Tôi tin những muộn phiền và thất bại đến với mình là nền tảng giúp tôi có thể cảm nhận cuộc sống ở một mức cao hơn.

Anthony Robbins

 
 
 
 
 
Tác giả: Dang Chi Binh
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 214
Phí download: 13 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4611 / 119
Cập nhật: 2023-03-29 02:21:49 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 117: Nghệ Thuật Tuyên Truyền Của Cộng Sản
hấy bác Tiến nhận định và có nhìn sắc bén như vậy làm cho tôi suy ngẫm riêng về lãnh vực tuyên truyền của cộng sản và thế giới tự do của chúng ta. Tôi đã hùng hồn bộc lộ cái nhìn của tôi về lĩnh vực này với bác Tiến, nội dung như sau:
Tôi đã ở miền Nam, tôi đã ra miền Bắc. Tôi đã nhìn góc này, khía kia qua cả thực tế cũng như trên sách báo. Tôi lấy một hình tượng rất giản đơn để so sánh:
Tôi nhớ lại những ngày tôi còn lang thang trên khắp phố phường của Hà Nội trước khi bị bắt vào Hỏa Lò. Một lần tôi vào một hiệu sách Nhân Dân trước cửa chợ Đồng Xuân. Tôi lục lọi xem, tìm một số sách vở, thoáng thấy một cuốn tự điển chính trị thật dầy của Liên Xô đã được dịch ra tiếng Việt. Mở thoáng đọc một số trang, tôi nhìn thấy chữ “nghệ thuật tuyên truyền” được định nghĩa như sau: “Cái không có, mà nói cho người ta tin là có, đó là nghệ thuật tuyên truyền.”
Ngày nay, hầu hết chúng ta, qua thời gian và thực tế đều để hiểu: thế giới tự do, thực sự đã mang cơm no, áo ấm, tự do hạnh phúc cho mọi người. Nhưng trước đây, người dân lại không tin như vậy. Họ chỉ thấy là đế quốc, thực dân bóc lột, là “Ngụy”, là phi chính nghĩa v.v… Như vậy “ta có mà người ta lại không tin là ta có.” Ngược lại, cộng sản, ai cũng thấy chúng bóc lột đến giấc ngủ cũng không yên. Nhưng trước đây, khi người ta chưa nhìn thấy thực chất của cộng sản thì hầu hết lại tin rằng cộng sản là chính nghĩa, là đã đem độc lập, tự do, hạnh phúc lại cho nhân dân. Xã hội cộng sản là xã hội công bằng, không có cảnh người bóc lột người.
Như vậy, hiển nhiên ta thấy: cộng sản không có cái công bằng, dân chủ, nhưng chúng đã tuyên truyền để mọi người tin là chúng có. So sánh, chúng ta thấy rõ ràng như ban ngày: cộng sản tuyên truyền cái “không có” cho người ta tin là “có”. Đấy là nghệ thuật tuyên truyền! Là nghệ thuật bậc thầy. “Có” mà tuyên truyền cho người ta tin là “có”. Là nghệ thuật học trò.
Nhưng đây, thế giới tự do của chúng ta “Có” mà ngườii dân lại không tin là có. Như thế, về lãnh vực tuyên truyền ta chỉ là bậc cháu của cộng sản. Nghĩa là ta chỉ đáng là học trò của học trò cộng sản mà thôi!
Huống chi, cộng sản đã tìm và nhìn đúng loại đối tượng để tuyên truyền. Đó là những đám nông dân, công nhân, những người lao động nghèo khổ, ít học. Mà trong nước ta thành phần này chiếm đến 90% của dân số. Họ chỉ biết suốt ngày cặm cụi làm việc vất vả để mưu sinh cuộc sống. Bởi thế, giả dụ: khi cộng sản nói trên đài, đăng trên báo: ở một khu vực nào đấy, có một tiểu đội du kích. Do lòng căm thù giặc sâu sắc, do đường lối anh minh của đảng và cách mạng soi sáng chỉ đường, đã dùng mưu lược đánh đuổi được một tiểu đoàn của “ngụy” chạy tóe cứt, vãi đái ra quần v.v… Họ vẫn tin đấy! Vì họ có thì giờ và kiến thức đâu mà suy luận, phân tích thời cuộc làm gì cho nó mệt óc, nhức đầu? Mà một khi quần chúng có niềm tin thì trở thành sức mạnh rồi.
Ngược lại, phía chúng ta, những người Quốc Gia của thế giới tự do. Nếu có một tờ báo nào đó cũng đăng một cái tin: ở một địa khu nào đó có một tiểu đội địa phương quân, do lòng sôi sục hận thù Giặc Cộng; do lý tưởng nhân bản, tự do dẫn đường, vạch lối, đã dùng mưu lược trận đồ đánh tan một tiểu đoàn chính quy của cộng phỉ. Tiêu diệt hơn 100 tên, bắt sống 26 tên và thu nhiều vũ khí quân trang v.v…
Chưa nói về độc giả. Ngay những tờ báo bạn, những cơ quan thông tin cùng một phe đã gửi thư, viết bài đăng báo phản đối, chửi bới là nói láo; nói còn để cho người ta nghe được chứ! Nói ngu như thế mà nói được à v.v…. Độc giả như bác với cháu, hay Gôm, Nhu chẳng hạn, sẽ ném vất tờ báo đi, không thèm đọc. Tờ báo đó còn đăng những tin láo khoét như vậy, thì sẽ không mua nữa. Như vậy, tờ báo đó nếu không muốn bị các bạn chửi bới và sẽ bị chết vì không còn ai mua báo nữa thì chỉ còn một cách: không bao giờ dám đăng những tin tuyên truyền loại đó nữa.
