Số lần đọc/download: 1025 / 8
Cập nhật: 2016-03-20 21:01:46 +0700
Chương 68
H
ugo hôi kinh. Anh có bao giờ tắm cho nó không?” tôi hỏi Amadé. Con chó chết bầm đang nằm cạnh tôi trên giường. Nó gầm gừ mỗi khi tôi cố đẩy nó ra xa. “Thật tình. Anh có thể cho nó ra sông Seine bơi, anh biết đấy. Bất cứ chuyện gì cũng có thể giúp nó bớt hôi.” Tôi chả nhận được câu trả lời nào.
Vẫn cùng là một hợp âm gảy đi gảy lại. Amadé đang sáng tác, hay cố làm vậy. Tôi đang nằm trên giường, nhìn lên trần nhà. Kể từ lúc quay lại từ chuyến đi dưới hầm mộ, tôi cứ nằm ỳ ở đây. Amadé không hẳn là phấn khích lắm khi thấy tôi nhưng anh cho tôi vào nhà. Tôi trùm một cái gối lên đầu và cố chặn cái âm thanh mà anh đang tạo ra nhưng không thành công.
Sao anh ta có thể trở thành một nhà soạn nhạc nổi tiếng đến vậy nếu anh ta không thể nghĩ thêm được hợp âm nào ngoài ba cái hợp âm giống nhau chứ? Tôi không chịu được nữa. Tôi giơ gối lên. “Chuyển sang Xi thăng thứ! Phải có một quãng ba cung ở nhịp thứ ba. Chúa ơi!” tôi hét lên.
Amadé chửi thề. Anh nện tay xuống bàn. “Tôi có hỏi cậu lời khuyên không? Không! Tôi không cần lời khuyên. Thứ tôi cần là cà phê!” Cà phê là vấn đề cỏn con nhất trong các vấn đề của bọn tôi. Bọn tôi không có thức ăn. Bọn tôi đã ăn hết những thứ mà tôi mua ngày hôm qua. Củi cũng hết sạch rồi.
Tôi ngồi dậy. Mùi hôi hám của Hugo khiến tôi ngạt thở. “Chúng ta cần phải ăn,” tôi nói. “Tôi sẽ đi tới Cung điện Hoàng gia. Để xem có kiếm được vài đồng không. Nếu được thì tôi sẽ mua ít cà phê.” Amadé lẩm bẩm gì đó nhưng tôi không nghe ra. Giờ anh cúi xuống bàn, viết nhạc.
Tôi không muốn đi tới Cung điện Hoàng gia. Ký ức về những gã say sờ soạng tôi khiến tôi chùn bước nhưng tôi chả có nhiều lựa chọn. Tôi mở thùng đàn ra, lên dây trước khi đi, và thấy rằng dây Mi của tôi đã bị đứt. “Anh có sợi dây thừa nào không?” tôi hỏi. Anh chỉ một cái hộp trên bàn.
Tôi mở ra và thấy một búi dây. Vấn đề là không có sợi nào trông giống với loại dây tôi vẫn dùng. Cuối cùng tôi tìm được sợi trông có vẻ là dây Mi. Tôi thay cái dây bị đứt, rồi cố lên dây đàn. Nhưng không thành công. Các sợi dây vang lên không khớp với nhau. Có lẽ bởi vì sợi tôi lấy của Amadé làm từ lông chó, mèo, hay sóc.
“Không được rồi,” tôi bảo anh. “Tôi cần một bộ mới.” “Đi mà mua.” “Bằng cái gì? Tôi không có tiền. Tôi vừa bảo anh còn gì.” “Tới tiệm của Rivard. Ở đó tôi có tiếng tốt. Trên Rue de la Corderie. Từ đây đi về phía Bắc. Đi lên Rue d’Anjou.” Tôi lấy bản đồ Paris ra nhưng Rue d’Anjou không có trên đó.
Thật ngạc nhiên. “Về phía Bắc xa không? Hay chỉ vài con phố thôi? Anh giúp tôi có được không, Amadé?” tôi hỏi anh. Anh quẳng cái bút lông xuống. “Được rồi! Tôi sẽ đi cùng cậu tới đó. Thế cậu đã hài lòng chưa?” “Ừa, được rồi. Thế bị đói thì anh có hài lòng không?” Anh không trả lời tôi, chỉ nhún người khoác áo vào và cho iPod vào túi.
