Số lần đọc/download: 8339 / 239
Cập nhật: 2015-10-31 11:18:07 +0700
Chương 107
N
ơi chúng tôi lần cuối cùng đến nghỉ mát là một đảo nhỏ gọi là Gili Meno, nằm cách bờ biển Lombok, là điểm dừng kế tiếp phía đông Bali trong quần đảo Indonesia rộng lớn và ngổn ngang. Trước đây tôi đã từng đến Gili Meno rồi, và tôi muốn chỉ cho Felipe thấy, anh chưa từng đến đó.
Đảo Gili Meno là một trong những nơi quan trọng nhất trên thế giới đối với tôi. Tôi đã một mình đến đây hai năm trước khi ở Bali lần đầu tiên. Lúc đó tôi có công việc tạp chí, viết về các kỳ ẩn dật Yoga, và tôi vừa kết thúc hai tuần ở các lớp Yoga có khả năng phục hồi ghê gớm. Nhưng tôi đã quyết định kéo dài thời gian ở lại Indonesia sau khi công việc hoàn tất, vì tôi đã đi cả một đoạn đường dài để tới được châu Á. Điều tôi muốn làm, thực ra, là tìm thấy một nơi nào đó xa vắng và cho mình mười ngày ẩn dật tuyệt đối cô độc và tuyệt đối yên tĩnh.
Khi hồi tưởng lại bốn năm trôi qua từ lúc hôn nhân của mình bắt đầu tan rã và ngày cuối cùng tôi rồi cũng được ly dị và tự do, tôi thấy một biên niên sử chi tiết nỗi đau hoàn toàn. Và giây phút tôi đến đảo nhỏ này hoàn toàn một mình chính là giây phút tồi tệ nhất của cả cuộc hành trình tối tăm ấy. Tới đáy của nỗi đau và phần giữa của nó. Tâm trí không vui của tôi là một chiến địa cho những ma quỷ giao tranh. Khi tôi quyết định dành mười ngày một mình trong yên tĩnh giữa một nơi đúng là xa xôi hẻo lánh, tôi đã bảo tất cả những phần còn bối rối và mâu thuẫn trong tôi một điều này, “Giờ tất cả chúng ta đang cùng nhau, mấy anh ơi, hoàn toàn một mình. Và chúng ta sẽ phải thực hiện một kiểu đàm phán nào đó để hòa thuận với nhau, nếu không tất cả sẽ cùng chết, sớm hay muộn.”
Có thể nghe có vẻ cứng rắn và tự tin, nhưng tôi cũng phải thú nhận điều này nữa – đi thuyền đến hòn đảo đó hoàn toàn một mình, tôi chưa từng kinh hãi đến thế trong đời. Tôi thậm chí không mang theo cuốn sách nào để đọc, chẳng có gì để sao nhãng mình. Chỉ có tôi và tâm trí tôi, sắp đối mặt nhau trên cánh đồng trống. Tôi nhớ hai chân mình rõ ràng run lên vì sợ. Rồi tôi đọc lại cho mình một trong những câu ưa thích của Sư phụ. “Sợ hãi à – ai quan tâm chứ?” và tôi xuống tàu một mình.
Tôi thuê một phòng nhỏ trên bãi biển với vài đôla một ngày rồi câm miệng và thề không mở miệng cho đến khi điều gì đó trong tôi thay đổi. Đảo Gili Meno là sự thật tối hậu và là phiên tòa hòa giải của tôi. Tôi đã chọn chính nơi đây để làm việc này – rõ ràng như vậy. Hòn đảo này nhỏ, tinh khôi, cát, nước xanh, những cây cọ. Nó là một vòng tròn hoàn hảo với một con đường duy nhất đi quanh, và ta có thể đi bộ hết cả chu vi này trong khoảng một giờ. Nó nằm gần đúng trên đường xích đạo cho nên gần như có một sự cố định trong chu kỳ mỗi ngày của nó. Mặt trời lên ở một phía của đảo vào khoảng sáu giờ rưỡi sáng và lặn ở phía kia vào khoảng sáu giờ rưỡi chiều, mỗi ngày trong năm. Nơi đây có một ít ngư dân Hồi giáo và gia đình họ cư ngụ. Không ở nơi nào trên hòn đảo này mà ta không thể nghe thấy biển. Ở đây không có xe máy. Có một máy phát chỉ phát điện vài giờ vào buổi tối. Đây là nơi yên tĩnh nhất tôi từng đến.