Từ đấy suy ra, vô hình chung các cơ quan ngôn luận tuyên truyền của ta chỉ tập trung cố gắng để làm vừa lòng, chiều theo thị hiếu của cái số độc giả có học, có kiến thức hiểu biết. Mà cái thành phần này trong quần chúng chỉ chiếm 10 phần trăm. Nhưng lại nực cười nữa là cái số 10 phần trăm có kiến thức này như bác, Gôm, Vân, Khải v.v… không những không cần tốn công sức, giấy mực để tuyên truyền, lôi cuốn; mà có đẩy, xô sang phía cộng sản thì chắc chắn cũng bỏ cả cha, cả mẹ chạy vội về phía quốc gia tự do rồi. Tóm lại, chúng ta phải nghiên cứu toàn bộ lại phương cách tuyên truyền của chúng ta hiện nay. Dù không nói láo như cộng sản, nhưng phải hữu hiệu hơn.
Nghe tôi nói xong, bác Tiến bò nhỏm dậy, vừa kéo tay tôi ra chỗ hút thuốc lào vừa nói trong nét hưng phấn:
- Sự việc này lùng bùng, phức tạp phải dùng cả một bài báo, một cuốn sách để chứng minh diễn giải mà cháu lý luận đơn giản như thế thành ra sáng tỏ dễ hiểu.
May quá! Trời đã tối, chiếc bóng điện 40 watts mới bắt ở giữa nhà không đủ sáng để bác Tiến thấy được nét ngượng ngùng của tôi. Dù vậy, như một sự khích lệ, hút xong điếu thuốc, về chỗ, tôi hăng say thuật lại cho bác Tiến nghe một sự việc cụ thể về nghệ thuật tuyên truyền của cộng sản. Sự việc này do chính Hoàng Công An đã thuật lại tỉ mỉ cho tôi nghe, trước khi dẫn tôi đến gặp sư bà Đàm Hướng trong vỏ bọc thứ 3 của tôi. Nội dung như sau:
Ngay từ khi cộng sản chuẩn bị sẽ ký kết hội nghị Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954, chúng hiểu rằng, khi đất nước chia làm 2 miền, với những thủ đoạn độc tài, phát xít nham hiểm, quỷ quyệt trong những năm qua của chúng đã lộ ra ít nhiều cho một số quần chúng đã biết được, thì tất yếu có rất nhiều người dân sẽ bỏ chúng để đi vào miền Nam theo phía bên kia.
Như vậy, cả về mặt chính trị cũng như xã hội, chúng sẽ bi lao đao, khủng hoảng. Do đấy, bộ chính trị, chủ chốt là tên cáo già Hồ Chí Minh họp bàn để tìm ra một phương kế hòng lấp bớt cái hố sâu lo này của chúng. Cuối cùng chúng đã tìm ra được một nhân vật lá chắn, đầu cầu là dược sĩ Thẩm Hoàng Tín, đương kim thị trưởng thành phố Hà Nội. Một nhân vật điển hình, vừa danh tiếng, vừa uy quyền và giầu có.
Chúng tin rằng, nếu chúng lôi kéo được Thẩm Hoàng Tín ở lại với chúng thì có thể kéo lại một mảng, có thể đến hàng chục ngàn người cũng ở lại theo. Do đấy, chúng đã nghiên cứu một kế hoạch tỉ mỉ, công phu ngay từ khi hội nghị Genève sắp được ký kết. Chúng đã triển khai thực thi kế hoạch từng bước. Chúng chỉ định một cán bộ trung ương đảng có khả năng thuyết phục và có tình cảm lôi cuốn là Nguyễn Duy Trinh (sau này được vào bộ chính trị và đã từng nắm giữ bộ ngoại giao).
Nguyễn Duy Trinh đã bí mật vào Hà Nội để gặp Thẩm Hoàng Tín. cộng sản đã nắm vững là trong giai đoạn này, dù cho Thẩm Hoàng Tín có không đồng ý chăng nữa cũng không dám ra lệnh bắt giữ người của chúng gửi vào. Những ngày ráp ranh, thế lực cộng sản đang lên như diều ở Hà Nội, ai mà không rét?
Thẩm Hoàng Tín lúc đầu còn ngỡ ngàng, ngạc nhiên, lo lắng khi gặp một cán bộ trung ương của cộng sản. Nhưng người cán bộ này đã hân hoan nồng nhiệt mang lời nhắn nhủ của bác Hồ vào thăm hỏi sức khỏe của chú Tín. Từ trong chiến khu chống giặc Pháp, bác vẫn để ý xem xét, theo dõi khít khao hành động của chú Tín. Cụ thể năm này, tháng nọ đã ra lệnh tha bao nhiêu người tù (nhà tù nào của chúng ta hàng năm lại không tha người?). Đã dựng trường học này, đã xây chiếc cầu kia v.v… Thẩm Hoàng Tín nghe mà bàng hoàng, nhưng cũng dội lên một chút hưng phấn trong dạ. Trong lúc hưng phấn, Thẩm Hoàng Tín không kịp thấy rằng, khi muốn tìm điểm tốt của một người thì bao giờ và ai chả có cho nên niềm vui, lòng hãnh diện cứ thấm dần vào tâm, nên óc Tín đã mờ dần.