Ra ngoài phố, tôi nói, “Anh phải bỏ cái trò luyện hợp âm đó đi. Nó kinh khủng lắm.” “Tôi nghe được một giai điệu quen thuộc trong hộp nhạc. Tôi muốn thử một biến tấu.” “Anh đã nghe ai? Beethoven? Mozart?” “Radiohead.” Tôi phá lên cười. Anh lấy iPod ra. “Giải thích cho tôi cái này,” anh nói.
“Cái gì?” Anh chỉ vào nút nhấn. “Cái này… ‘Fitter, Happier.’” Tôi lắc đầu. “Xin lỗi anh, không thể được. Tôi sẽ cần tới hai thế kỷ tới để giải thích điều đó.” 75. Cái thế giới đáng sợ này khá đẹp. Tôi vẫn muốn thoát khỏi nó càng nhanh càng tốt, nhưng khi tôi nhìn quanh và thôi không nghĩ về chuyện tất cả mọi thứ điên rồ làm sao mà chỉ nhìn nó không chút hoảng loạn, nó thực sự rất đẹp.
Hôi hám, nhưng đẹp. Chúng tôi đang đi về phía Bắc qua khu Marais. Có các sân và vườn. Tôi có thể thấy chúng qua cổng các nhà lớn. Hoa nở rộ bên trong. Một ông lùa đàn cừu đi trước qua những con đường hẹp trải sỏi. Một người khác mang một tảng pho mát to như cái bánh xe bò vào trong cửa hàng của mình.
Một cô gái lưng thẳng tắp mặc bộ đầm màu xanh xám, mái tóc vàng búi trên đầu, lau cửa sổ. Đàn ông ngồi trong quán cà phê, uống từ những cái bát sứ và hút tẩu bằng đất sét. Amadé dừng lại và nhìn họ thèm thuồng. “Đi nào, anh chàng cà phê,” tôi nói, kéo tay áo anh. “Tôi càng tìm được dây đàn sớm bao nhiêu thì anh càng có món cappucino đậu nành ba suất cốc lớn lượng caffein gấp đôi sớm bấy nhiêu.” “Cái gì cơ?” “Không có gì.” Chúng tôi tiếp tục đi.
Trong thế giới này không có nhựa. Không có đèn neon. Không có khói dầu diesel. Không có lớp dán nhôm. Không có đèn huỳnh quang. Không có khách du lịch to mồm mặc áo phông có dòng chữ BỐ MẸ TÔI ĐƯỢC NHÌN THẤY NHÀ VUA BỊ CHÉM ĐẦU CÒN TÔI CHỈ CÓ CÁI ÁO PHÔNG CHẾT TIỆT NÀY. Chúng tôi đi qua một phụ nữ đang đứng cạnh một đài phun nước, tay cầm một cái cốc.
Bà mặc đầm đen có đính nơ màu đỏ, trắng và xanh. Trông bà rất gầy và buồn bã. Hai đứa nhỏ gầy gò ngồi trên mặt đất cạnh chân bà. Nhìn thấy chúng làm tôi đau lòng ghê gớm. “Một quả phụ chiến tranh,” Amadé nói. Tôi nhìn lại bà. Tôi nhìn bà cử động. Nghe tiếng bà nói. Bà còn sống nhưng tôi biết tôi đang nhìn vào một hồn ma.
Hai trăm năm đã trôi qua kể từ lúc bà bước đi trên đường phố Paris. Kể từ đó đã có vô thiên lủng các cuộc chiến tranh và cách mạng. Rất nhiều người chết. Và những người còn lại, những người như bà, luôn tự nhủ rằng đáng như thế, rằng một điều tốt đẹp hơn sẽ đến từ cái đống hổ lốn và cái chết và sự mất mát này.