Mỗi sáng tôi đi dạo quanh chu vi hòn đảo lúc mặt trời lên, và đi dạo lần nữa vào lúc mặt trời lặn. Phần thời gian còn lại, tôi chỉ ngồi và nhìn. Nhìn những ý nghĩ của mình, nhìn cảm xúc của mình, nhìn những cư dân. Những nhà hiền triết Yoga nói tất cả nỗi đau, cũng như tất cả niềm vui của kiếp người do ngôn từ tạo nên. Chúng ta tạo ra ngôn từ để định nghĩa trải nghiệm của mình và những từ đó mang theo những cảm xúc đi kèm sẽ điều khiển chúng ta như chó bị xích. Chúng ta trở nên bị mê hoặc bởi chính những câu chú của mình (Mình là một thất bại... Mình cô đơn... Mình là một thất bại... Mình cô đơn) và chúng ta trở thành đền đài tưởng niệm cho chúng. Vậy thì, ngừng nói trong một chốc là cố gắng lột phắt quyền năng của ngôn từ, ngừng làm ta nghẹn từ ngữ, giải thoát ta khỏi những câu chú ngột ngạt.
Phải mất một thời gian tôi mới rơi vào yên lặng thật sự. Ngay cả sau khi ngừng nói, tôi thấy là mình vẫn ư ử với ngôn ngữ. Những cơ quan và cơ nói của tôi – não, cổ họng, ngực, gáy – rung động với những dư âm của trò chuyện rất lâu sau khi tôi thôi tạo ra âm thanh. Đầu tôi rung như thiết bị hồi âm của ngôn từ, giống kiểu một hồ bơi trong nhà dường như còn vang vọng mãi âm thanh và tiếng la hét, ngay cả sau khi bọn trẻ mẫu giáo đã đi khỏi. Phải mất một thời gian dài đáng ngạc nhiên thì tất cả sự rộn ràng của lời nói này mới mất đi, để âm thanh xoáy lốc lắng xuống. Có lẽ mất khoảng ba ngày.
Rồi tất cả lại bắt đầu xuất hiện. Trong trạng thái tĩnh lặng đó, vẫn còn chỗ cho tất cả mọi thứ thù hận, mọi thứ sợ hãi chạy qua tâm trí trống rỗng của tôi. Tôi cảm thấy kiểu như một tên nghiện bị giải độc, co giật với chất độc từ bất cứ thứ gì hiện lên. Tôi khóc rất nhiều. Tôi cầu nguyện rất nhiều. Rất khó khăn và rất đáng sợ - nhưng điều này thì tôi biết rõ – tôi chưa từng muốn ở đó, và tôi chưa từng ước ai khác ở đó cùng tôi. Tôi biết mình cần phải làm việc này và cần phải làm một mình.
Những du khách hiếm hoi khác trên đảo là một vài đôi đang có kỳ nghỉ lãng mạn (Gili Meno là một nơi quá xinh đẹp và quá xa xôi để đến trừ một người điên khùng đến đây một mình.) Tôi nhìn những đôi này và cảm thấy chút ghen tị với chuyện yêu đương của họ, nhưng biết là, “Đây không phải là thời gian có cặp có đôi của mi, Liz. Mi có một nhiệm vụ khác ở đây.” Tôi tránh xa mọi người. Mọi người trên đảo để mặc tôi. Tôi nghĩ mình đã phóng ra một bầu không khí ma quỷ. Cả năm rồi tôi không được ổn. Ta không thể mất ngủ đến thế và sút cân đến thế và khóc dữ lâu đến thế mà không bắt đầu trông như một người tâm thần. Nên chẳng ai trò chuyện với tôi.
Thực ra, điều đó không đúng. Có một người đã trò chuyện với tôi, mỗi ngày. Đó là một cậu bé, một trong đám trẻ con chạy tới chạy lui trên bãi biển cố bán trái cây tươi cho du khách. Cậu bé có lẽ đã chín tuổi, và có vẻ là một tên cầm đầu. Cậu bé dạn dĩ, thích gây gổ và tôi sẽ gọi cậu là ranh khôn đường phố nếu đảo của cậu thật sự có một con đường nào đó. Tôi nghĩ cậu là ranh khôn bãi biển. Không biết sao cậu học được tiếng Anh rất cừ, có lẽ bằng cách quấy rầy những người Tây phương tắm nắng. Và cậu đang nhắm tôi, cậu bé này. Chẳng có ai khác hỏi tôi là ai, không ai quấy rầy tôi, nhưng cậu bé hiếu động này thường đến ngồi cạnh tôi bên bãi biển vào một thời điểm nào đó trong ngày và hỏi, “Tại sao cô chẳng bao giờ nói vậy? Sao cô lạ như vậy? Đừng giả vờ là cô không nghe thấy tui đó – tui biết cô có thể nghe thấy tui. Sao lúc nào cô cũng một mình vậy? Sao cô chẳng bao giờ bơi? Bạn trai cô đâu? Sao cô không có chồng? Có chuyện gì với cô vậy?”
