. Với tôi, chúng chỉ là những bước lùi tạm thời.

Dottie Walters

 
 
 
 
 
Tác giả: Dang Chi Binh
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 214
Phí download: 13 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4611 / 119
Cập nhật: 2023-03-29 02:21:49 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 123: Một Chiến Hữu Đồng Nghiệp…”Hang Một Lỗ”
rưa hôm nay, sau một buổi sáng lao động mệt mỏi, hầu hết anh em tù, ai cũng tranh thủ nằm chợp mắt mươi mười lăm phút cho lại sức, để tiếp tục đi lao động buổi chiều.
Nằm trằn trọc mãi với bao nhiêu nỗi niềm ngang, dọc của cuộc đời, tôi bò dậy xếp gọn chỗ nằm. Như mọi khi, lững thững ra phía cuối hội trường, tôi ngồi trầm ngâm cho hồn lãng đãng, tai buông lơi nghe gió chiều xào xạc trong bụi nứa. Tiếng âm a của bài tập đọc về anh hùng La Văn Cầu của lớp bổ túc văn hóa buổi trưa ở trong hội trường làm tôi chú ý, quay lại.
Hơn mười người, hầu hết là dân tộc thiểu số, trong đó chỉ có 2 – 3 người kinh; đặc biệt nhất là anh Lê Văn Bưởi. Câu chuyện anh Bưởi lẽo đẽo theo học lớp bổ túc văn hóa lớp hai của trại, hơn hai tháng nay đã làm cho một số anh em trong trại bàn tán. Bởi vì học lớp hai bổ túc văn hóa là tập đọc tiếng Việt và tập làm tính trừ, tính cộng. Người ta bàn tán chỉ vì có nhiều mâu thuẫn, đển trở thành như lập dị. Theo như bản lý lịch mà tù nhân nào cũng phải tự viết, khai trong bản kiểm điểm của hàng quý và hàng năm thì lý lịch của anh Lê Văn Bưởi như sau: sinh ngày 10 – 2 – 1931 tại thị xã tỉnh Quảng Yên. Cấp bực đại úy của Việt Nam Cộng Hòa. Can tội vượt tuyến ra Bắc để hoạt động gián điệp. Án phạt 20 năm. Vậy mà mỗi buổi trưa, lại cắp vở theo những người dân tộc đi học lớp 2 bổ túc văn hóa.
Như tôi đã nói đến ở trên, ngay từ khi anh Lê Văn Bưởi được chuyển từ trại Vịnh Tiến về trại này. Khi được biết anh cũng cũng một cái “nghiệp hang một lỗ” như tôi, tôi đã lựa thế làm loãng phần nào sự chú ý của những tên Joóc, rồi sau đó đã liên tục tiếp xúc với anh. Đến bây giờ hơn 7 – 8 tháng rồi, anh và tôi đã trở thành đôi bạn. Nhất là từ gần một tháng nay, tôi làm tổ trưởng tổ học nghề mộc, tổ gồm 6 người, trong đó lại có anh.
Cái việc anh đi học bổ túc văn hóa, do chủ trương và quyền tự do của anh, tôi không có ý kiến. Nhưng theo quan điểm của tôi, làm việc gì cũng cần phải biết mình và biết người. Anh đi học như vậy nó trở thành một trò cười, mà người khác, nhất là đối phương đã nhìn thấy cái hời hợt, ngây thơ của anh; hoặc gây sự chú ý cho họ. Dù tôi nghĩ như vậy nhưng tôi cũng cứ để cho thời gian làm sáng tỏ. Tôi chưa kết luận, vì biết đâu đây chẳng là một ý đồ để kẻ thù đánh giá anh non nớt, hời hợt, một chiến thuật cao tay hơn. Chính Hoàng Thanh đã có lần y đặt vấn đề hỏi tôi:
- Này, theo cái nhìn của anh thế nào? Chả lẽ anh Bưởi lại là một đại úy tình báo của miền Nam?