Là một dược sĩ tầm thường, chỉ giữ cái chức thị trưởng thành phố Hà Nội. Trước đây, ông Tín nghĩ rằng mình có tội với cộng sản, thế mà nay được hẳn một cán bộ trung ương từ ngoài chiến khu mang lời thăm hỏi, khen ngợi của bác Hồ vĩ đại kính yêu, thì thật nằm mơ cũng không thấy.
Tín đêm ngày suy ngẫm, mình được bác Hồ khen cũng là đúng (tâm lý, ai được khen thưởng thấy đúng), mình đối với dân cũng có lương tâm lắm chứ! Bởi vậy, Thẩm Hoàng Tín đã gửi kính thăm sức khỏe của bác, không quên gửi kính biếu bác ít sâm nhung đặc quý. Rồi cho tới khi ký hiệp định Genève, nhiều cán bộ trung ương ra vào gặp Thẩm Hoàng Tín nói là bác Hồ nhớ chú Tín lắm, bác cảm ơn chú Tín đã tặng quà cho bác. Bác muốn chú Tín ở lại gặp bác.
Tuy trong lòng có thiện cảm phần nào với bác Hồ, với cách mạng nhưng trong lòng Thẩm Hoàng Tín vẫn còn nhiều băn khoăn, lo lắng. Chưa biết đâu được, chẳng có gì chắc cả, không chơi dại, ở lại với cộng sản nhỡ có chuyện gì thì chạy đâu được. Những cán bộ tiếp xúc với Tín đã thấy mối băn khoăn, giằng co lưỡng lự của Tín. Cho tới còn hơn một tháng trước ngày tiếp quản thủ đô Hà Nội 10/10/1954. Nguyễn Duy Trinh lại vào gặp Tín một lần nữa; mang theo lá thư của Hồ chủ tịch gửi cho chú Tín, nội dung:
“Do những thành tích sáng ngời vì dân vì nước của Thẩm Hoàng Tín. Với tư cách là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trang trọng đặc biệt đảm bảo riêng cho Thẩm Hoàng Tín, gia đình, họ hàng và toàn bộ tài sản của Thẩm Hoàng Tín an toàn triệt để cùng toàn dân đón chờ tới 1956, ngày tổng tuyển cử, đất nước thống nhất một nhà.”
Lá thư có đóng đấu và chữ ký của chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Hồ Chí Minh.
Còn nỗi mừng vui hãnh diện nào to lớn hơn. Trong lòng Tín còn chút băn khoăn ngập ngừng nào đã tan thành khói bay theo mây chiều về phương Nam xa xôi. Hãy giữ chắc lá thư lịch sử này, nó như một lá bùa, một bảo bối bảo vệ cho Tín và gia đình an toàn sau này. Một mối lắt lay thầm kín trong lòng Tín từ mấy tháng nay. Bao nhiêu của cải, tài sản nhà cửa, xe cộ cả một đời tạo lập, nếu phải bỏ lại để ra đi thì rồi cũng héo mòn trong luyến tiếc. Không ngờ, ngày nay đã ổn đẹp, mà cuộc đời lại có chiều hướng đi lên. Thế là Thẩm Hoàng Tín quyết định ở lại, không đi vào Nam xa xôi vời vợi dù bạn bè và chính phủ quốc gia khuyên can bao nhiêu cũng không lay chuyển được tấm lòng đã đổi chiều của Thầm Hoàng Tín.
Nguồn tin dược sĩ Thẩm Hoàng Tín, đương kim thị trưởng thủ đô Hà Nội, một người vừa danh tiếng, vừa giầu có ở lại không đi vào Nam được cộng sản thổi phồng tung ra lan tràn khắp miền Bắc.
Trong cảnh đất nước chia đôi, lòng người ai cũng vậy. Nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả ông cha, nơi chôn nhau, cắt rốn, ai đâu bỗng dưng cắt ruột mà ra đi về một phương trời chưa hề biết. Cho nên trong lòng mỗi người đều có mối giằng co gay gắt giữa ra đi và ở lại. Hơn nữa, giai đoạn này có phải ai cũng hiểu được cộng sản như sau này.
Vì thế, mấy ông chủ sự, chánh văn phòng, giám đốc v.v… đều nghĩ nếu như ông Thẩm Hoàng Tín, một đương kim thị trưởng của một thủ đô, giàu có như vậy mà còn ở lại, ông ta còn hiểu biết cộng sản cũng như thời cuộc còn bằng mấy mình ấy chứ. Thế là họ quyết định ở lại. Những ông trưởng đồn cảnh sát, thiếu úy, trung úy v.v… lại nhìn từ ông Thẩm Hoàng Tín cho đến những ông giám đốc, chủ sự. Cứ người này ở lại, kéo theo người kia, để rồi biết bao nhiêu người đã quyết định ở lại theo sự liên đới mà chủ chốt là Thẩm Hoàng Tín.
