Sự khác biệt giữa cơ hội và khó khăn là gì? Là thái độ của chúng ta! Trong mỗi cơ hội có khó khăn, và trong mỗi khó khăn đều có cơ hội.

J. Sidlow Baxter

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Upload bìa: Bùi Thi Hoàng
Số chương: 59
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 8932 / 159
Cập nhật: 2015-07-11 21:05:32 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 55 -
ám rước phồn thực ấy không biết có ảnh hưởng gì tới thiên nhiên hay không, hay chỉ tại mùa xuân đã đến…
Mưa xuân, gió xuân. Cỏ cây, hoa lá mọc ngút ngát. Những quả đồi trọc đã xanh mướt. Hoa mọc khắp nơi. Những dòng suối trắng xóa hoa bướm, hay đỏ rực hoa trạng nguyên. Trên đồi hoang rực rỡ hoa vông vang, vàng ươm, hoa loa kèn trắng, đỏ, hoa mẫu đơn trắng ngan ngát... Trong rừng thì ê hề các loài hoa biết tên và không tên, từ những giò phong lan đủ màu sắc rực rỡ, đến những vạt rừng giẻ hoa vàng suộm, đến những cây mai với nghìn vạn bông hoa làm vàng rực một góc rừng, đến những bãi bưởi hoang trắng xóa thơm ngát ngút trời. Tất cả cây cỏ đều phun hương rắc phấn. Phấn hoa, hương hoa trộn vào không khí được gió đưa đi. Không khí như ngầy ngậy, như ngan ngát, như quanh quánh. Thứ không khí được vật chất hóa ấy làm cho con người say say. Nó kích thích khứu giác, khêu gợi não trạng, thức tỉnh các bản năng sinh sôi của muôn vật. Kìa con công đương xòe đuôi múa một vũ điệu tình ái. Kia đôi sóc say tình đương đuổi nhau vun vút trên cành cao. Kìa đôi hổ vàng đương vờn nhau, chúng là những kẻ điên tình, giai điệu vũ điệu là những tiếng gầm rút là những bước nhảy quằn quại, cuộc ái ân làm náo động cả khu rừng già, làm tan hoang cả vạt cỏ tranh rộng vài mẫu ruộng. Cuộc vờn tình của đôi dã thú thật kinh hoàng. Con đực gào thét để bộc lộ sức mạnh đã đành. Còn con cái gầm rú lên để làm gì. Cứ tưởng như chúng đang cắn xé nhau. Răng vuốt đều trưng ra hết cỡ. Chúng ngoạm vào da thịt nhau, chúng cấu xé vào da thịt nhau để rồi ôm trùm lên nhau đi tìm cái hòa điệu tột đỉnh.
Bà ba Váy là người đến hội muộn hơn cả làng. Bà còn phải bận bịu với ông chồng. Từ một năm nay sau trận dịch, sức khỏe lý Cỏn kém hẳn đi. Tạng của ông Lý vốn gầy gò, trận ốm thập tử nhất sinh lại làm ông gầy gò thêm. Ông cứ như ốm lửng ốm lơ. Đã thế, bà vợ ba lại càng ngày càng phây phây ra. Da thịt hồng hào nõn nà. Người đàn bà ba sáu tuổi ấy đã sáu con, không hiểu sao lại nhiều sức sống đến thế. Những lần sinh nở hình như chẳng làm suy kiệt, mà chỉ làm cho bà được vỡ da vỡ thịt, da thịt được triển nở sung mãn. Lý Cỏn nhìn bà thầm nghĩ: mụ ấy có khi còn đẹp hơn thời con gái. Và thế là lão lao đầu vào say sưa với bà vợ lẽ. Bây giờ chẳng còn bà cả Cỏn để kiềm chế ông, để dọa mách cụ chánh Thi nữa; do vậy lão lao vào ái ân như con thiêu thân. Bà Hai, chẳng hiểu vì ghen tức hay vì thương chồng, đã nói với lão:
- Ông vừa vừa phải phải thôi. Trông gương thằng em ông đấy. Con mẹ Mùi nó chẳng hiếp cho chết rồi sao? Ăn dè thì sống lâu. ăn tham thì chóng chết.
Lão trả lời rất bài bây:
- Chết thế nào được! Tao khác, thằng em tao khác.