Y vừa cười vừa hỏi tôi với một ánh mắt dò xét thái độ trả lời của tôi. Tôi cũng nói thực ý nghĩ của tôi là tôi cũng không hiểu thế nào, tuy trong lòng tôi có phần ngạc nhiên. Ngay tình tiết sự việc của anh ra ngoài miền Bắc cũng đầy rẫy những khoảng mù mịt như những lời anh đã tâm sự với tôi. Đã bao nhiêu lần anh với tôi trao đổi tâm tình qua những sự việc của anh ra ngoài Bắc và cả của đời anh nữa. Sơ lược như thế này:
Quê anh ở Quảng Yên, cái vùng có thật nhiều biển và cũng thật nhiều núi. Ngày từ lúc anh 19 tuổi, sau khi đã tốt nghiệp bằng Thành Chung, anh đã tình nguyện gia nhập quân đội Pháp kể từ ngày 01 – 01 – 1950, tại phòng hai tiểu khu Quảng Yên.
Năm 1953 anh tốt nghiệp chuẩn úy tại trung tâm huấn luyện Quảng Yên. Rồi giữa năm 1954, anh được chính thức đeo lon thiếu úy. Cùng năm đó, anh được thiếu tướng Congie tặng thưởng một huy chương Lá Liễu và hứa sẽ đưa anh về Pháp trau dồi thêm nghiệp vụ. Nhưng rồi tình hình dồn dập biến chuyển nên lời hứa đó đã không thực hiện được. Trong suốt thời gian anh phục vụ ở F2 (tôi không hỏi F2 là gì) anh đã được cấp trên tặng thưởng thêm 2 huy chương Lá Liễu nữa và 4 ngôi sao các loại cùng nhiều bằng khen.
Sau hiệp định Genève 1954 về Đông Dương, đơn vị và cơ sở của anh rút vào bên trong vĩ tuyến 17. Đất nước lúc này đang chuyển vần, nghiêng ngả từng ngày. Sau một số ngày đêm đấu tranh suy nghĩ, cuối cùng anh quyết định gia nhập quân đội Quốc Gia tại thị xã Quảng Trị. Do những quá trình chuyên môn nghiệp vụ của anh, anh được vào Sài Gòn dự một lớp tu nghiệp đặc biệt. Sau đấy trở lại làm việc tại phòng tình báo của ông Ngô Đình Cẩn trong thành phố Huế đặc trách khu vực giới tuyến 17.
Giai đoạn này anh thường xuyên chuyên trách nghiên cứu những tài liệu và tin tức tình báo giữa miền Nam và miền Bắc. Dần dà do những yêu cầu của tình hình thực tế anh đã tình nguyện ra Bắc để nghiên cứu tại chỗ, cũng như tạo lập những màng lưới hoạt động bí mật ngay trong lòng địch. Phòng tình báo miền Trung và anh đã miệt mài nghiên cứu một kế hoạch tỉ mỉ, một công tác dài hạn trong đất kẻ thù. Theo anh nói: anh có một người mẹ với một đứa con gái hiện còn đang ở vùng quê hương Quảng Yên của anh. Do tình hình và điều kiện ngặt nghèo của 1954, anh đã không thể đón mẹ và con gái anh cùng vào Nam. Con gái anh đã sống với bà nội ở một làng quê mà Việt Minh đã kiểm soát.
Chính vì vậy, trong kế hoạch anh ra miền Bắc, anh đóng vai là một trung sĩ cảnh sát, nhớ mẹ già, thương con gái, đồng thời chán chường chế độ độc tài, gia đình trị họ Ngô, anh muốn về với người mẹ và đứa con gái ở miền Bắc.
Mỗi tuần 2 ngày, anh phải ra đứng gác ở cầu Hiền Lương trên bờ sông Bến Hải theo những tiến trình của công tác đã vạch ra cho từng khâu. Những người cảnh sát phía bờ Nam và những tên công an phía bờ Bắc cùng gác trên cầu Hiền Lương; do nhiều lần thấy nhau nên quen mặt. Bởi vậy đôi khi cũng chuyện trò dăm ba câu về trời mưa, trời nắng.
