Love gives light even in the darkest tunnel.

Anonymous

 
 
 
 
 
Tác giả: Samuel Butler
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 88
Phí download: 8 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1817 / 16
Cập nhật: 2017-09-14 17:11:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 84
rên đường chúng tôi trở về London, Ernest bắt đầu vạch kế hoạch chi tiêu cho một, hai năm tiếp theo. Tôi muốn nó thử tái nhập vào xã hội, nhưng nó gạt ngay như thể đó là thứ cuối cùng nó có ý muốn làm. Ngoại trừ vài người bạn thân thiết, còn lại nó luôn mang một ác cảm không thể xóa bỏ đối với toàn xã hội. ‘Con đã luôn ghét những người đó,’ nó nói, ‘và họ luôn ghét con và sẽ luôn ghét con. Con là một Ishmael[40] từ bản chất cũng như do ngẫu nhiên và do hoàn cảnh, nhưng nếu con tránh xa xã hội này thì con sẽ ít bị tổn thương hơn Ishmael. Chính từ thời khắc dấn thân vào xã hội, Ishmael bắt đầu bị bủa vây tổn hại tư bề.’
Tôi rất tiếc khi nghe nó nói như thế, bởi dù người ta có mạnh bao nhiêu đi chăng nữa, chắc chắn khi nối kết với người khác anh ta có thể nâng cao năng lực đó hơn là lúc hành động một mình. Tôi cũng đã bảo với nó như vậy.
‘Con không quan tâm,’ nó trả lời, ‘đến việc con có tối đa hóa được năng lực của mình hay không, con chẳng biết liệu con có năng lực mạnh mẽ nào không nữa, nhưng nếu có thì con dám nói rằng nó sẽ tự có cách vận dụng riêng nó. Con sẽ sống như con thích, chứ không phải như người ta thích, nhờ cô Alethea mà con có thể được hưởng niềm vui xa xỉ là sống một cuộc sống kín đáo trầm lặng theo ý muốn của mình,’ nó nói với giọng vui vẻ, ‘và con muốn như thế. Bố biết là con thích viết lách,’ nó dừng vài phút rồi nói tiếp, ‘con đã là một nhà văn hạng xoàng suốt nhiều năm qua. Và nếu như con có đạt đến được đỉnh cao nào đó, thì hẳn phải là trong nghề cầm bút.’
Nhận định này của nó tôi vốn đã xác định từ lâu rồi.
‘Tốt rồi,’ nó nói tiếp, ‘có nhiều việc cần được lên tiếng mà chẳng một ai dám nói ra, nhiều sự giả dối cần bị công kích mà chưa ai làm vậy. Dường như con có thể nói lên những điều mà không một ai ở anh quốc này ngoại trừ chính con dám mạo hiểm nói ra, mà đó lại là những điều phải được thét lên thành tiếng lớn mới phải.’
Tôi bảo nó, ‘Nhưng ai sẽ nghe đây? Nếu con nói những điều mà chẳng một ai dám nói thì chẳng phải nó cũng có nghĩa là ngoại trừ con ra tất cả mọi người đều hiểu được rằng lúc này chưa thể nói về chúng được, hay sao?’
‘Có lẽ vậy,’ nó nói, ‘nhưng con chẳng cần biết. Con đang khao khát muốn làm việc này, và số mệnh của con là nói lên chúng.’
Tôi biết sẽ chẳng có gì ngăn cản nổi nó, nên tôi để nó làm việc đó và hỏi xem những vấn đề nào ngay từ cái nhìn đầu tiên đã khiến nó đặc biệt khao khát muốn viết đến đổ máu vì chúng.
‘Hôn nhân,’ nó trả lời ngay, ‘và việc xử lý tài sản của một người vừa qua đời. Kitô giáo đã gắn chặt với những vấn đề tinh thần rồi, và nếu không phải thế thì cũng chẳng thiếu những người khác viết về chủ đề này. Còn hiện nay, vấn đề cần được nói ra chính là hôn nhân và hệ thống gia đình.
Tôi lãnh đạm trả lời, ‘Đó thực sự là một tổ ong chúa đó con à.’
