Số lần đọc/download: 1025 / 8
Cập nhật: 2016-03-20 21:01:46 +0700
Chương 69
V
ẫn mấy hợp âm đó. Lặp đi lặp lại. Chẳng tiến triển gì. Amadé đang ngồi ở một đầu bàn. Tôi ở đầu kia cố để anh nói chuyện với tôi. “Anh muốn tôi nói xin lỗi à? Tôi không có lỗi. Tôi sẽ làm lại chuyện đó.” Anh không đáp gì. Tôi rời khỏi Temple sau khi tên gác đánh tôi.
Tôi mua dây mới, rồi đến Cung điện Hoàng gia chơi. Gã bạn say của tôi có ở đó. Hắn ta lại gọi tôi là Pocahontas. Bảo hắn ta thích máu trên mặt tôi, nó khiến tôi trông thậm chí hoang dã hơn. Tôi bảo hắn ta tôi bị dính máu khi tôi lột da đầu cái thằng ngu vừa rồi định sờ soạng tôi.
Tôi bảo hắn tôi sẽ lột cả da đầu hắn nữa, nếu hắn còn đụng tay lên người tôi. Hắn ép tay lên tim, bảo tôi là hắn yêu tôi, và ném tiền vào thùng guitar của tôi. Và lần này tôi lượm được lên trước khi thằng nhỏ mù lấy. Tôi mua thức ăn và khúc xương cho Hugo và một nửa pao cà phê.
Nó đắt kinh khủng nhưng tôi biết mình sẽ không về lại được phòng của Amadé nếu không có cà phê. “Nó là một đứa trẻ, Amadé ơi. Cô độc và đang chết dần chết mòn,” lúc này tôi bảo anh. “Nói thêm một lời nào về chuyện đó nữa là tôi đá cậu ra ngoài.” “Đá đi. Tôi sẽ mang theo cà phê.” Anh gườm tôi.
“Nó vừa lạnh vừa đói. Khổ sở trong bóng tối.” “Không có chuyện đó. Nó được chăm sóc tốt.” “Nó bị ốm với cả nó đau đớn và nó đã bị thế nhiều năm rồi, Amadé. Nhiều năm rồi.” “Làm sao cậu biết được?” “Sách vở. Hàng chục cuốn sẽ viết về Cách mạng. Hàng trăm.
Hai thế kỷ sau khi nó xảy ra người ta vẫn sẽ cố hiểu nó.” “Cách mạng qua rồi. Kết thúc rồi. Xong rồi.” Tôi bật cười. “Nó không bao giờ kết thúc. Anh đã có một nhà vua. Trong một hai năm sau anh có một ông khác.” “Chuyện gì sẽ xảy ra?” “Tôi nói với anh rồi. Bonaparte chiếm quyền.
Tự ban cho mình là hoàng đế đội vương miệng. Đó chính là điều mà tất cả mọi người đang đấu tranh để bỏ đi. Ông ta gây ra chiến tranh trên thế giới. Làm mọi chuyện hỏng bét. Lớn phết.” “Ý tôi là với thằng bé.” Tôi nhìn đi chỗ khác. “Nếu cậu biết nhiều thế thì nói cho tôi biết chuyện gì sẽ xảy đến với nó.” “Nó chết,” tôi khẽ khàng nói.
Amadé cười khịt mũi. “Vậy thì tại sao cậu lại bận tâm? Ích gì chứ?” Tôi không trả lời anh được. “Cậu điên rồi. Có lẽ là do cú ngã. Có lẽ cậu lúc nào cũng điên sẵn. Tôi không biết. Điều tôi biết là cậu không bao giờ được làm chuyện hôm nay cậu đã làm. Lần tới chúng sẽ giết cậu.” Đột nhiên anh dừng lại, trông như thể anh đang cân nhắc lời nói.
Rồi anh nói, “Cậu cũng phải ngừng cái việc mà cậu làm vào ban đêm.” “Ừm… tôi làm gì vào ban đêm? Ngáy à?” Anh nện nắm tay xuống bàn, làm tôi giật bắn cả mình. “Đây không phải chuyện đùa!” anh hét lên. “Có tiền thưởng cho cái đầu của cậu đấy! Tướng Bonaparte muốn cậu chết! Cậu phải thôi đốt pháo hoa đi, nếu không sẽ chết sớm.” Tôi không hiểu.