Những tên công an bờ Bắc thỉnh thoảng mồi chài, lôi kéo, rủ rê những anh cảnh sát bờ Nam ra miền Bắc, về với nhân dân, về với cách mạng. Anh Bưởi đã lợi dụng hình thái này, nghĩa là anh cũng đã để cho những tên công an bờ Bắc rủ rê nhiều lần. Và lần đó, ngày 6/6/1962, anh đã ôm một bọc quần áo chạy bừa sang phía bên kia cầu bờ Bắc theo đúng những lời chỉ bảo của một tên công an.
Anh được dân chúng và cán bộ nồng nhiệt đón anh đưa về huyện Vĩnh Linh. Sau mấy ngày tiệc tùng, chào mừng; hàng ngày anh phải đến một bàn giấy để khai báo chi tiết, tỉ mỉ về thân thế, gia đình trong Nam cũng như ở ngoài miền Bắc. Từ ngày vào Nam, làm gì, ở đâu, từng thời gian. Hết hỏi han, khai báo rồi chúng đưa giấy bút, bắt anh phải tự viết tường thuật lại từ khi mới lớn lên ở miền Bắc cho đến vào miền Nam.
Cứ viết một thời gian, lại hỏi, rồi lại viết. Hơn một năm trời với bao nhiêu hình thức thủ đoạn mua chuộc, khích lệ, hứa hẹn và đe dọa. Thỉnh thoảng, chúng cho đi tham quan những cơ sở này, xí nghiệp kia rồi lại về truy tìm, hỏi han. Sinh hoạt ăn, ở của anh bị chúng nó quản lý chặt chẽ. Bao nhiêu lần anh xin về quê ở Quảng Yên để thăm mẹ già và con gái nhưng chúng đều hứa hẹn, anh phải thành khẩn khai báo tốt thì chúng mới cho về. Hơn nữa chúng nhấn mạnh, chúng đã biết hết về âm mưu ý đồ của anh ra miền Bắc. Chúng đã có tài liệu đầy đủ, chỉ vì chúng có rất nhiều người nằm ngay trong cơ quan tình báo của Ngô Đình Cẩn v.v…
Đến đây, anh Bưởi không nói rõ, nhưng qua tình tiết diễn tiến, tôi suy đoán, có thể anh đã khai báo phần nào sự thật (cộng sản đã hiểu chế độ của chúng chỉ có đói khổ, nên chúng không bao giờ tin những lý do vớ vẫn như vậy mà người ta lại bỏ một chỗ ấm, no để vào một chỗ đói khổ), nghĩa là sanh ra miền Bắc là vấn đề hoạt động tình báo. Cho nên chúng đã kéo dài thời gian đến 16 tháng để tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu về anh. Cuối cùng, chúng thả anh ra, cho anh đi tự do về quê. Nhưng khi anh mới đi đến Quảng Bình, chúng đã đem xe theo đón bắt anh với lệnh của bộ công an vào ngày 23 – 10 – 1963. Chúng đem anh trở lại Vĩnh Linh tiếp tục khai thác. Sau một thời gian, chúng đưa anh ra trước tòa án nhân dân khu vực Vĩnh Linh, xử phạt anh 20 năm, với tội danh: gián điệp xâm nhập miền Bắc để hoạt động chống phá cách mạng.
Anh và tôi càng ngày càng thân nhau, đã kể cho nhau nghe biết bao nhiêu chuyện về gia đình, cuộc đời từ nhỏ cho tôi lúc trưởng thành vào đời. Theo anh nói: gia đình anh cũng là một gia đình thế phiệt, gia giáo, trong miền Nam rất có thần thế. Anh được gặp ông Cẩn, ông Nhu là chuyện thường; chú anh là chuẩn tướng Lê Văn Hưng v.v… Cho nên tuy anh chỉ là một đại úy nhưng anh đã được ông Cẩn tin tưởng, coi như người nhà.