‘Đúng,’ nó trả lời với giọng cũng chẳng hăng hái hơn gì tôi, ‘nhưng tổ ong chúa chính xác là những gì con muốn. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu chọc vào cái này, con cho rằng mình nên đi du lịch thêm vài năm nữa, chủ yếu để khám phá xem thử hiện nay, quốc gia nào tốt nhất, lịch sự nhất, và đáng yêu nhất, và cũng để xem thử vị trí đó trong quá khứ vốn thuộc về quốc gia nào nữa. Con muốn biết được người ta đang và đã sống thế nào, cũng như tìm hiểu về phong tục của họ.’
‘Dù chỉ mới thoáng có những ý niệm rất mơ hồ về việc này, nhưng con có một ấn tượng chung rằng, không kể quê hương chúng ta, thì những quốc gia mạnh mẽ nhất và hòa nhã nhất được biết đến gồm có nước Ý hiện đại, Hy Lạp và Roma cổ đại, cùng với những Đảo quốc ở Nam Dương. Con tin theo lẽ thường thì những con người dễ thương này không chạy theo chủ nghĩa thuần túy, nhưng con muốn đến tìm xem những gì người ta chưa thấy ra, và họ chính là lời giải thực tế cho vấn đề ‘Điều gì là tốt nhất cho con người?’ rồi con muốn quan sát họ và tìm hiểu xem cách họ sống như thế nào. Chúng ta hãy xác định hiện thực trước rồi mới đấu tranh về vấn đề khuynh hướng đạo đức sau.’
‘Thực sự thì,’ tôi vui vẻ nói, ‘con muốn có một thời gian đầy hứng thú và vui vẻ.’
‘Chẳng hứng thú mà cũng không tẻ nhạt hơn những người hạnh phúc nhất mọi thời đại mà con có thể sẽ tìm ra được đâu. Nhưng thôi, chúng ta nên đổi chủ đề ở đây.’ Nó đưa tay vào túi áo và lấy ra một lá thư. ‘Sáng nay, cha con đã đưa cho con lá thư bị mở triện này.’ Nó chuyền qua cho tôi, và tôi thấy đó là một lá thư Christina đã viết trước khi sinh đứa con cuối cùng, mà tôi cũng đã cho các bạn xem lá thư này trong những chương trước rồi.
‘Và con không thấy lá thư này,’ tôi bảo nó, ‘có tác động gì đến quyết định mà con vừa nói với bố về kế hoạch vừa rồi đó chứ?’
Nó mỉm cười rồi trả lời, ‘Không. Nhưng nếu bố có thời gian để kể lại và chuyển cuộc đời lang bạt chẳng đáng gì của con thành tiểu thuyết thì phiền bố đưa lá thư này vào đó với.’
‘Tại sao lại thế?’ tôi nói, mà lòng thấy như thể lá thư này phải được giữ xa khỏi tầm mắt xoi mói của công chúng vậy.
‘Bởi mẹ con hẳn đã mong nó được xuất bản, nếu bà biết là bố viết về con và bố có trong tay lá thư này, thì điều bà mong muốn nhất chính là bố hãy công bố nó ra. Bởi vậy nếu bố có viết thì hãy làm như thế đi.’ Và do đó tôi đã làm thế thật.
Trong vòng một tháng Ernest đã biến dự định của mình thành hiện thực, và cũng đã sắp xếp hết tất cả những gì cần thiết cho các con của nó, rồi lên đường trước khi Giáng Sinh về.