Tôi đoán họ buộc phải nói thế. Họ còn biết làm gì nữa? “Tôi ước giá gì mình có tiền. Tôi sẽ cho bà ấy vài đồng,” Amadé nói. “Tôi ước giá gì mình có dũng khí. Tôi sẽ bảo với bà ấy tôi xin lỗi.” “Ý cậu là sao?” “Như tôi vừa nói thôi. Tôi sẽ nói lời xin lỗi bà ấy.
Từ tương lai.” “Vì sao?” “Bởi vì chúng ta vẫn ở trong nó. Anh nghĩ Cách mạng là tin xấu ư, anh nên xem Đại chiến thế giới thứ nhất. Đó lẽ ra được coi là cuộc chiến để kết thúc tất cả các cuộc chiến. Mọi chuyện hóa ra không phải thế.” “Đại chiến thế giới thứ nhất?” Tôi cố giải thích.
Và đại chiến thế giới thứ hai. Nhưng anh không hiểu nổi về xe tăng và máy bay. Chúng tôi rẽ phải vào Rue d’Anjou. Tôi cởi áo khoác ra và buộc quanh hông. Trời nắng ấm, hộp đàn rất nặng trên vai tôi và tôi đổ mồ hôi như điên. Tôi đã không tắm rửa gì. Người tôi nhờn nhờn và bốc mùi.
Nhưng tôi đã phát hiện ra rằng cái mùi đó nhanh chóng đạt tới ngưỡng dừng. Khi hôi đến một mức độ nào đó rồi thì ta không hôi nữa. Chúng tôi tiếp tục đi xuống một con phố không tên rất hẹp, tôi gần như có thể chạm được vào các ngôi nhà ở hai bên phố. Amadé lại bắt đầu nói về cái iPod.
Anh hỏi tôi tại sao rất nhiều bài hát ở trong đó là tiếng Anh. Tôi bảo anh bởi vì tiếng Anh là thứ tiếng thông dụng nhất trên thế giới. Anh không chịu tin. Anh bảo không thể nào có chuyện mọi người trên thế giới lại chọn một thứ tiếng xấu xí như vậy mà không chọn tiếng Pháp.
Rồi anh hỏi tôi về một người tên là Led, họ là Zeppelin, và anh ta dùng loại nhạc cụ nào để tạo ra được các âm thanh trong bài “Immigrant Song.” “Một cái guitar điện,” tôi bảo anh. Anh nhìn tôi bối rối. “Anh có biết điện là gì không?” “Điện,” anh lặp lại, cau mày. “Tôi nghĩ là tôi biết cái này.
Đại sứ người Mỹ Benjamin Franklin sáng tạo ra nó. Có phải ý cậu là cây guitar của quý ông Zeppelin được truyền năng lượng bởi sét?” “Không, không phải bởi… thực ra thì đúng thế,” tôi nói, bật cười. “Ý tôi đúng là thế.” “Đây là một điều đáng ngạc nhiên,” Amadé nói.
“Ừa, đúng thế,” tôi vừa nói vừa nghĩ thật hay ho làm sao – Amadé thích kiểu chơi guitar của Jimmy Page. Bởi vì hai trăm năm sau, Jimmy Page bảo với Rolling Stone ông ta cực kỳ thích cách chơi guitar của Amadé Malherbeau. “A! Nhìn xem chúng ta đang ở đâu. Gần đến rồi. Nào, phải qua đường thôi,” Amadé nói, cầm lấy tay tôi.
Chúng tôi rẽ trái sang Rue de la Corderie, tránh một cái xe ngựa, hai cái ghế kiệu, và vô số đống phân ngựa. Và rồi tôi thấy nó – cái tòa nhà xấu xí cổ xưa lừng lững trên tường đá bao quanh. Một tòa tháp đen xì chọc lên bầu trời. Nhà tù ở Temple. Khi tôi đứng đó, ngước nhìn lên, toàn bộ chuyến đi kỳ quái này trở nên thật.
Lịch sử chính nó trở nên thật. Nó không còn là chuyện kể nữa. Một chương trong sách giáo khoa. Các trang trong cuốn nhật ký. Nó thật. Cậu bé là thật. Cậu ở trong đó. Cậu đang chịu khốn khổ. Đang chết. Không phải trong quá khứ. Mà bây giờ. Ngay lúc này. Tôi có cảm giác mình không thở nổi.