Về phần Thẩm Hoàng Tín, khi đã quyết định ở lại rồi thì lòng càng mở rộng để nhìn về cách mạng. Thôi thì cứ như thoi đưa, hết cán bộ cấp này đến cấp kia ra vào gặp Tín như cơm bữa. Để rồi nhiều đêm nằm suy tưởng. Tín đã tưởng chính mình cũng là người của cách mạng. Càng gần ngày cộng sản tiếp quản Hà Nội, mảnh đất ngàn năm văn vật, càng lổn nhổn lên những con người xôi với đậu, kẻ ở, người đi. Bóng người xưa thưa vắng dần dần. Nhìn cảnh phố phường rệu rạo, đổi màu đôi lúc lòng Tín cũng vẩn lên nỗi man mác, bâng khuâng về những cảnh đời quen thuộc, quyền hành của mình đã qua. Nhưng rồi cái màu đỏ chói của cách mạng đã lôi hồn Tín trở về với những xốn xang, xởi lởi của những buổi ban đầu giao duyên với cách mạng.
Rồi cho tới ngày 10 tháng 10 năm 1954, cộng sản vào tiếp quản Hà Nội, lòng Tín như mở hội. Tín làm nhiều bữa tiệc tưng bừng để đón chào những người con cưng của Tổ Quốc, những cán bộ ruột thịt của cách mạng huy hoàng. Họ muốn cái gì, Tín cũng tặng. Họ muốn xe, có xe; muốn mũ, có mũ; muốn giày, có giày. Những thứ quí giá, đắt tiền nhưng Tín không hề do dự tặng, dâng. Tín làm như vậy là để thể hiện tấm lòng thương yêu, sắt son đối với cách mạng. Nhưng chỉ vài ngày sau đó, những cán bộ ân tình, quen thuộc thường xuyên ra vào nhà Tín trước đây, Tín đã đối xử với họ như những anh em đồng chí bây giờ bằn bặt đi đâu, hầu như không còn ai lai vãng. Tín chỉ cho là vì công việc tiếp quản bề bộn quá nhiều nên cán cán bộ đều bận.
Ít tháng sau, nhà nước ra thông báo có lệnh kiểm kê toàn bộ tài sản khắp miền Bắc mà các thành phố là điển hình. Tín cũng có lắng lo nên để ý, nghe ngóng. Các cán bộ kiểm kê ở khu phố Tín ở và những khu có nhà của Tín. Họ đã khẩn trương làm hết các nhà xung quanh nhưng không hề động chạm gì đến nhà đất, xe cộ của Tín. Lòng Tín và vợ con Tín tươi như hoa. Tín nằm ngủ mơ còn cười: thế chứ! Bác Hồ mà, chủ tịch nước và chủ tịch đảng chứ có chơi đâu.
Tín và gia đình suy nghĩ: bác và cách mạng đã đối xử với mình như thế, mình cũng phải biết điều chứ. Tín có nhiều xe, nhiều nhà, Tín tự nguyện tặng cho thành phố mấy cái xe mấy cái nhà để giúp phương tiện cho các cơ quan làm việc. Nhà nước càng hoan nghênh Tín.
Lệnh của ban kiểm kê tài sản: anh có bao nhiêu nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn không cần biết. Tất cả nhà anh lớn bé có bao nhiêu người, sẽ chia theo đầu người và tùy theo người lớn trẻ con, chính sách đã quy định rõ ràng là được ở bao nhiêu thước vuông. Ruộng, vườn, xe cộ cũng theo thế mà quy định. Của cải của nhân dân, cũng là của nhà nước, không nên để thừa thải, không hợp lý. Bởi vậy, khi di cư vào Nam, có nhiều người viết giấy ủy quyền với những thủ tục pháp lý đầy đủ như: bố để lại cho con, con cho bố, cho anh em vợ chồng v.v… đều không còn giá trị nữa.
Mãi gần 3 tháng sau, về cuối đợt kiểm kê vào nhà gặp Thẩm Hoàng Tín, lý do:
- Ban kiểm kê tài sản đã biết ông Tín có giấy bảo lãnh của bác Hồ, cho nên không một cán bộ nào dám đụng chạm gì đến tài sản của ông. Chúng tôi đến với ông hôm nay, xin ông vui lòng cho phép chúng tôi kiểm kê toàn bộ tài sản của ông. Bao nhiêu nhà cửa, ruộng đất, xe cộ cũng như những vật dụng đáng giá trong nhà. Mục đích, để nhà nước biết được cái tiềm năng của cải của đất nước mà thôi, chứ chúng tôi không hề làm suy chuyển, dù là một cái đanh, một miếng gỗ thuộc về tài sản của ông.
Tín nghe thì cũng có chút phật lòng, bỡ ngỡ. Nhưng nghĩ cho kỹ, cũng thấy hợp lý, vì nhà nước cũng cần phải biết mức độ của cải, giầu nghèo của toàn dân. Vả lại, mình đã có là bùa hộ mệnh thì còn e dè, sợ sệt cái quái gì nữa. Nghĩ thế, nên Tín đã hân hoan tạo điều kiện cho các cán bộ kiểm kê làm việc được dễ dàng, thuận tiện. Sau mấy ngày khẩn trương làm việc nghiêm túc mới kiểm kê xong, cuối cùng người trưởng đoàn căn dặn Tín:
- Tất cả những đồ đạc, xe cộ v.v… mà chúng tôi đã kiểm kê, yêu cầu không được di chuyển hay cho ai vì nhà nước còn nghiên cứu và thẩm tra lại.