Nói cứng vậy thôi chứ thực ra trong bụng ông lý Cỏn đã thấy chột dạ. Bà hai Cỏn đem chuyện mách với cụ tú Cao. Cụ Tú gọi cháu sang, bắt mạch rất lâu rồi bảo:
- Anh muốn chết hay muốn sống? Muốn sống thì hãy nghe tôi. Đã suy kiệt rồi đấy, tuy nhiên vẫn còn gỡ được...
Từ khi khỏi dịch, lý Cỏn ở lỳ tại nhà bà Ba. Sau hôm bắt mạch, ông chú bắt ông cháu phải trở lại nhà chính. Ông cụ còn cắt thuốc bổ cho uống, và kiên quyết dặn ông cháu phải hoàn toàn chay tịnh. Đến lúc ấy, lý Cỏn mới thấy ông chú mình bắt mạch thánh thật. Ông cụ bảo: "Vừa qua, anh lầm tưởng là anh mạnh lắm. Sở dĩ anh đi lại háo hức được với vợ anh, chẳng qua chỉ là ngọn đèn tàn, chợt bùng lên chốc lát. Sau cơn bệnh nặng, con người dễ ngộ nhận về cái sức của mình. Khi ta sống lại, cái tinh lực trong ta cũng bừng nhen nhóm. Khi ấy, nếu biết tàng tinh, con người sẽ hồi phục. Còn như nếu ảo tưởng về mình... thì vô phương cứu chữa". Lý Cỏn toát mồ hôi khi nghe lời cụ Tú. Quả nhiên, đúng như lời ông chú sau khi tách khỏi nhà bà vợ Ba, lý Cỏn chợt nhận ra là mình đã suy yếu rất nhiều. Đúng là ngọn đèn dầu lạc sắp tàn bỗng bừng lên thật. Cái mạnh mẽ cương cường của ông bỗng nhiên biến đâu mất. Lý Cỏn lúc ấy mới mừng thầm, may mà đã dừng lại kịp. Và từ lúc ấy, ông mới chịu tuân theo lời ông chú...
Sau bốn, năm tháng cách ly bà Ba, trở về nhà chính, sức khỏe lý Cỏn khá lên. Lão không được suốt đêm ở nhà người vợ lẽ phây phây kia nữa, thì lão lại quay trở về thói quen xưa cũ, nghĩa là lão lại chớp nhoáng đè ngửa bà Ba ra, rồi nhanh nhẹn tốc cái váy lên… Hậu quả là lão lại ho húng hắng và đêm đêm, trán cứ toát mồ hôi trộm. Cụ Tú bắt mạch biết ngay sự tình. Cụ nghiêm nghị bảo:
- Thực sự, anh muốn sống hay muốn chết? Sao tôi bảo mà anh chẳng nghe lời?
- Dạ, thưa chú... - Lý Cỏn cố tìm lời biện bạch, song cụ Tú gạt phắt đi:
- Một là anh nghe lời tôi. Hai là nếu không, tôi bỏ mặc anh, không chữa cho anh nữa...
Đến nước ấy, lý Cỏn mới chịu tuyệt đối nghe lời ông chú. Bà Ba cũng chẳng thích thú gì chuyện ân ái với chồng. Bởi vì, cái cách của lý Cỏn chỉ làm bà thêm khao khát. Cái khao khát của một người đàn bà luôn cảm thấy mình bị tước đoạt. Cái cảm giác ấy bà không ý thức rõ ràng, nhưng nó đã tạo ra một bức bối mơ hồ mà bà chẳng thể nói nên lời. Lý Cỏn cứ ốm lơ lửng như vậy cho đến ngày hội. Dạo ấy, cụ Tú ngừng cho Cỏn uống thuốc. Cụ cho Cỏn ăn nhưng thức rất dân dã như đậu đen, cá diếc, hạt sen chim bồ câu ra ràng... Cụ bảo: "Chẳng cần sâm quy gì hết. Những thứ phẩm vật thiên nhiên quê mùa ấy mới là những thứ đại bổ. Chớ nên coi thường". Quả vậy, dạo này lý Cỏn nghe chừng lại tí tởn. Bà Ba làm thức ăn chẳng ngon bằng bà Hai. Tuy nhiên, ông Lý vẫn bắt bà hàng ngày sang nhà chính hầu hạ ông, đến tối mới thả cho về.
Sang đến ngày mười bốn, ngày tan hội bà Ba bảo rằng: “ Hội mấy hôm rồi mà tôi chưa đi lễ được. Hôm nay là ngày cuối, tối nay tôi phải lên đền Mẫu. Ông bảo bà hai tối nay nấu báo đêm cho ông”. Lý Cỏn kéo bà lại gần rồi thò bàn tay gầy guộc của mình chui vào cái yếm trắng, xoa xoa, véo véo đôi vú sáu con mà vẫn mây mẩy của bà. Chán chê mới chịu cho đi. Bà Ba nguýt chồng: “Rõ nỡm!”.