Tôi gần như nghĩ: lui ra, nhóc! Mi là ai chứ - một bản sao những ý nghĩ đen tối nhất của ta hả?
Mỗi ngày tôi cố cười hiền lành với cậu ta và xua cậu đi chỗ khác với một cử chỉ lịch sự, nhưng cậu bé không bỏ đi chừng nào chưa làm tôi phát khùng lên. Và không thể tránh khỏi, cậu luôn làm tôi phát khùng. Tôi nhớ là đã nổi xung lên với cậu một lần, “Tao không nói vì tao đang trong hành trình tâm linh chết tiệt, đồ vô dụng nhỏ bé bẩn thỉu – giờ thì BIẾN!”
Cậu ta cười chạy đi. Mỗi ngày, sau khi làm cho tôi phản phản ứng, cậu bỏ chạy và cười. Thường cuối cùng tôi cũng phải cười nữa, khi cậu khuất tầm mắt. Tôi sợ chú nhóc phiền toái này và mong chờ cậu nhiều như nhau. Cậu là quãng gián đoạn vui vẻ duy nhất trong hành trình thật sự khó khăn của tôi. Thánh Anthony từng viết là đã đi sâu vào hoang mạc để ẩn dật yên tĩnh và bị những ảo tượng khác nhau tấn công – ma quỷ và thiên thần, cả hai. Ngài nói, trong đơn độc của mình, đôi khi ngài chạm trán những ma quỷ trông như thiên thần, và lúc khác ngài thấy thiên thần trông như ma quỷ. Khi người ta hỏi ngài làm sao có thể chỉ ra được sự khác nhau, Thánh nói ta chỉ có thể phân biệt được nhờ cách ta cảm thấy sau khi sinh thể này thôi bầu bạn với ta. Nếu ta sợ hãi, ông nói, đó chính là ma quỷ vừa thăm ta. Nếu ta vui, đó là thiên thần.
Tôi nghĩ biết đồ vô dụng đó là gì, người luôn khiến tôi phải cười.
Vào ngày yên lặng thứ chín của mình, một buổi chiều trên bờ biển khi mặt trời đang lặn, tôi vào trạng thái thiền và không đứng dậy nữa cho đến sau nửa đêm. Tôi nhớ mình đã nghĩ, “Đây rồi, Liz.” Tôi nói với trí mình, “Đây là cơ hội của mi. Hãy cho ta thấy tất cả khiến mi sầu muộn. Hãy cho ta xem tất cả chúng. Đừng giữ lại thứ gì.” Từng đứa một, những ý nghĩ và ký ức buồn giơ tay lên, đứng lên tự giới thiệu. Tôi nhìn từng ý nghĩ, từng tên sầu muộn một, tôi công nhận sự tồn tại của nó và cảm thấy (không cố bảo vệ mình khỏi nó) nỗi đau khủng khiếp của nó. Và thế là tôi bảo nỗi sầu đó, “Thôi được. Ta yêu mi. Ta chấp nhận mi. Giờ hãy vào tim ta đi. Xong rồi.” Tôi thực sự đã cảm thấy nỗi sầu (như thể nó là một sinh vật) bước vào tim tôi (như thể tim tôi là một căn phòng có thực). Rồi tôi nói, “Người kế tiếp?” và một chút đau đớn kế tiếp hiện lên. Tôi nhìn kỹ nó, cảm thấy nó, chúc phúc nó, rồi cũng mời nó vào tim mình. Tôi làm như vậy với mỗi ý nghĩ buồn rầu mình có – trở về nhiều năm trước trong ký ức – cho đến khi chẳng còn lại gì.
Rồi tôi nói với trí tôi, “Giờ cho ta thấy sự giận dữ.” Lần lượt từng đứa một, mỗi sự kiện giận dữ trong đời tôi hiện lên và trình diện. Mọi sự bất công, mọi phản bội, mọi mất mát, mọi thịnh nộ. Tôi thấy tất cả chúng, từng đứa một, và tôi công nhận sự tồn tại của chúng. Tôi cảm thấy trọn vẹn từng giận dữ, như thể nó đang xảy ra lần đầu tiên, và rồi tôi nói, “Vào trong tim ta đi. Đã xong rồi. Các người có thể nghỉ yên ở đó. Giờ nó đã an toàn rồi. Đã xong rồi. Ta yêu các ngươi.” Việc này tiếp diễn hàng giờ, và tôi chao đảo giữa các cực cảm giác đối lập mạnh mẽ - cảm thấy cơn giận run người hoàn toàn trong một giây phút, và rồi cảm thấy một sự điềm tĩnh hoàn toàn, khi cơn giận bước vào tim tôi như thể qua một cánh cửa, nằm xuống, cuộn tròn cạnh anh em của nó và thôi không phân tranh nữa.