Tin nghe căn dặn, điếng cả người, của mình mà mình không được cho, không được di chuyển và càng không thể được bán (mà có bán lúc này thì ai mua của ai?) như vậy đâu có còn là của mình nữa. Cả nhà buốn, lo rười rượi, ăn không ngon, ngủ không yên. Tín bàng hoàng tức tối, nhất định phải hỏi cho ra nhẽ mới được. Nhưng dạo này những cán bộ cao cấp có còn thấy mống nào đến nhà nữa đâu. Hỏi những cơ quan lớn của thành phố thì họ đều trả lời không biết. Hỏi thẳng cơ quan kiểm kê cũng như cục nhà cửa thì họ chỉ biết trả lời là họ thi hành lệnh trên. Trên là trên nào thì may ra chỉ có ông trời mới biết. Đầu óc cứ như muốn nổ tung ra vì nghĩ với suy. Cùng thì tắc. Tắc rồi thì phải thông, đó là lẽ trời, vì thế Thẩm Hoàng Tín quyết định.
Một hôm trời đẹp như thơ, Thẩm Hoàng Tín khăn gói quả mướp quyết định vào thẳng phủ chủ tịch xin gặp bác Hồ. Năm lần, bẩy lượt đều được trả lời là bác đi công cán không có nhà. Thôi bây giờ cái thế chơi dao đã lú lẫn cầm phải đàng lưỡi rồi. Nghĩa là ở vào cái thế phải chạy theo thì cũng đành vậy. Quyết tâm, Tín bỏ nhiều công thập thò, chờ đợi cho đến một buổi đó, trời cũng giúp ông Tín: một đoàn xe đang hộ tống chiếc xe của chủ tịch đi ở giữa tiến vào cổng phủ, rõ ràng có bác Hồ kính yêu ngồi ở trong. Không thể chần chờ, Tín đã xông ra, nhiều người hộ tống bác Hồ ngăn cản, giằng co với Tín. Bác Hồ đã trông thấy, ra hiệu cho Tín đến gặp. Tín hãy còn hổn hển vì vừa bị đám cận vệ ngăn cản, lôi kéo, chỉ biết cúi đầu thật thấp, xin được gặp bác 5 phút thôi.
Hồ Chí Minh gật đầu chấp nhận và Tín được vào phòng khách của phủ chủ tịch ngồi chờ. Sau gần 20 phút đợi chờ, Tín còn đang rụt rè đưa mắt nhìn những cảnh trang hoàng mới lạ của chiếc phòng khách mà trước đấy, thuở vang bóng ngày xưa Tín đã ra vào nhiều lần thì bác Hồ từ một cửa ngách đi ra. Mặt rồng hớn hở, bác tiến lại giơ tay cho Tín bắt. Lòng Tín xốn xang, cúi đầu thật thấp, run rẩy đưa 2 tay ra nắm chặt bàn tay quyền lực của bác. Bác Hồ vồn vã:
- Đã mấy lần, tôi định đến thăm chú, nhưng việc nước bề bộn, không có rảnh rang được chút nào. Thế hôm nay chú đến thăm tôi hay có việc gì?
Ngập ngừng, Tín trả lời trong hồi hộp nguồn cơn:
- Thưa bác, cháu muốn kính thăm sức khỏe của bác và xin ý kiến bác về một việc.
Hồ Chí Minh giọng vẫn xởi lởi thúc giục:
- Chú cần việc gì thế, cứ nói đi! Tôi sẵn sàng làm cho chú vừa ý!
Được lời như cởi tấm lòng, Tín nói thẳng những điều đang ấm ức trong lòng:
- Được bác thương yêu bảo lãnh cho cháu và gia đình, nhưng nay cán bộ đến kiểm kê hết tài sản của cháu và ra lệnh cấm tuyệt đối không cho di chuyển hoặc cho ai.
Mắt Minh mở to, mặt mất sắc, trắng ra vì ngạc nhiên. Minh quay lại ông bộ trưởng phủ chủ tịch đang đứng phía sau:
- Đồng chí, cho gọi ngay đồng chí bộ trưởng chịu trách nhiệm kiểm kê tài sản toàn quốc, vào đây ngay.
Khi tên bộ trưởng phủ chủ tịch ra ngoài rồi, Minh quay lại, nét mặt còn giận dữ nói với Tín:
- Láo thật! Như thế này thì không còn thể thống pháp lý gì cả.
Chỉ 3 phút sau, ông bộ trưởng đặc trách kiểm kê tài sản rụt rè tiến vào. Minh đứng giật dậy, nhìn ông bộ trưởng vừa vào, hỏi dằn giọng vẫn còn đầy tức tối:
- Tôi đã viết thư, ký nhận bảo đảm tài sản của chú Tín, vậy sao đồng chí còn cho lệnh vào kiểm kê nhà cửa, xe cộ của chú Tín?
Tên bộ trưởng cúi đầu rụt rè, ngập ngừng không nói ra lời. Minh đập tay xuống bàn quát:
- Tại sao?
Tên bộ trưởng nói ngắt quãng:
- Dạ…..thưa bác…..không phải tại cháu ạ!
- Thế, tại ai? Ai ra lệnh?
Minh hỏi dồn dập, tên bộ trưởng giơ hai tay lên xoa tai nói nhỏ:
- Thưa bác…..nhân dân ạ!
Hồ Chí Minh giơ cả hai tay lên trời, đầu lắc quầy quậy nhìn Tín:
- Ồ, nếu là nhân dân thì tôi xin chịu. Bởi vì cả cuộc đời tôi được sinh ra là để phục vụ nhân dân. Nhân dân bảo chết, tôi xin chết. Nhân dân bảo sống, tôi được sống. Tôi chỉ là một cá nhân nhỏ bé, vô giá trị trước nhân dân.
