Số lần đọc/download: 1025 / 8
Cập nhật: 2016-03-20 21:01:46 +0700
Chương 77
T
ôi chạy. Một viên đạn bên hông. Qua các con phố và ngõ ngách, qua đêm đen, qua nỗi đau, tôi chạy. Và kiểu gì đó tôi thoát. Tên lính quá chậm. Không có tên lính nào khác ở gần đó nghe hắn gọi giúp đỡ. Quá nhiều người gào hét và chạy, sợ hãi trước tiếng súng. Tôi chạy qua họ, chạy xuống một con ngõ, qua một cái sân, và hòa vào một con phố đen kịt.
Tôi tiếp tục chạy. Về phía Nam. Về Cung điện Hoàng gia. Nhà Foy còn mở cửa khi tôi đến đó. Mọi người đang ăn uống. Bếp vẫn bận rộn. Tôi đợi cạnh cửa, trong bóng tối. Khi có cơ hội, tôi lao vụt vào trong hầm. Tôi đi qua được hành lang. Tôi đi qua những cái bếp trống không của Orléans, lên cầu thang, qua những phòng trống đầy vang vọng, vào phòng ăn, nơi tôi ngất xỉu trên nền đá lạnh.
Tôi nằm đó một lúc và khi tôi đủ dũng cảm, tôi sờ vào vết thương. Có một lỗ ở cuối xương sườn tôi. Trong bóng đêm, tựa như máu màu đen trên tay tôi. Tôi nhắm mắt lại và cố nghĩ. Phải làm gì. Và đi đâu. Tôi không có tiền, không có gì cả. Tên lính đã cầm thùng đàn của tôi.
Túi xách và guitar của tôi thì ở phòng của Amadé. Tất cả những gì tôi có là đèn pin nhét trong bốt. Tôi nghe tiếng bước chân. Chắc là một tên lính rồi. Hắn sẽ kéo tôi ra khỏi đây và tôi không thể làm gì được. Tôi không có sức để trốn. Tôi nhắm mắt lại và đợi. Tiếng bước chân đến gần hơn.
Chúng đến cửa và dừng lại. “Chúa ơi. Cậu đã làm gì?” Tôi mở mắt ra. Đó là Amadé. “Tôi đã cố giúp thằng bé,” tôi nói. “Đồ ngu xuẩn, cái đồ ngu xuẩn cực ngu xuẩn.” Anh quỳ xuống, mở áo khoác của tôi ra. “Cậu còn sống chứ?” “Chắc thế.” “Vậy thì cậu phải đứng dậy.
Bây giờ. Lính đang tới.” “Tôi không thể.” Amadé vụt lại gần tôi. Anh cầm tay tôi và đỡ tôi đứng lên. Tôi hét lên. “Đứng dậy!” anh hét. Tôi đứng, và cảm thấy máu rỏ ra từ vết thương. Anh quàng tay tôi qua cổ anh. Chúng tôi loạng choạng ra khỏi phòng ăn, và ra tiền sảnh.
“Cửa khóa rồi,” tôi bảo anh. “Có thể có chìa khóa đâu đó,” anh nói. Chúng tôi đi rất nhanh. “Sao anh tìm được tôi?” tôi hỏi anh. “Tôi tới Foy để ăn. Khắp nơi náo loạn. Trong phòng ăn, trong bếp, ngoài phố. Tôi hỏi Luc đã xảy ra chuyện gì. Ông ta bảo Bênôit thấy cậu chạy vào hầm.
Nó thấy cậu đang chảy máu và biết cậu là Người Xanh. Nó chạy đi gọi lính ngay.” “Và anh đi qua hầm để tìm tôi?” “Phải. Trên đường đi tôi cứ gào suốt là tôi sẽ tóm cậu và đích thân kéo cậu tới chỗ Bonaparte để đánh lừa chúng. Luc sợ không dám đi theo. Ông ta nghĩ cậu có vũ khí.
Ông ta nói…” Đúng lúc đó chúng tôi nghe thấy nó. Một tiếng nện trên cửa. Lớn và dứt khoát. Và rồi có tiếng gỗ nứt ra. Amadé chửi thề. “Bọn lính đấy,” anh nói. “Mình phải quay lại. Nhanh lên!” Anh kéo tôi đi qua khắp các phòng, khóa tất cả các cửa lại sau lưng chúng tôi. “Bọn chúng có rìu.
Cửa khóa chẳng ngăn được đâu,” tôi nói. “Sẽ làm bọn chúng bị chậm lại.” “Ta không thể ra ngoài. Hay xuống.” “Vậy ta sẽ đi lên.” Quay lại phòng vũ hội, thư viện, phòng đánh bài, phòng ăn, và lên một cầu thang. Một cái nữa. Và một cái nữa. Quần áo tôi ướt đẫm máu.