Người đàn bà về nhà, ăn Cơm qua quýt, rồi bưng cái thúng lễ vật xinh xinh, trong đó có đủ trầu cau, oản nải, vàng hương, ra bến Đình bơi đò ngược dòng sông Son đến đền Mẫu.
Bà Ba ba chân bốn cẳng lên đền. Lúc này khách thập phương đã vãn. Tuy nhiên tòa đại điện vẫn hương khói nghi ngút, đèn nến sáng trưng. Không còn người hầu thánh nữa. Bà Mùi hỏi:
- Sao bà Ba lên lễ muộn thế?
- Lạy thánh mớ bái! Em đâu phải vô tâm. Nhưng bận quá, bây giờ mới lên lễ Mẫu được.
- Tâm động, quỷ thần tri! Còn lễ đến nửa đêm mới đóng cửa đền. Bà đến bây giờ vẫn kịp.
Ông Trịnh Huyền cũng vừa đánh đàn cho đám cô đồng xóm Mít làng Già hầu thánh xong. Đó là đám hầu bóng cuối cùng. Ông định thu xếp trở về. Ông Huyền và bà Ba cúi đầu chào nhau. Đến một năm rồi, bốn con mắt ấy mới mặt giáp mặt. Chạm vào ánh mắt của ông, bà Ba chợt thấy toàn thân mình run lên. Tâm thần chợt xốn xang bất định. Bà đặt lễ lên bàn thờ ngồi trước điện lầm bầm khấn vái. Nhân thể tay còn cầm đàn, ông Trịnh Huyền khẽ khàng nảy lên khúc đàn thỉnh Mẫu. Thế là, bà Ba không ngồi đồng, nhưng bà ngồi trước điện thờ rất lâu. Không có lời hát, không có trống phách, chỉ có tiếng đàn rỉ rả rót nhẹ vào tâm hồn bà. Tiếng đàn nói với bà những gì? Điều đó ai mà biết được. Chỉ có lòng bà cảm nhận. Chỉ có ông Huyền biết mà thôi. Đó là một cuộc lên đồng. Một cuộc lên đồng lặng lẽ. Bởi vì hồn bà thực sự đã lạc vào một thế giới ngoài trần thế. Bởi vì bà đã như mê đắm. Đến nỗi tiếng đàn đã bặt lặng tự lúc nào mà bà chẳng hay. Sau khi bà lễ tạ và ngẩng đầu nhìn sang bên, thì ông Trịnh Huyền đã đi khỏi tòa đại điện từ lâu.
Bà Ba cầm thẻ nhang ra cây hương tại gốc lan cổ thụ. Năm nào cũng vậy, sau khi lễ ở đại điện xong, bà vẫn đến cây lan. Bà đồng Mùi bảo căn của bà Ba là cô Bé thơm tho, thanh tịnh. Cây lan tháng ba ra hoa ngút trời. Hương ngọc lan bao trùm khắp ngôi đền Mẫu. Trên cây hương, có chiếc mâm bồng to, sơn son, đổ đầy hoa lan trắng muốt. Mỗi người lễ cô Bé xong, đều được phép nhặt một bông hoa lan cho vào túi, hoặc cài lên mái tóc. Lộc đặc biệt của cô Bé quý vô ngần. Lễ ở bước cây lan xong, ai cũng thấy lòng mình nhẹ nhõm, hồn mình thơm ngất ngây.
Không biết có phải hương lan ngào ngạt ở đền Mẫu, hay ánh mắt tiếng đàn của Trịnh Huyền đã làm cho bà ba Váy ngất ngây cho tới lúc ra khỏi đền; thậm chí khi xuống đến chân núi Mẫu, tâm hồn bà vẫn như lạc tận đâu đâu, như nằm trong một cơn mơ đầy những mây bông lãng đãng.