Mới hôm Chủ Nhật vừa qua, buổi chiều, tôi và anh Bưởi rủ nhau ra giếng tắm giặt xong. Về buồng, tôi xuống chỗ anh Bưởi, hai anh em nằm chèo khoeo chuyện trò tâm sự. Sau một vài câu chuyện bình thường như mọi khi, đột nhiên anh quay sang, dịch gần sát lại phía tôi, hạ thấp giọng:
- Tôi coi Bình cũng như anh em, tôi nói cho Bình nghe một chuyện mà tôi đã ôm chặt trong lòng hơn một năm nay. Từ ngày tôi ở trại Vĩnh Tiến đến bây giờ, không một ai trong tù này biết.
Thấy vẻ mặt và giọng nói của anh đầy vẻ thân tình nhưng nghiêm trọng, tôi cũng nghiêng hẳn người lại sốt sắng, chờ lắng nghe. Nội dung: anh nói là anh có công rất lớn với nhà nước, với cách mạng. Anh đang chờ, không những anh sẽ ra khỏi tù mà anh còn phải làm việc nhiều nữa, lúc đó anh sẽ không quên tôi. Anh kể tiếp, khoảng đầu năm 1960. Một buổi chiều muộn trong tư dinh của ông Cẩn. Lẽ ra mọi khi, giờ đó anh đã trở về buồng mình để tắm rửa nghỉ ngơi, nhưng hôm nay vì anh mời uống hai ly rượu mạnh. Vừa mệt, vừa buồn ngủ, anh đã nằm ngay tại một phòng dụng cụ ở chỗ làm việc, rồi ngủ quên luôn. Gần về khuya, giật mình anh tỉnh dậy, nhìn đồng hồ đã 11 giờ 30. Tai anh nghe thoáng có tiếng rì rầm ở phòng bên, nhất là lại có ánh đèn sáng trưng. Tò mò, anh lựa thế nhìn qua một khe cửa sổ thì thấy có 3 người là ông Cẩn, ông Nhu và bác sĩ Trần Kim Tuyến. Ba người đang ngồi châu vào một cái bàn với một chồng sổ sách ở trên bàn. Anh không ngờ ông Nhu và ông Tuyến từ Sài Gòn ra ngay từ chập tối mà anh không biết.
Thấy thái độ bí mật và nghiêm trọng của mỗi người nên anh càng tò mò đứng nhìn và lắng nghe. Ba người đang họp bàn để quyết định những công tác có tính cách chiến lược của một số mạng lưới ở miền Bắc, có liên quan đến phòng nhì của Pháp và CIA, của Mỹ. Anh đã lắng nghe được tên cũng như chức vụ của hơn 10 người từ giám đốc một cơ quan đến những cán bộ trung ương ở miền Bắc. Anh hiểu đây là một bí mật to lớn của đất nước. Anh chỉ hiểu như vậy một mình anh, và chôn chặt trong đáy lòng từ 7 – 8 năm nay. Ngay cả khi ra miền Bắc rồi bị bắt, dù phải trải qua biết bao nhiêu cay đắng, khốn cùng của những năm tháng dài khai thác và tù đầy. Nhưng năm ngoái, một cán bộ cao cấp của bộ công an xuống gặp anh ở trại Vĩnh Tiến. Sau nhiều ngày đêm đấu tranh, giằng co gay gắt trong tư tưởng anh đã muốn lập công với cách mạng nên anh đã khai hết với ông cán bộ đó. Sau đấy, nhiều cán bộ dưới Hà Nội xuống trại tập trung anh liên tục trong gần một tháng trời, trước khi chuyển anh về trại này.
Nghe anh Bưởi thổ lộ đến đây, tôi lướt nhanh suy nghĩ lại toàn bộ sự việc của anh. Nhất là nhìn thái độ của anh nói, mắt anh còn long lanh sáng, mang nhiều hy vọng đợi chờ. Đành rằng những suy nghĩ, nhận định của tôi chỉ là chủ quan nên chưa hẳn đã là đúng.