Chúng tôi nghe thấy tiếng hét từ bên dưới. Lính đã vào trong. Chúng tôi lên được tầng trên cùng, những phòng áp mái. Amadé thả tôi ra và tôi chuội xuống sàn trong khi anh chạy đi chạy lại qua các phòng và hành lang, tìm một hành lang nối liền, một cái cửa bí mật, một lối ra khỏi nhà của Orléans dẫn sang nhà hàng xóm.
Và trong khi đó, tôi nghe thấy tiếng hét ra lệnh, và tiếng gỗ bị phá. Amadé quay lại với tôi. “Tôi không tìm thấy gì cả. Không có lối ra,” anh nói, thở hồng hộc. Anh nện tay lên trán. Đi qua đi lại. Rồi đỡ tôi đứng lên lại và kéo tôi vào phòng đầu tiên anh tìm thấy. Phòng của Alex.
“Chúng ta sẽ ra ngoài cửa sổ. Lên mái nhà. Cậu rất giỏi trèo mái nhà, chả phải à?” “Tôi không đi được, Amadé. Anh đi đi. Thoát khỏi đây.” Nhưng anh không chịu nghe. Anh mở cửa sổ, và nhoài người ra. “Cuối cùng thì cũng có chút may mắn,” anh nói. Anh kéo tôi sau anh, ra một ban công hẹp chạy dọc toàn bộ chái nhà.
Nó là một lối đi rất hẹp. Tôi thấy cả sân bên dưới. Chúng tôi đi từ phía trông ra phố của cung điện, vào bên trong. Tôi thấy người bên dưới, nhưng họ không thấy bọn tôi. Amadé cúi xuống và bắt tôi cúi nữa, và tôi nghĩ tôi sẽ chết vì đau mất. Chúng tôi đi trên ban công, lướt qua và trượt trên những viên ngói trơn, qua một cửa sổ, tới một cái khác, cho đến khi chúng tôi đi hết toàn bộ chiều dài căn nhà.
Có một góc, rồi một chái nhà khác với một loạt cửa sổ chớp. Một cửa sổ sáng đèn. “Nhảy,” Amadé nói. “Cậu phải nhảy.” Tôi hất một chân qua chấn song ban công, rồi chân khác, rồi tôi nhảy sang phía bên kia, há hốc mồm ra thở khi tôi xuống tới nơi. Amadé theo sau và chúng tôi nhanh chóng leo qua chấn song và bước tới chỗ cửa sổ sáng.
Nó mở toang. Amadé vào trong. Tôi theo anh. Một cô gái mặc đồ ngủ đang rửa mặt ở chậu rửa. Cô nhìn thấy chúng tôi và hét lên. Chúng tôi chạy qua cô, ra khỏi phòng, và xuống hết lượt cầu thang này tới lượt cầu thang kia, cho tới khi chúng tôi xuống tới tầng trệt, trong một cửa hàng trang sức.
Cửa bị khóa, nhưng Amadé tìm được khóa treo trên tường cạnh đó. Anh thọc chìa vào ổ và xoay, khi cửa sắp mở thì anh nhìn tôi. Nửa bên trái áo khoác của tôi đẫm máu. “Dựa vào tôi,” anh nói. Anh đưa tôi ra, khóa cửa, cho chìa vào túi, rồi vội dìu tôi ra sân. Nhiều người tụ tập ở đó, do tiếng hét của cô gái.
“Người Xanh ở đó! Trên đó! Amadé hét lên, chỉ lên phía trên. “Hắn bắn bạn tôi! Còn giờ hắn đang giết một cô gái! Cứu cô ấy với! Ai cứu cô ấy với!” Mọi người há hốc mồm và la hét. Họ chỉ lên chỗ cửa sổ sáng đèn. Lính gác ùa vào một lối đi, chừng mười hay mười hai thằng, súng trường sẵn sàng.
“Hắn đang giết cô ấy!” một phụ nữ kêu lên. “Cứu cô ấy đi!” “Người Xanh!” một gã hét. “Trên đó! Nhanh lên.” Một tên lính cố mở cửa vào cửa hàng trang sức. Hắn nện cửa. Rồi ra hiệu cho các tên khác đạp đổ. Amadé và tôi len qua đám đông. “Tránh đường! Tránh đường!” Amadé hét.
“Bạn tôi cần một bác sĩ!” Chúng tôi đi qua lối đi nơi bọn lính vào và rồi ra khỏi Cung điện Hoàng gia. Chúng tôi đi về phía Đông. Anh định đưa tôi về phòng và gọi một phụ nữ giỏi xử lý vết thương một khi chúng tôi về đến. Nhưng khi rẽ sang Rue Saint Honoré, chúng tôi thấy phố đầy lính.
“Amadé, mình không xuống đó được đâu. Bỏ tôi ở đây đi.” “Không! Tôi sẽ không bỏ cậu trên phố!” anh tóm lấy tay tôi, bắt đầu quay lại đường chúng tôi vừa đi. Tôi giật tay ra. “Tôi không đi được nữa. Tôi không thể.” “Chỉ một chút nữa thôi. Vẫn còn một nơi tôi có thể đưa cậu tới,” anh nói.