Không một chút. Và rồi tôi hiểu ra. “Hượm đã…,” tôi nói, phá lên cười. “Amade, không phải anh nghĩ rằng tôi chính là Người Xanh đấy chứ?” Anh không trả lời ngay. Anh chỉ nhìn tôi chằm chằm. Sau một khoảng thời gian dường như dài vô tận, anh nói, “Cậu nghĩ vì sao mà tôi giúp cậu? Cho cậu ở nhờ? Không để cậu ra đường nhỡ bọn lính tìm thấy cậu? Tôi đoán được cậu là ai ngay từ lần đầu tôi thấy cậu trong hầm mộ.
Từ chiếc chìa khóa trên cổ cậu. Tôi nhìn thấy chữ L trên đó. Viết tắt cho Louis, thằng bé mồ côi trong tòa tháp. Nó chính là người mà cậu đốt pháo hoa cho, phải không?” “Không, Amade, anh sai rồi. Tôi không…” Anh không để tôi nói nốt. “Rồi hôm nay, tại Temple. Nếu tôi mà có nghi ngờ gì thì chuyện cậu làm ở đó xóa sạch hết.
Khi đó tôi biết cậu chính là Người Xanh. Cậu mạo hiểm mạng sống của mình cho nó. Cậu thắp sáng bầu trời để nó biết là nó không bị quên lãng.” “Nghe này, tôi không phải là Người Xanh. Thề với Chúa tôi không phải.” Anh lắc đầu, lộ vẻ kinh tởm. Anh đặt đàn xuống và đi lại chỗ bệ lò sưởi.
Trên đó có một cái hộp gỗ. Anh lấy một thứ trong đó ra và đặt trên bàn trước mặt tôi. Nó là một cái khung nhỏ bằng gỗ mun có hai bức ảnh chân dung thu nhỏ. Một người đàn ông và một phụ nữ, trông vương giả và lịch lãm, cả hai đều cầm hoa hồng. Tôi đã nhìn thấy họ trước kia.
Họ có trong bức chân dung của Amadé, bức treo trong nhà ông gần Bois de Boulogne. Cái bảng trên tường cạnh tấm chân dung ghi rằng đó là Amadé và vợ chưa cưới, nhưng lúc này nhìn vào họ, tôi không chắc là đúng như vậy. “Họ là ai?” tôi hỏi anh. “Bá tước và Nữ Bá tước d’Auverge. Cha mẹ tôi,” anh nói.
“Amadé, anh là quý tộc á?” tôi nói, sửng sốt. Anh gật đầu. “Nhưng trong sách vở… họ không nói thế. Họ chỉ nói anh đến Paris vào năm 1794.” “Tôi không biết cậu nói đến sách nào, nhưng đúng thế, tôi đến Paris vào năm 1794. Tôi không còn lựa chọn nào,” anh nói. Rồi anh ngồi xuống và kể cho tôi nghe họ đã sống như thế nào – cha anh, mẹ anh, và anh – trong một lâu đài cổ ở miền quê vùng Auverge.
Ở đó rất đẹp. Anh hạnh phúc. Cha mẹ anh đều có năng khiếu âm nhạc và chuẩn bị mọi thứ để anh cũng được học nhạc. Anh học chơi dương cầm, vĩ cầm, và guitar từ hồi còn rất bé. Anh có tiềm năng lớn và sáng tác nhạc từ lúc lên tám. Họ có kế hoạch cho anh đi Viên học sau khi anh mười bốn tuổi.
Đó là mùa thu năm 1789. “Tuy vậy, vài tháng trước khi tôi đi, cha tôi, là một thành viên của giới quý tộc, bị triệu tập tới một cuộc họp của Ba đẳng cấp ở Versailles. Tôi hoãn chuyến đi – chỉ vài tuần thôi, hoặc tôi nghĩ vậy – để mẹ tôi không phải ở nhà một mình. Đó là lúc cách mạng bắt đầu.
Và là lúc gia đình tôi kết thúc,” anh nói với tôi. “Chuyện gì đã xảy ra,” tôi hỏi, sợ câu trả lời của anh. “Như rất nhiều người thuộc giới quý tộc, cha tôi ủng hộ các cải cách mà những người làm cách mạng đòi,” anh nói. “Đất nước bị phá sản. Chế độ cai trị cũ thối nát.