Như thể có những thanh sắt chèn lên ngực mình. “Amadé,” tôi nói. “Có một thằng bé ở trong đó. Louis-Charles. Nó…” Amadé đi trước tôi một vài bước. “Tôi biết,” anh nói cụt lủn. “Không làm được gì đâu.” Anh bước lại chỗ tôi và cầm tay tôi, nhưng tôi không chịu đi. “Nó chỉ là một đứa trẻ thôi, Amadé.” “Nó là gì, là một thứ mà ta không thể làm gì cho nó nữa,” anh nói.
“Đi nào.” Nhưng tôi không đi. Tôi sẽ không đi. Tôi cứ đứng đó, nhìn lên cửa sổ. Tôi nhớ Alex đã miêu tả cậu bé đang chết. Những nỗi khổ sở của cậu. Của chính cô. Nỗi tuyệt vọng cô cảm thấy bởi cô không thể cứu cậu. Tôi nhớ quyết định ở lại Paris của cô trong khi cô có thể ra đi.
Cô chết khi cô giúp Louis-Charles. Cô chết ở đây. Ở Paris. Vào tháng Sáu năm 1795. Và lúc này tôi ở đây. Ở Paris. Vào tháng Sáu năm 1795. Đứng ở nơi cô đã đứng. Đứng ở vị trí của cô. Tôi đặt thùng đàn xuống đường, mở ra, và lấy nhạc cụ. “Cậu bị điên à?” Amadé rít lên.
Tôi lùi lại vài bước khỏi bức tường, muốn âm thanh của tôi vọng lên cao, để không bị những tảng đá xấu xí nuốt trọn mất. Tôi thậm chí không nghĩ tới cái dây Mi bị mất vào lúc này. Tôi không cảm thấy điên rồ nữa. Phê. Hay hôn mê. Thực ra, tôi thấy hoàn toàn tỉnh táo. Tôi bắt đầu chơi.
Tôi chơi bài “Hard Sun,” cố gảy những nốt mở đầu thật mạnh và chuẩn. Tôi bắt đầu hát, chuyển tải Eddie Vedder, muốn giọng tôi thật to và rõ, muốn tiếng tôi dâng lên cao. “Dừng lại! Bọn mình phải ra khỏi đây!” Amadé hét lên sợ hãi, kéo tay tôi. Tôi hất tay anh ra và tiếp tục chơi.
Mạnh hơn. Tơ hơn. Một ngón tay bị cứa. Tôi có thể cảm thấy máu mình rỏ trên dây đàn. Tôi nghe tiếng hét. Từ cổng tù vọng ra. Amadé chửi thề tôi. Anh bỏ đi. Một gã tiến lại chỗ tôi. Gã mặc đồng phục và mang theo súng trường. Gã bất ngờ xuất hiện. “Đi đi!” gã hét lên với tôi.
“Xin ngài. Kệ cậu ta đi,” Amadé nói, chạy lại. “Cậu ấy không được bình thường. Cậu ấy bị đập đầu và kể từ lúc đó cậu ấy…” “Đừng có chơi nữa!” tên lính hét. Nhưng tôi không dừng lại. “Mày có nghe tao nói không?” Nhưng tôi vẫn không dừng chơi. Gã giơ súng trường lên và dùng cán súng đập vào mặt tôi.
Đầu tôi choáng váng. Tôi ngã khuỵu xuống. “Dừng lại. Ngay. Nếu không tao bắn chết,” gã đó bảo tôi. Tôi nhìn lên gã. “Ông từ đâu tới?” tôi hỏi gã. Hắn lại giơ súng trường lên, dí nòng súng vào trán tôi. Tôi cảm thấy máu chảy xuống má mình. Những hình ảnh chớp qua trước mắt tôi.
Những hình ảnh thầy tu thiêu trên lửa. Những thi thể trong hố. Những đứa trẻ bị bom napalm chạy trên con đường đất. Tôi gạt nòng súng ra và đứng dậy. Tôi cầm guitar bằng một tay và dùng tay kia chùi máu trên mặt. “Một người tử tế. Cứ làm công việc của ông,” tôi bảo gã. “Ông lúc nào cũng ở đây.