Tôi cứ dõi theo nó và biết rằng nó đang đi thăm thú gần như hết mọi nơi trên đời này, nhưng chỉ dừng lại những nơi nó thấy người dân đặc biệt dễ thương và dễ chịu. Nó bảo rằng nó đã viết đầy hàng loạt quyển ghi chú, và tôi chẳng chút nghi ngờ gì về điều đó. Cuối cùng, nó về lại anh quốc năm 1867, với hành lý phủ đầy những mẩu quảng cáo của vô số khách sạn từ đây cho đến tận Nhật Bản. Trông nó rám nắng và tráng kiện, và vẻ ngoài đẹp hơn rất nhiều như thể nó đã hấp thụ được vẻ đẹp của người dân ở những nơi mà nó từng đặt chân đến vậy. Sau khi trở lại căn hộ cũ ở khu Thánh Đường, nó tái nhập vào cuộc sống thật dễ dàng như thể chưa từng có chuyến đi xa nào. Một trong những việc đầu tiên chúng tôi làm là đi thăm bọn trẻ. Sau khi bắt tàu đến Gravesend, rồi từ đó đi bộ khoảng vài dặm dọc bờ sông đến ngôi nhà biệt lập mà Ernest đã nhờ đôi vợ chồng tốt bụng nuôi dưỡng bọn trẻ. Hôm đó là một sáng tháng Tư dễ chịu, với làn gió trong lành thổi nhẹ nhàng từ biển, triều đang lên, và dòng sông trông thật sống động với những con thuyền đang lên theo gió và triều dâng. Đám mòng biển chao lượn trên đầu chúng tôi, và hai bên bờ những nơi triều lên chưa dâng đều phủ kín cỏ biển, tất cả mọi thứ đều mang hương vị biển cả, và làn gió trong lành thổi trên mặt nước khiến tôi cảm thấy đói bụng hơn bình thường. Tôi thật chẳng tìm đâu ra nơi nào có không khí tốt lành cho bọn trẻ hơn ở đây, và khen Ernest vì đã biết chọn chỗ tốt cho con cái mình.
Khi cách ngôi nhà khoảng nửa dặm, chúng tôi nghe thấy tiếng trẻ con đang reo hò cười đùa, và có thể thấy được rất đông bé trai bé gái đang nô đùa rượt đuổi nhau. Lúc đầu, chúng tôi chẳng thể nhận ra được hai đứa trẻ của mình, nhưng ngay lập tức phân biệt được khi đến gần hơn, bởi những đứa trẻ khác đều mắt xanh và tóc hoe, còn hai đứa con của Ernest lại có màu mắt đậm và tóc thẳng.
Chúng tôi đã viết thư báo là sẽ đến, nhưng cũng bảo họ đừng nói gì với bọn trẻ, nên chúng chẳng chú ý gì nhiều đến chúng tôi và chỉ xem như những người lạ khác, vốn chẳng thường ghé đến nơi này ngoại trừ những người thích biển, mà chúng tôi rõ ràng không phải như vậy rồi. Tuy nhiên, chúng nhanh chóng chú ý nhiều đến chúng tôi khi thấy chúng tôi mang bên mình những bọc đầy cam và bánh kẹo, quá nhiều so với trí tưởng tượng bé nhỏ của chúng có thể nghĩ đến. Lúc đầu, chúng tôi rất khó để kéo chúng lại gần. Những đứa trẻ này hệt như lũ ngựa con, rất tò mò, nhưng cũng cực kỳ nhút nhát và khó lấy lòng. Có tất cả chín đứa trẻ, năm trai hai gái là con của ông bà Rolling, và còn lại là hai đứa con của Ernest. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều trẻ con dễ thương đến vậy, các bé trai trông thật dày dặn, khỏe mạnh, và bạo dạn với đôi mắt sáng như chim ưng, bé gái lớn rất xinh xắn sắc sảo, bé còn lại thì vẫn còn quá nhỏ. Khi ngắm chúng, tôi nghĩ rằng nếu tôi có con cái thì chẳng mong một nơi ở nào tốt hơn nơi này, và chẳng mong bạn bè nào cho chúng tốt hơn đám trẻ này đâu.
Georgie và Alice, hai đứa con của Ernest, rõ ràng đang chơi như người một nhà với chúng, và gọi ông bà rolling là cậu và dì. Khi được đưa đến đây, chúng hãy còn quá nhỏ, nên được xem như thể vừa mới được sinh ra trong nhà này vậy. Chúng chẳng hề biết rằng chúng tôi đã trả rất hậu cho vợ chồng nhà này để chăm sóc chúng. Ernest hỏi xem sau này lớn lên chúng muốn làm gì. Tất cả bọn trẻ đều chỉ có chung một ý nghĩ, cả Georgie cũng vậy, là muốn làm một người gác xà lan. Đúng là những con vịt con chẳng thể có được ao ước nào khác ngoài việc được xuống nước.
‘Còn con muốn làm gì, Alice?’ Ernest hỏi con bé.
‘Ôi,’ nó trả lời, ‘con sẽ cưới anh Jack đây, và làm vợ một người coi xà lan.’