Anh Bưởi chỉ là một con bài của ông Nhu và Cẩn. Chính ông Nhu và Cẩn đã cố ý tạo nên một buổi họp và cố ý vô tình để cho anh Bưởi biết. Hẳn ông Nhu và ông Cẩn đã nhận định, soi kỹ về con người của anh Bưởi; kể cả về bản tính. Anh không đủ nội lực để đảm trách những công việc tương xứng với chức vụ, mà do tình cờ nghe, biết, nắm giữ được những điều bí mật, tối quan trọng. Bản chất một người như vậy, khi đã ở trong tay của cộng sản, không sớm thì muộn, để cứu thoát bản thân, anh sẽ trình bầy với cộng sản để lập công. Lúc đó tùy theo mức độ sẽ làm lũng đoạn, mâu thuẫn trong nội bộ hàng ngũ lãnh đạo của cộng sản miền Bắc.
Ông Nhu và ông Cẩn, tình báo của miền Nam hẳn cũng đã hiểu: với sự cảnh giác đến chân răng kẽ rốn của cộng sản, không bao giờ chúng có thể tin được anh Bưởi. Một người đã bỏ mẹ và con gái để đi vào Nam năm 1954. Bây giờ lại bỏ một xã hội vật chất dư thừa, thoải mái tự do để tìm về một xã hội vật chất thiếu đói, hạn hẹp gò bó về sinh hoạt, chỉ vì nhớ mẹ và con gái. Về chơi rồi đi thì người ta mới tin được.
Khi mà cộng sản đã không tin, thì chẳng có điều gì có thể ngăn chận chúng không bắt anh khai thác. Mà chúng đã đặt vấn đề nghi ngờ để điều tra khai thác thì sẽ phải ra. Cứ đặt giả thuyết, đây là một đòn cao, một đòn sâu của ông Nhu, Cẩn và tình báo miền Nam đi nữa thì cộng sản cũng không mắc. Tôi chỉ là một cá nhân tầm thường, lại không phải chuyên trách cứu xét sự việc mà cũng phải đặt vấn đề, huống chỉ là cộng sản. Chúng nó có cả một bộ môn, một tập thể để soi rọi, chiếu lên từng mảnh vụn của sự việc.
Còn riêng về phần anh Bưởi, ngay ở trong tù hiện nay. Hàng ngày anh lẽo đẽo cắp vở đi theo học lớp hai bổ túc văn hóa, mục đích để làm gì?
Phải chăng mục đích của anh, để cho cộng sản đánh giá anh là một người nông nổi, ba tếch, ba toác, không có trình độ? Nhưng cụ thể anh đã khai báo là một điệp viên đại úy tình báo, điều mà lẽ ra anh phải có chủ trương ngay từ đầu, ngay từ ngày anh bước sang phía cộng sản ở cầu Hiền Lương. Chứ che dấu ban giám thị trại này, che dấu anh em tù nhưng lại khai rõ trên bộ công an thì đâu còn là một chủ trương thống nhất? Trong cuộc sống, nhiều khi một sự việc rất nhỏ lại trả lời cho một vấn đề rất lớn.
Một lần vào buổi sáng Chủ Nhật. Anh em, người thì đi tắm giặt, người thì ra sân, ra hội trường. Trong buồng sàn trên, sàn dưới thưa thớt dăm mười người. Tôi ngồi ở sàn trên đọc sách; nhìn xuống sàn dưới phía bên kia đối diện, anh Bưởi đang lúi húi vá cái áo trại. Sáng nay, tôi mới xin bác Lẫm được 2 điếu thuốc lào, muốn gọi anh lên để hai người cùng say sưa, vì thuốc lào kỳ này rất khan hiếm nên tôi không muốn cho người khác biết. Tôi mong anh Bưởi khâu một lúc, mỏi người sẽ ngửng mặt lên là tôi vẫy gọi anh. Nhưng tôi chờ mãi đến nửa giờ, có lúc anh ngừng khâu, ngửng đầu lên, nhưng lại chỉ đưa mắt nhìn chung quanh phía bên dưới mà không hề nhìn lên sàn trên. Nếu anh nhìn lên một tí, anh sẽ thấy cái mặt tôi đang tươi roi rói hướng về anh ngay phía đối diện; chỉ chếch phía trên, xa chỗ anh ngồi chừng 5 mét.