“Một nơi bọn chúng sẽ không tìm tới.” “Chỗ nào?” “Hầm mộ. Trốn ở đó tốt lắm.” Phải, đúng thế. Và thậm chí là một nơi rất tốt để chết. 85. Quay lại qua nhà thờ. Quay lại thông qua hầm mộ. Quay lại tới chỗ mộ phần. Amadé nửa kéo nửa đưa tôi xuống những bậc thềm bằng đá, qua các đường hầm, qua những người chết lặng im và buồn bã.
Chúng tôi loạng choạng, chỉ nhờ ánh sáng đèn lồng mà chúng tôi ăn cắp được ở nhà thờ, xuống những sảnh đá trắng, xuống sâu hơn vào trong hầm mộ, sâu dưới lòng đất. Cho tới khi cuối cùng anh dừng lại và nhẹ nhàng thả tôi xuống, cho tới khi tôi ngồi trên nền đất, dựa lưng vào tường.
Rồi anh quỳ gối xuống cạnh tôi. “Cậu có mang đèn chứ?” anh hỏi tôi. “Ừ.” Nó nằm trong bốt tôi. Tôi lấy ra. Tôi bật lên. Ánh đèn rất yếu. “Tôi sẽ quay lại nhờ cứu giúp. Nhanh hết mức có thể. Cái bà đó có thể chữa cho cậu.” Tôi gật đầu, nhưng tôi không tin lời anh.
Mà anh cũng không tin. “Nếu chúng thẩm vấn anh thì bảo là tôi có súng lục,” tôi bảo anh. “Bảo tôi dí vào lưng anh. Rồi anh trốn thoát được ngay khi có thể.” “Chả được đâu. Chúng sẽ tống tôi vào tù.” “Sẽ được. Được mà, Amadé. Cũng như quãng ba cung và La thứ. Đừng quên điều đó.
Jimmy Page cần cậu. Thế giới sẽ không còn như trước nếu không có bản ‘Stairway’.” Tôi vươn tới, rên rỉ vì đau, và hôn lên má anh. “Cám ơn anh,” tôi nói, rồi lại ngã vào tường. Anh cầm đèn lồng lên, như thể định đi, rồi lại đặt xuống. “Hôm nay tôi viết nhạc. Cậu biết không?” anh nói.
“Nó hay lắm. “Hay hơn bất cứ thứ gì tôi từng biết. Nó sẽ là một bản concerto giọng La thứ. Tôi viết nó vì có pháo hoa. Bởi chúng tạo ra ánh sáng. Và hy vọng. Bởi chúng là điều không thể.” “Bản giao hưởng Pháo hoa,” tôi vừa thì thầm vừa mỉm cười. “Sao cậu lại làm việc này?” giọng anh đứt quãng.
Mắt anh long lanh nước. “Sao cậu lại hy sinh đời mình không vì gì cả? Thằng bé đó sẽ chết. Chính cậu đã nói thế. Giờ thì cậu cũng sẽ chết. Và chính tôi nữa. Khi bọn lính tóm được tôi. Tôi toi luôn. Và vì cái gì? Cậu thay đổi được gì chứ? Ánh sáng cậu tạo ra đã bị tiêu hủy.
Hy vọng bị giẫm đạp. Cái thế giới khốn nạn này vẫn tiếp tục, hôm nay cũng như ngày mai đều ngu xuẩn và bạo tàn.” Tôi biết những câu này. Orléans đã nói với Alex và cô đã viết ra. Trong trang nhật ký cuối cùng. Bằng hơi thở cuối cùng. Tôi mệt quá, rất mệt. Và yếu. Và mọi thứ nhạt nhòa dần.
Nhưng đột nhiên tôi bật cười. Tôi không kìm chế được. Giờ thì tôi hiểu. Tôi biết Alex muốn nói với tôi điều gì. Tôi biết câu trả lời. Tôi biết nhật ký của cô kết thúc thế nào. Không phải với một vết máu, không phải với cái chết. “Ôi, người chết kia, anh sai lầm quá rồi,” tôi nói với anh.
“Thế giới vẫn tiếp diễn ngu xuẩn và bạo tàn, nhưng tôi thì không. Anh không hiểu ư? Tôi thì không.” Thiên đường Thầy hướng dẫn và tôi theo con đường khuất đó, Chúng tôi trở lại thế giới sáng sủa, Và chẳng một chút quan tâm đến việc nghỉ ngơi! Chúng tôi trèo lên, Thầy thứ nhất, tôi thứ hai, Cho tới khi, cuối cùng, thấy được những sự vật đẹp đẽ, Mà trời chuyên chở và theo một lỗ tròn nhỏ, Chúng tôi đi ra từ đó và thấy lại các vì sao!