Nước Pháp cần thay đổi và ông nhìn thấy điều đó. Tuy nhiên, sau những cuộc tấn công vào cung điện Tuileries, sau các cuộc thảm sát, ông hết chịu nổi. Ông nhận ra một con quái vật đã được tạo ra nhưng giết nó thì quá muộn rồi. Đến cuối năm, nhà vua bị đem ra xét xử. Gần như tất cả các nghị sĩ đều bỏ phiếu đồng tình xử tử.
Người nào bỏ phiếu tha bổng sẽ bị tử hình, nhưng dù sao thì cha tôi vẫn làm thế. Ông lúc nào cũng trung thành với nhà vua. Gia đình tôi có một khẩu hiệu. Nó nằm trên gia huy. Nó viết…” “Từ máu hoa hồng, lili mọc lên.” “Cậu biết khẩu hiệu đó à?” anh ngạc nhiên hỏi tôi. “Phải, tôi biết,” tôi đáp.
Tôi biết nó từ huy hiệu vùng Auvergne treo trên tường cầu thang nhà bác G. “Cha tôi bị coi là một tên theo quân chủ, một kẻ phản bội Cách mạng. Vài ngày sau khi nhà vua chết, gia sản nhà tôi bị tịch thu. Những kẻ làm cách mạng lấy đi tất cả. Ruộng đất và nhà cửa của tổ tiên nhà tôi được vua Henry I ban vào thế kỷ mười một.
Cha mẹ tôi bị tống vào tù. Đêm trước ngày cha tôi bị xử tử, tôi đến gặp ông. Ông bảo tôi nơi ông chôn ít tiền vàng. Và rồi ông bảo tôi dù tôi nghe thấy gì ở phiên xử, tôi luôn luôn được ông yêu thương. Trong thế giới này và kiếp sau. “Hãy sống, con trai yêu quý.” Đó là những lời cuối cùng của ông với tôi.” Amadé ngừng nói và nhìn chằm chằm vào ngọn lửa.
Một lúc sau anh mới bắt đầu nói lại. “Là con trai một kẻ phản bội, lẽ ra tôi cũng bị xử và lẽ ra sẽ bị thế, nhưng ở giữa phiên xử mình, đột nhiên cha tôi đứng lên và lên án những viên chức Jacobin đang chỉ huy phiên tòa, Cách mạng, tất cả chúng. Rồi ông quay sang tôi. Ông bảo tôi là một thằng theo Robesspierrie bẩn thỉu và một kẻ phản bội nhà vua.
Ông bảo tôi không còn là con ông nữa. Ông bảo tôi là một tên dối trá và khốn nạn.” “Tôi bàng hoàng. Tôi tranh cãi với ông. Hét lên với ông. Trước toàn bộ quan tòa Jacobin, toàn thể tòa án. Đó chính là điều ông dự định. Tất cả những gì ông nói đều là dối trá, nhưng những lời nói dối đó đã cứu mạng tôi.
Tôi không bao giờ bị kết tội gì cả, không bị xử án. Sau phiên tòa của cha tôi, tên công tố viên trưởng, một gã Jacobin nhầy thớ lợ đi đôi giày bẩn thỉu và hàm răng đen xì, chuyển đến ở nhà của chúng tôi. Ngôi nhà nơi các vị vua đã từng ở. Nơi các văn sĩ, họa sĩ, và nhạc sĩ – những người giỏi giang nhất trong thời họ – đã ở…” Lời anh nói truội dần đi.
“Còn bố mẹ anh?” tôi hỏi. “Chuyện gì đã xảy đến với họ?” “Họ bị xử chém. Trong sân làng, như những tội phạm thông thường. Tôi bị buộc phải đứng xem.” “Ôi, Amadé,” tôi thì thầm. Lúc này mắt anh đã đẫm lệ. “Tôi rời khỏi Auvergne đi Paris. Đổi tên. Trước kia là Charles-Antoine.
Trước khi đi, tôi đào chỗ vàng mà cha tôi có nói đến. Nó giúp tôi sống được chừng một năm. Tôi biết chơi đàn và sáng tác nhạc, vì thế tôi viết cho rạp hát. Những thứ hời hợt, ngớ ngẩn, nhưng không có chúng thì tôi chết đói rồi. Nhưng tôi thấy mình không viết được chúng nữa.
Tôi không viết được gì cả. Tôi đã cố, nhưng những giai điệu nhỏ nhặt giờ làm tôi phát ốm. Trái tim tôi, tâm hồn tôi, tất cả con người tôi, đau đớn. Vì cha mẹ tôi, vì cuộc đời đã mất của chúng tôi, vì đất nước này…” giọng anh vỡ ra. Anh che mặt lại. Lòng tôi tan nát vì thương anh.