Sốt ruột quá, tôi tìm được một miếng giấy con, vo nhỏ lại bằng đầu ngón tay út, ném mạng vào đầu anh. Thấy tiếng động vào đầu và nhất là thấy hòn bi giấy con tí văng xuống đất trước mặt anh, anh quay lại chung quanh ngơ ngác nhìn về phía một bác dân tộc đang nằm nhắm mắt cách anh 3 chiếu. Anh chỉ nhìn ở sàn dưới mà không hề nhìn lên sàn trên; không thấy gì, anh lại tiếp tục cúi xuống khâu. Nóng cả ruột, tôi đã định sẽ hút hưởng một mình, không cho anh hút nữa, nhưng thấy thiếu vui và không tốt. Tôi lại tìm bẻ được một cái đầu que nứa ở tấm vách, nhằm anh tôi ném mạnh, trúng ngay vào vai anh. Anh ngửng phắt mặt, quay ra liếc nhìn đàng trước, đàng sau cũng vẫn chỉ có bác dân tộc mà thôi, anh vẫn chả nhìn lên sàn trên. Tôi tức muốn gào lên “hãy nhìn lên đây cơ mà!”
Tôi đặt vào trường hợp của tôi, chỉ thoáng khi thấy mẫu giấy rơi ra, tôi phải nhìn khắp trên dưới, chỗ nào có khả năng ném tôi, hay từ đâu rơi ra tôi phải biết nguyên nhân. Nếu tôi không thấy gì, tôi sẽ khâu tiếp rồi bất chợt sẽ ngẩng lên nhìn ra khắp lượt. Chứ mà bị ném đến lần thứ hai thì tôi phải bỏ khâu đấy, đứng dậy quan sát khắp chỗ. Và tôi nghĩ rằng, rất nhiều người khác cũng sẽ như tôi chứ không như anh Bưởi.
Nhưng cuộc đời hình như có sự bù trừ. Anh Bưởi lại có khả năng làm cho nhiều người chung quanh tin tưởng rằng trong anh có nhiều tài năng ẩn tàng. Thậm chí, chính Nguyễn Văn Gôm, một con người tinh nhanh, sắc sảo có lần đã thổ lộ với tôi:
- Anh Bưởi là một thứ “xịa” ghê gớm lắm! Bề ngoài trông anh chậm chạp, củ mỉ, củ mì vậy đấy thôi, chứ hiện nay anh còn giữ được một loại thuốc rắc vào cùm, vào khóa là chúng sẽ chảy ngay ra như nước. Chưa hết, anh còn một bí quyết nữa; anh có thể không ăn trong một tuần lễ mà sinh hoạt lao động bình thường.
Chính vì vậy Gôm đang nỗ lực ráo riết, chiều đón, xu phụng anh Bưởi để anh sẽ truyền bí quyết cho, cũng như anh sẽ cho xem cái loại thuốc thần kỳ nói trên.
Điều này tôi đã suy nghĩ mãi nhưng thật khó mà giải thích. Chỉ có thể nói là “Trời sinh ra như vậy”. Như con cua gặp con ếch. Con cua mà gặp con ếch là co dúm người lại cho con ếch đớp rồi nuốt. Nếu con cua cứ giương rộng còng thì con ếch làm gì được. Rồi tới lượt ếch gặp rắn cũng vậy, thoáng thấy bóng rắn là ếch cụp đầu xuống, co quắp người lại để xin mời ông rắn sơi. Nếu con ếch nó cứ bật nhẩy như lò xo, mỗi cái nhẩy hàng thước thì rắn nào đuổi kịp. Như vậy trong cuộc đời có cái này kỵ cái kia, ai mà biết được lý do? Về anh Bưởi, thời gian còn dài, sẽ còn nhiều sự việc để làm sáng tỏ vấn đề.