Tin như từ trên trời rớt xuống; đầu choáng, mắt hoa; ra về mà cái chân đi không còn thấy lối. Uất hận, đau thương ngập trời chỉ còn biết mình tự trách mình:
Than ôi! Tay trót nhúng chàm.
Dại rồi, còn biết khôn làm sao đây?
Sau đó, nghe đâu Thẩm Hoàng Tín đã tự tử nhưng được cứu sống, rồi bị bắt hay bị quản thúc thì không được nghe ai nhắc đến nữa.
Chuyện bị bắt hay có tội dưới chế độ cộng sản miền Bắc nó rất bình thường, đơn giản. Nó đơn giản đến cái độ mà người ở thế giới bên ngoài không thể hiểu được, cho nên dù có ai nói cũng không tin. Anh có của, có nhà, chính phủ đến lấy, đến tịch thu; anh cứ phải vui như Tết. Từ ở trong lòng, cũng như anh phải thể hiện với người chung quanh là chính phủ đã làm đúng, anh hoàn toàn bằng lòng. Nếu anh lại tỏ ra buồn phiền, phàn nàn hay tức tối, như vậy là tội đấy. Cán bộ sẽ có biện pháp kỷ luật, không cho anh ra khỏi nhà, không được tiếp xúc với ai. Anh lại càng tức tối nữa, phẫn uất như điên, lời nói phản đối nhà nước càng nặng hơn, như vậy tội càng lớn hơn. Cứ như thế, để rồi cuối cùng phải vào trại giam
Anh đang làm trưởng phòng của một cơ quan nào đó. Do những ý riêng hoặc yêu cầu của nhà nước, họ sẽ tìm một vài khuyết điểm vu vơ của anh. Chính phủ hạ anh xuống làm một nhân viên, anh phải vẫn hân hoan, vui vẻ tích cực làm việc ở cương vị đó một cách thực lòng. Nếu anh tỏ ra tiêu cực trong công tác, như vậy là tội đấy, anh đã hờn oán chính phủ. Họ sẽ có biện pháp kiểm thảo, hạch sách, kỷ luật hành anh đủ điều. Anh lại càng hận, tức hơn, tất nhiên sẽ thể hiện trong lời nói và việc làm, anh lại bị nặng hơn nữa, cuối cùng chỗ anh ở vẫn là nhà giam. Nói một cách dễ hiểu: anh đang tự do, trói anh lại, anh đừng giẫy, vẫn vui vẻ thì không sao. Nhưng cả ngàn người khi tự nhiên bị trói thì đều tức tối, giẫy dụa kêu trời, thậm chí còn chửi bới. Vậy, đó là tội đấy!
Tóm lại, với cộng sản, xin những nhà nước và những cá nhân đừng tin, đừng ký kết với họ cái gì cả. Ký một hợp đồng đầu tư xây dựng một nhà máy gì đó trong đất cộng sản là bạn đã ký giấy cam kết với con hồ ly tinh. Chắc chắn, không sớm thì muộn bạn sẽ bị xiểng liểng với nó. cộng sản sau đó sẽ có trăm ngàn lý do làm cho bạn phải đau đầu. Cũng như Cam Ranh của Việt Cộng bây giờ (1990). Rất ngon lành mời gọi, nếu Mỹ cứ mó vào. Tôi chắc chắn rồi Mỹ sẽ phải điên đầu, xiểng liểng thất cơ lỡ vận, lúc đó xin đừng kêu trời.
Phải nói rằng giai đoạn này, bác Tiến và tôi, một già, một trẻ thường say mê chuyện trò với nhau. Tôi cố hạn chế không muốn cho nhiều người biết sự thân mật, chuyện trò giữa tôi và bác Tiến. Thường thường những buổi tối khi đã bỏ màn, chúng tôi ngồi trong màn nói chuyện, bên cạnh lại là mấy người dân tộc nên cũng không đáng ngại. Do cách sống đạo đức, hiền hậu của bác, và nhất là uy tín của bác trước đây nên có nhiều người, nhất là thanh niên, trong đó có những tu sĩ, vẫn thầm kín giúp đỡ bác trong những khó khăn của đời tù vì tuổi già, sức yếu. Năm nay bác đã 65 tuổi rồi (1968).
Trông bác phúc hậu, hiền lành, ăn nói từ tốn cho nên được hầu hết anh em trong tù trọng mến. Ngược lại tụi cán bộ lại ghét cay, ghét đắng bác. Có lần một buổi trưa, bác Tiến đang ngồi ở hội trường nói chuyện với mấy thanh niên tu sĩ, tên Đức trưởng ban giáo dục từ ngoài cổng trại đi vào. Đến hội trường, thấy vậy, y bước đến, chỉ bác Tiến, bắt bác nhặt hết những lá khô, rác rưởi ở dưới rãnh dọc theo mái hiên của hội trường. Nó không cho ai giúp bác, chủ trương của nó là chỉ muốn hành hạ bác chơi vậy thôi. Phần do bản tính hiền lành, phần biết nhẫn nhục thích ứng nên bác đã lẳng lặng làm theo lệnh của nó với quan điểm “nín thở qua đò”.