Rồi đến phần khó khăn nhất. “Cho ta thấy sự xấu hổ,” tôi yêu cầu tâm trí mình. Lạy Chúa, nỗi kinh hoàng tôi đã thấy lúc đó. Một cuộc diễu hành đáng thương với những thất bại của tôi, dối trá của tôi, ích kỷ của tôi, ghen tuông, kiêu ngạo của tôi. Dù sao,tôi không làm ngơ bất cứ đứa nào. “Hãy cho ta xem cái tồi tệ nhất,” tôi nói. Khi tôi cố mời những tên xấu hổ này vào tim mình, mỗi đứa chúng ngập ngừng ở cửa, nói, “Không – cô không muốn tôi vào đó đâu... Cô không biết tôi đã làm gì à?” và tôi nói, “Ta muốn các người. Ngay cả các người. Ta muốn. Ngay cả các người cũng được đón tiếp ở đây. Được mà. Các người đã được tha thứ. Các người là một phần của ta. Giờ các người có thể nghỉ ngơi. Đã xong rồi.”
Khi tất cả mọi chuyện này kết thúc, tôi trống rỗng. Không có gì xung đột trong tâm trí tôi nữa. Tôi nhìn vào tim mình, lòng tốt của chính mình, và tôi đã thấy khả năng của nó. Tôi thấy không chỉ tim mình đã gần đầy, không chỉ sau khi mời vào và chăm sóc tất cả những đứa cù bơ cù bất sầu muộn, giận dữ và xấu hổ, tai họa này; tim tôi còn có thể nhẹ nhàng đón nhận và tha thứ nhiều hơn nữa. Tình yêu của nó vô tận.
Lúc đó tôi hiểu rằng đây là cách Thượng Đế yêu thương tất cả chúng ta và đón nhận tất cả chúng ta, và rằng trong vũ trụ này không có thứ gì như địa ngục, ngoại trừ có lẽ chỉ có trong đầu óc kinh hãi. Vì nếu một con người hư hoại và hạn chế cũng có thể cảm nhận dù chỉ một cảnh đoạn tha thứ và chấp nhận tuyệt đối như vậy của bản ngã mình – thì hãy hình dung xem – chỉ hình dung thôi! – Thượng Đế, với tất cả cảm thông vĩnh cửu của Ngài, có thể tha thứ và chấp nhận điều gì.
Tôi cũng hiểu là sự nghỉ ngơi yên bình này thế nào cũng chỉ là tạm thời. Tôi biết là mình vẫn mãi mãi chưa hoàn tất mọi điều, rằng giận dữ của tôi, buồn bã của tôi và xấu hổ của tôi cuối cùng sẽ len lén trốn khỏi tim tôi, và trở lại xâm chiếm tâm trí tôi lần nữa. Tô biết mình sẽ phải đối phó với những ý nghĩ này nhiều lần nữa đến khi tôi từ từ và kiên quyết thay đổi toàn bộ đời sống của mình. Và rằng làm điều này sẽ khó khăn và kiệt sức. Nhưng tim tôi nói với trí tôi trong lặng câm tối mù của bãi biển, “Ta yêu ngươi, ta sẽ không bao giờ rời xa ngươi, ta sẽ luôn chăm sóc ngươi.” Lời hứa đó phát ra từ tim tôi, tôi chợt bắt gặp nó trong miệng mình và giữ nó ở đó, nếm nó khi tôi rời bãi biển và đi bộ trở về căn lều nhỏ nơi mình đang ở. Tôi tìm thấy một cuốn sổ tay trống, mở trang đầu tiên ra – và chỉ khi đó tôi mới mở miệng và nói những từ đó vào hư không, thả chúng ra. Tôi để những từ này phá vỡ im lặng của mình và rồi tôi cho phép cây bút chì của mình ghi lại phát biểu to lớn của chúng vào trang giấy:
“Ta yêu ngươi, ta sẽ không bao giờ rời xa ngươi, ta sẽ luôn chăm sóc ngươi.”
Đó là những lời đầu tiên tôi viết trong cuốn sổ riêng của mình mà từ đó trở đi tôi thường mang nó theo, trở lại với nó nhiều lần trong hai năm sau đó, luôn yêu cầu giúp đỡ - và luôn tìm thấy nó, ngay cả khi buồn thê thảm nhất hay e sợ nhất. Và cuốn sổ đó, thấm đẫm lời hứa về tình yêu ấy, rất đơn giản là lý do duy nhất khiến tôi sống sót trong những năm sau đó của đời mình.