Tối nay tôi nằm mãi mà không ngủ được, đầu óc cứ còn vấn vương về câu chuyện do Lầu Phá Tra và Lồ Cao Chính kể cho tôi nghe lúc buổi trưa ở hội trường. Lầu Phá Tra và Lồ Cao Chính, hai người đã hôn và đặt tay tôi lên đầu họ hồi năm ngoái, khi tôi lên trại mới được 2 – 3 tháng. Tuy không thường xuyên nhưng tôi vẫn khắn khít tiếp xúc với họ khi có vấn đề cần trao đổi. Lúc trưa họ kể sơ lược cho tôi nghe về Vương Chí Sình- Một ông vua, một người chúa của dân tộc Mèo. Đối với người dân tộc thiểu số trên miền thượng du Việt Bắc, Vương Chí Sình không những chỉ là người chúa của dân tộc Mèo, nhưng ông còn là người khôn khéo, tài ba có uy tín lớn với các sắc tộc khác. Trong sự chống đối, bất hợp tác với chính phủ Hồ Chí Minh của các dân tộc thiểu số thì ông là một điểm sáng chói, là linh hổn của họ.
Ông đã xây dựng, thành lập và lãnh đạo một đội quân đông đảo người dân tộc. Tuy trang bị vũ khí thô sơ nhưng biết lợi dụng địa thế núi rừng hiểm trở của thiên nhiên, nên Việt Minh đã hao tốn bao nhiêu công lao, tâm sức kể cả người và của về chính trị cũng như quân sự mà không thể thu phục được. Họ đã phải dùng nhiều đơn vị lớn, mở nhiều chiến dịch len lỏi vào núi rừng để lùng xục, tiễu trừ đoàn quân chống đối của người dân tộc mà chúng gán cho cái tên là giặc cướp, là thổ phỉ.
Nhưng sau nhiều ngày tháng, cộng sản đã không thể làm gì được mà nhiều lần, cái đội quân “phỉ, cướp” đó đã bất ngờ đánh cho lũ cáo Hồ những trận liểng xiểng. Hồ Chí Minh, con cáo già nhiều thủ đoạn cho những tên cán bộ người dân tộc len lỏi, môi giới vào tìm gặp được Vương Chí Sình. Khi đã bí mật liên lạc với Sình được rồi, y dùng những cán bộ trung ương giỏi mồm mép, giỏi nghề dụ, xui người khác ăn cứt gà vào tiếp xúc với Sình. Mặt khác, y lại viết thư như đã từng viết cho Thẩm Hoàng Tín, tình cảm dạt dào, lời lẽ khẳng khái đoan chính v.v…
Cuối cùng y đã lôi được Vương Chí Sình về Hà Nội, đã tách cọp ra khỏi rừng, cho cọp về thành phố chơi. Vương Chí Sình cùng với đoàn bộ hạ tham mưu được đón rước linh đình vào phủ chủ tịch, mở hội hoa đăng để kết nghĩa anh em. Chắc Vương Chí Sình cũng sướng tê người như Thẩm Hoàng Tín. Một tên chúa Mèo ở trong rừng sâu hoang dã lại được kết nghĩa anh em, đoàn viên với Hồ Chí Minh, chủ tịch của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Khi quân đã không có chủ tướng, Hồ già càng dễ gây ly gián, nghi ngờ nhau giữa những thành phần của đội quân người dân tộc. Để cuối cùng chúng tiêu diệt dần cho tới khi bắt gọn. Kết quả là biết bao nhiêu người dân tộc phải chết hoặc ở trong tù như hiện nay, trong đó có Lầu Phá Tra và Lồ Cao Chính. Chỉ vì người lãnh đạo mắc một căn bệnh chung là không hay chưa hiểu đủ về cộng sản.
Vương Chí Sình khi biết là mình bị ăn cứt gà thì đã muộn. Theo Tra và Chính thì cho đến bây giờ họ cũng không biết rõ về số phận của Vương Chí Sình nữa, vì có nhiều nguồn rỉ tai: có thể ông Sình bị giam lỏng ở Hà Nội và cũng có thể bị chết rồi.
Một bài học quái ác, là cứ phải ngã rồi mới học được! Óc tôi cứ vấn vít xoay quanh về câu chuyện này mãi, mà càng suy nghĩ thì đầu càng nóng lên, để rồi trăn trở mãi mới chìm dần vào giấc ngủ hãy còn nhiều khắc khoải, cau mày.
Thép Đen Thép Đen - Dang Chi Binh Thép Đen