Tên Cẩn trực trại cũng thế. Một buổi Chủ Nhật nó đi lang thang vào nhòm ngó các buồng. Khi nó vào buồng 2, nhìn thấy bác Tiến đang ngồi nói chuyện trong một đám người, mặt nó lạnh tanh như da trâu ngâm nước, nó bước thẳng vào nhà cầu của buồng rồi trở ra. Vẫy tay gọi bác Tiến, nó dẫn bác vào nhà cầu chỉ chỗ đi ỉa, đi đái đầy mùn, bựa dơ bẩn. Nó ra lệnh cho bác Tiên phải xuống giếng lấy nước, dùng bàn chải cọ cho sạch ngay trong ngày hôm ấy. Chiều nó vào kiểm tra mà còn bẩn thì đừng trách nó. Mọi người thấy nó hành hạ bác Tiến như vậy đều mủi lòng thương, nhưng không ai dám giúp đỡ. Chờ cho đến khi tên Cẩn đi ra, mới có mấy thanh niên đi xách nước cọ giúp cho bác. Mặc dù việc cọ rửa nhà cầu đã có anh Lương Yên, một người Lào gốc Việt vẫn hàng ngày làm vệ sinh trong trại chịu trách nhiệm.
Vậy mà sáng hôm sau, các toán đang chờ xuất trại đi lao động thì có lệnh của ban giáo dục: Phùng Văn tại (toán 2), Hoàng Mạnh Hùng (toán 3) ôm chăn chiếu đi kỷ luật. Hai cậu này hôm qua đã giúp bác Tiến cọ nhà cầu.
Sau một số ngày chuyện trò với bác Tiến, cũng như qua mấy người khác cùng ở trại Vĩnh Tiến với bác, tôi được biết sơ lược về bác như sau:
Là một thanh niên trí thức của Hà Nội, cũng như nhiều thanh niên trí thức có tâm hồn khác. Thấy lòng uất hận, tủi nhục nhìn cảnh quê hương dân tộc bị giặc Pháp thống trị, bóc lột nên ngay từ 1925, bác đã tìm đường trốn ra nước ngoài, hòng tìm ra một phương cách, một giải pháp cứu giúp đồng bào, đất nước. Bác đã lặn lội, lang thang gần khắp châu Âu, hết Anh, rồi Đức lại đến Pháp. Cuối cùng bác đã gia nhập đảng cộng sản Pháp. Từ tấm lòng hướng về quê hương, bác đã nghiên cứu, học tập hoạt động hăng say dần dần trở thành một đảng viên xuất sắc. Uy tín của bác được đảng cộng sản Pháp đề cao.
Theo sự suy nghĩ của bác, muốn hoạt động cho nền độc lập của nước nhà, không những phải vận động ở bên ngoài, mà còn cần phải có quần chúng, có hậu thuẫn ở trong nước nữa. Vì thế bác đã cậy cục trở về nước bí mật hoạt động vào thời gian Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930). Sau vì những điều kiện trong cũng như ngoài chưa đủ chín mùi, nếu manh nha sẽ bị thực dân Pháp nhận chìm vào biển máu nên đổi chiến thuật, bác quay ra làm sách, làm báo công khai để vận động quần chúng, khích lệ, gieo mầm nuôi dưỡng các phong trào. Cho tới ngày 19 tháng 8 năm 1945 toàn dân đã cướp được chính quyền từ trong tay thực dân Pháp. Do mâu thuẫn nặng nề về chính kiến với những phương cách nham hiểm, tàn bạo của những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, bác lại ra đi trở về Pháp.
Bác không những là bạn đồng chí mà còn là bạn thân của Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, cả ngay Hồ Chí Minh nữa. Trước đây ở Pháp, bác đã gặp gở và giúp đỡ Minh vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn.
Khi trở về Pháp lần này, bác miệt mài nghiên cứu, đào sâu chủ nghĩa Marx và Lénine cùng với một số học thuyết khác. Rồi trong một lần bác được yết kiến Đức Giáo Hoàng, Chúa Kitô soi sáng tâm hồn bác, bác thấy bừng lên một chân trời sáng bao la, cao siêu, đầy nhân hòa trong xã hội loài người. Bác sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng với thực dân, phong kiến và đế quốc, nhưng bác cũng không ưa sự tàn bạo, quá khát máu của cộng sản Đệ Tam Quốc Tế. Một thời gian nghiên cứu về thần học, bác đã tìm ra một đường lối giao hòa giữa cộng sản và Thiên Chúa giáo. Bác càng nổ lực nghiên cứu thấu đáo con đường bác đã nhìn thấy, hòng cứu vãn dung hòa cái khắc nghiệt của máu sẽ chảy nhiều của thời đại.
Bác đã từ chối hết mọi danh vọng, lời mời mọc của Đồng, Giáp, Liệu. Nào là họ sẽ giao mặt trận Tổ Quốc cho bác, hoặc bác sẽ nhận trách nhiệm hành chính của một tỉnh v.v… Rất nhiều những lá thư tay, lôi kéo, dụ dỗ của Đồng, Giáp, Liệu gửi cho bác cho tới ngày bác về nước đợt này.
Lúc này bác trở về quê hương (1960), mục đích của bác là để vận dụng, thực thi con đường giao hòa giữa cộng sản và Thiên Chúa giáo. Trần Huy Liệu và Võ Nguyên Giáp cùng một số cán bộ cao cấp đã đến chỗ ở của bác ở gần Hà Nội gần Nhà Thờ Lớn, nhiều lần đe dọa, áp lực bắt bác phải từ bỏ con đường bác đã chọn. Dù bác không chống họ, nhưng cho tới đầu 1962, họ đã bắt bác vào Hỏa Lò với lệnh tập trung cải tạo.