Tôi với tay qua bàn cố nắm lấy tay anh nhưng nó siết chặt thành nắm đấm và anh không chịu mở ra. Vì thế tôi cầm lấy guitar và bắt đầu chơi. Tôi chơi bản Suite số 1 của Bach. Vài phút sau, anh cầm đàn lên và chơi cùng tôi. Nỗi buồn quá sâu, và không lời nói nào có thể diễn tả nổi chúng, nhưng âm nhạc… âm nhạc cất tiếng.
Tôi chơi hỏng vài lần, như mọi lần khi chơi bản này. Amadé ngừng chơi. Anh lau nước mắt trên má, rồi chỉ cho tôi cách anh đặt ngón tay gảy các nốt thế nào. Tôi theo anh. Nó thành công. Chúng tôi chơi xong Bach. Tôi chơi tiếp “Rain Song” cho anh bởi tôi biết anh thích guitar của Jimmy Page. Anh ngồi nghe.
Lần tiếp theo, anh gần như chơi được theo tôi, và sau khi chơi thêm hai lần nữa thì anh tự chơi được. Anh chơi hay tuyệt. So với anh thì tôi dở ẹc. Tôi chơi “Bron-Y-Aur,” bản không có tiếng giậm chân. “Ten Years Gone,” “Over the Hills and Far Away,” “Stairway” và “Hey Hey What Can I Do?” Chúng tôi dừng lại rất nhiều.
Thế là tôi chơi sai một nhịp hay chơi lạc một đoạn. Để anh có thể sửa cho tôi hay chỉ cho tôi cách chơi một hợp âm khó. Chúng tôi chơi nhiều giờ liền. Zepp và nhiều người khác nữa. Những bài hát buồn ở hợp âm thứ. Cho đến khi trời tối, và tận sau đó. Chúng tôi thắp nến. Quên cả ăn.
Và sau đó, rất lâu sau đó, khi chúng tôi chơi xong, anh ôm lấy mặt tôi và hôn lên má tôi. “Hãy thận trọng,” anh nói. “Cậu không thể sửa cho đúng những điều đã sai trong cái thế giới ác độc này. Cha tôi đã cố và nhìn xem chuyện gì xảy ra với ông. Đừng có mạo hiểm như hôm nay ở nhà tù.
Đừng có đốt pháo hoa nữa…” “Nhưng Amadé…” “Đừng có chối. Tôi đoán được cậu là ai. Hãy cầu nguyện đi, bạn của tôi, để Bonaparte không đoán được.” Và rồi, mệt mỏi và đau đớn, anh đi ngủ. Tôi chơi thêm một lúc, biết rằng tiếng nhạc sẽ giúp anh không nghĩ đến những chuyện tồi tệ, những ký ức khổ sở.
Khi cuối cùng tôi nghe tiếng anh thở sâu, tôi dừng lại. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ một lúc, vào trong bóng đêm, suy nghĩ. Tôi nghĩ đến Amadé, về tất cả những chuyện mà anh đã kể cho tôi – anh chứng kiến bố mẹ mình chết như thế nào, rồi anh bỏ nhà đi và đổi tên. Rằng anh không thể viết nhạc được nữa.
Tôi nghĩ đến Alex. Đến trang nhật ký cuối cùng của cô. Nguệch ngoạc. Chưa xong. Đầy vết máu của cô. Nhét vào trong thùng đàn của cô ngay trước khi đám lính đến. Hay chỉ trước khi cô chảy máu đến chết. Tôi nghe thấy giọng Orléans vang lên trong đầu mình, già cỗi và ngạo mạn, bảo cô rằng không có gì đổi thay, rằng thế giới vẫn tiếp tục, ngu xuẩn và tàn ác.
Và rồi tôi nghe thấy giọng cô, khẽ khàng và rõ ràng: “Một khi ta đã dũng cảm. Một khi ta đã tử tế. Ta có thể lại như thế một lần nữa.” Tôi lại chỗ giường của Amadé, thò tay xuống dưới và lấy cái gói bằng vải lanh ra – gói của Fauvel. Tôi mang nó lại bàn, rồi từng cái một, tôi cẩn thận nhét chỗ pháo hoa vào trong thùng guitar rỗng của mình.