Jack là đứa trẻ lớn nhất, khoảng độ mười hai tuổi, và khá cứng cáp, có lẽ nó cũng là hình ảnh của ông Rolling vào độ tuổi chừng đó. Khi nhìn vào thằng bé vốn rất thẳng thắn và được nuôi nấng tốt này, tôi có thể thấy Ernest đang cùng suy nghĩ với tôi là Alice hầu như chẳng thể kiếm được ai khác tốt hơn Jack nữa đâu.
‘Lại đây nào Jack, cậu bé của ta,’ Ernest gọi, ‘ta cho con một shilling này.’ Thằng nhỏ lúng túng và gần như chẳng thể lại gần chúng tôi dù trước đó vốn đã gần gũi chúng tôi đôi chút, bởi từ trước đến giờ, cũng có những người cho nó vài xu, nhưng chưa một ai cho nó vài shilling bao giờ. Cha nó nhẹ nhàng kéo tai và đẩy nó đến chỗ chúng tôi.
‘Jack là một đứa trẻ tốt,’ Ernest nói với ông Rolling, ‘tôi chắc như vậy.’
‘Vâng,’ ông chủ nhà trả lời, ‘nó là một đứa trẻ khá tốt, chỉ có điều tôi chẳng thể bắt nó học đọc và viết. Nó không thích đến trường, và đó là điều duy nhất tôi phiền lòng. Tôi chẳng biết có chuyện gì xảy ra với đám con tôi và con ông nữa, ông Pontifex ạ, bởi chẳng đứa nào trong chúng thích đọc sách cả, dù chúng vốn học rất nhanh. Thế đó, còn bé Jack đây, nó gần như sẽ là một người gác xà lan giỏi như tôi vậy.’ rồi ông nhìn đám con mình với vẻ đầy trìu mến và tự hào.
‘Tôi nghĩ,’ Ernest bảo ông Rolling, ‘nếu nó muốn cưới Alice lúc lớn hơn, thì rất tốt, và nó sẽ được tặng bao nhiêu xà lan tùy thích. Còn trong lúc đó, ông Rolling à, hãy cứ dùng tiền theo cách của ông, và làm sao cho hữu ích tùy ý ông sắp đặt.’
Tôi gần như chẳng cần nói các bạn cũng thấy Ernest rất dễ dãi với hai vợ chồng nhà Rolling, tuy nhiên nó nhấn mạnh một điều khoản là họ không được buôn lậu nữa, và không được để bọn trẻ dính vào việc này, bởi có nguồn tin báo cho nó biết rằng một trong những nguồn sống của nhà này là nhờ vào buôn lậu. Ông Rolling không thấy phiền lòng gì khi phải bỏ việc này, và tôi tin rằng thế nào suốt những năm qua nhà này cũng đã bị những viên chức tuần tra ven biển nghi ngờ về tội trốn thuế rồi.
‘Tại sao con lại phải tách chúng khỏi nơi chúng đang ở,’ Ernest bảo với tôi khi đang trên tàu về nhà, ‘để rồi gởi chúng đến trường, nơi mà chúng sẽ chẳng thấy hạnh phúc chút nào, và là nơi sẽ khiến chúng phải lo lắng nhiều? Georgie muốn làm một người gác xà lan, cứ để nó làm như thế càng sớm càng tốt, nó có thể khởi đầu tốt đẹp với việc này hệt như mọi việc khác, rồi nếu nó thể hiện được sự tiến bộ, con có thể xem xét hỗ trợ và giúp cho mọi việc của nó dễ dàng hơn, còn nếu nó không có chí tiến thủ, thì chẳng có gì thúc đẩy nó tiến lên nổi.’
Tôi tin rằng Ernest đang nghĩ đến một bài giảng về giáo dục nói chung, và về con đường ban đầu mà các thanh niên nên đi theo, nghĩa là vận dụng tiền bạc và sức lực tay chân ngang nhau, khởi nghiệp từ một vị thế xã hội thấp hơn của cha mẹ, và thậm chí còn xuống xa hơn vị thế thực của mình nữa. Nhưng tôi đã nghĩ về chuyện này quá nhiều rồi, hơn nữa chuyến đi bộ và làn gió nhẹ đã khiến tôi thấy buồn ngủ, nên từ trước lúc tàu qua nhà ga Greenhithe, tôi đã chìm sâu vào giấc ngủ khoan khoái rồi.
Xác Thịt Về Đâu Xác Thịt Về Đâu - Samuel Butler Xác Thịt Về Đâu