Khi nghe nói bác bị bắt vào Hỏa Lò 1962 trùng một năm với tôi, tôi chợt nhớ lại. Khoảng 1963 khi tôi được chuyển từ xà lim 3 về xà lim 2 ở buồng số 4 với Phạm Huy Tân. Có một lần Tân nói: trong buồng này, có một bác già tên là Tiến vừa được chuyển đi thì anh đến. Buồn cười lắm! Ông ta nghiện thuốc lào, vì có tiếp tế nên có diêm, có thuốc mà lại không có điếu. Ông ta có một miếng xà phòng giặt, lấy một chiếc đũa thọc xuyên qua thành một cái lỗ, rồi khoét rộng một đầu để có thể vê điếu thuốc nhét vào. Mỗi khi hút, ông ta tỳ miệng vào một bên của cục xà bông, bên kia đánh diêm hút. Ông ta hút một điếu thuốc thật vất vả, nhưng có thể vì xà phòng sao đó ông ta bị đi ỉa chảy mấy ngày nên không dám hút nữa. Khi ỉa chảy đơ đỡ, thèm thuốc quá, ông ta lại hút và lại tiếp tục bị đi ĩa, toàn ra nước với bọt thôi.
Lúc đó nghe Tân nói, tôi nghĩ, ông ta cũng như trăm ngàn người khoác nên tôi cũng chả hỏi thêm làm gì. Nhưng bây giờ tôi đoán, hẳn là bác Tiến chứ không ai khác, và như thế tên Tân hiện đang làm trật tự ở trại này chẳng còn lạ gì bác. Có điều y lờ đi, coi như chưa từng quen biết bác. Giòng suy tư của tôi lững lờ chảy đến đây, tôi qua lại hỏi bác Tiến ngay:
- Thế ở Hỏa Lò ai tiếp tế cho bác?
Bác cười trả lời:
- À, thời gian ở ấy thì có mấy con cháu, nó vẫn tiếp tế cho bác. Nhưng từ ngày chuyển đi các trại, họ không cho gửi thư, nên các cháu chả biết bác ở đâu.
Những lúc ngồi nghe bác tường thuật lại những cảnh đời bôn ba, lúc thuận tiện cũng như những lúc khó khăn trong quá trình của đời bác. Nhìn mái tóc đã gần trắng hết đầu, nét mặt đôn hậu, hiền hòa, phương phi, tôi chợt nhớ đến gương mặt của Hồ Chí Minh. Giòng suy tưởng của tôi cứ trôi dài vào cái lẽ thăng trầm của thế sự ngược xuôi, thành công và thất bại.
Có tài, nỗ lực làm việc mới chỉ là một điều kiện. Còn một điều kiện, một yếu tố nữa là may mắn gặp thời.
Thời lai, đồ điếu thành công dị.
Vận khứ, anh hùng ẩm hận đa.
Ngày xưa, tôi nhớ trong sách toán học trong miền Nam từ đệ nhị cấp trở lên, ngoài bìa thường in cái phương trình làm việc của nhà bác học Albert Einstein như sau:
X + Y + Z = THÀNH CÔNG
Với ba ẩn số: Z = Cố gắng, nỗ lực. Y = Làm việc, nghĩa là phải bắt tay vào làm cái việc mình định làm. X = May mắn, thời cơ.
Theo lẽ thông thường, yếu tố nào quan trọng hơn người ta đặt trước. Như vậy, dù Albert Einstein, một nhà đại bác học mà cả khối tự do cũng như cộng sản đều phải thừa nhận. Nghĩa là, ông là một nhà khoa học đến chân răng, kẽ tóc, thế mà, ông ta vẫn thấy, và thừa nhận yếu tố may mắn trong cuộc đời là quan trọng và cần thiết. May mắn là nói theo khoa học; nói theo lối thông thường là số phận, là định mệnh.
Từ những chứng kiện trên qua óc liên tưởng, cho phép tôi tin: Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã lập được một chiến công lẫy lừng đại phá quân Thanh năm 1789. Chúng ta là kẻ hậu thế chỉ thấy cái sáng chói hiển hách của vị anh hùng dân tộc. Nhưng cùng đồng thời với ông hẳn cũng có nhiều người tài ba nhưng vì không may mắn, không gặp thời nên đã mai một đi, trở thành vô tên tuổi. Thời Hồ Chí Minh cũng vậy, và cả thời Ngô Đình Diệm cũng thế. Tóm lại, người thành công nhất, chưa hẳn đã là người tài giỏi nhất.
Hai anh Nguyễn Thanh Đương và Trần Quốc Anh bị đi kỷ luật hôm Hoàng Thanh giật dây ảnh, mãi hơn một tuần sau mới được thả ra. Hai người lặc lè về buồng 2. Mặt mũi anh nào cũng phờ phạc, xanh tái, hẳn đã phải làm bản kiểm điểm, một hình thức nhận lỗi, nhận sai lầm thì mới được ra. Tôi hiểu, Hoàng Thanh chỉ muốn dằn mặt buổi ban đầu với người vừa ở trại khác chuyển đến mà thôi.
Thép Đen Thép Đen - Dang Chi Binh Thép Đen