Trời đã tối. Đám rước khởi hành nhằm núi Đùng đi đã lâu. Chả còn thấy bóng người. Chẳng biết ma đưa lối quỷ đưa đường thế nào mà bà lại không quay về bến, trở về nhà. Tiếng trống nghe đã xa lắm. Có lẽ mọi người đã đến núi Đùng. Hay là tiếng trống hội đã xui khiến đôi chân của bà đi theo con đường đám rước. Nhưng làm sao tiếng trống hội từ chân núi Đùng lại vọng tới đây được; hai quả núi cách nhau xa lắm. Có lẽ là tiếng trống rước từ tận ngày xửa ngày xưa, đã qua thời gian, vọng về trong tâm tưởng của bà. Đám rước từ thời con gái. Cái năm loạn lạc ngày xưa ấy, lành Đình không làm hội ông Đùng bà Đà to như hôm nay. Hai hình nhân nhỏ thôi, chỉ vừa một người chui lọt vào trong. Các cụ già vẫn theo tục xưa, bảo rằng có làm như thế, có đất xác ông Đùng bà Đà thì dân lành mới tránh được tai họa. Đám rước thời con gái ấy đế lại cho bà ba Váy ngày nay biết bao kỷ niệm không thể nào xóa nhòa đi được. Bởi vì, chính ở đám rước ấy, bà đã gặp người con trai của đời mình. Bởi vì, chính ở đám rước ấy, bà đã biết sự ngọt ngào của tình yêu. Và cũng chính ở đám rước ấy còn có một điều bí mật mà bà đã chôn chặt trong lòng chưa bao giờ thổ lộ cùng ai.
Tiếng trống hội trong tâm tưởng vẫn vang vang. Bà đi theo con đường bà Đà, tức là con đường xa hơn cả trong hai con đường dẫn đến núi Đùng. Đường ông Đùng đi ngắn hơn. Đường đi trong nhân gian của người đàn bà bao giờ chả thế. Nó xa ngái hơn con đường của người đàn ông. Lúc ấy cũng là lúc mây mù tràn đầy thung lũng. Chả thấy bóng trăng đâu. Bà chui trong sương đêm trắng xốp. Chả nhìn rõ cảnh vật, song không sao, con đường mòn này bà đã đi qua nhiều lần. Bà như kẻ bị ma ám, như kẻ lên cơn rồ dại. Bà là kẻ đi tìm tiếng trống hội ngày xưa, đi tìm đám rước của ngày xưa. Bà là kẻ bị quá khứ mê hoặc hay chính bị cái ngày hôm nay mê hoặc. Trước trận đại địch, bà đã tình cờ phải hiện Trịnh Huyền chính là anh Phác, người con trai thời son trẻ của bà. Bà Ba đã lao vào mối tình xưa cũ, mối tình muộn mằn nhưng ngọt ngào đến thế. Người thiếu phụ như chợt được sống trở lại. Bà hối hả tìm lại những ngày son trẻ đã bị đánh cắp. Những cuộc gặp gỡ lén lút, rất nguy hiểm cho cả hai người, nhưng họ không tài nào cưỡng được. Giá như không có trận đại dịch, không khéo họ đã bị bại lộ, bởi vì ở đâu đó đã có tiếng xầm xì.
Bà ba Váy là con người hồn nhiên. Thuở con gái, bà hồn nhiên dâng hiến cho người mình yêu. Khi bị bán làm nàng hầu cho ông Lý, bà hồn nhiên đẻ một bầy con cho chồng. Lúc gặp lại người xưa, bà hồn nhiên quay trở lại tìm những rung động thật sự mà trong cuộc sống vợ chồng bà không thấy. Đến khi ông Lý mắc bệnh, bà lại hồn nhiên quay trở về bổn phận làm vợ, chẳng nghĩ đến sự sống chết, tận tụy chăm sóc cho chồng, thậm chí dùng cả bầu sữa của mình để gọi chồng trở về cõi nhân gian. Một năm trời hầu hạ lý Cỏn như thế, bà đã quên mất bản thân. Còn hôm nay, có lẽ cuộc gặp gỡ với đôi mắt của Trịnh Huyền, với tiếng đàn của Trịnh Huyền đã làm cái con người hồn nhiên ngủ lịm trong bà chợt thức đậy. Trịnh Huyền nào có nói gì đâu. Có lẽ đôi mắt đã nói. Tiếng đàn đã nói. Mỗi cặp yêu đương chắc đều có tiếng nói riêng cho nhau.
Bà cứ chui trong mây, rẽ mây mà đi như thế, rồi cuối cùng cũng đến bãi thiêu ở chân núi Đùng. Đám hội đã tan từ lâu. Chẳng còn bóng người. Trai gái đã rủ nhau vào rừng tìm đến những nơi "trải ổ hoặc đã trở về nhà. Sở dĩ đi đường bà không gặp họ vì họ đều theo con đường ngắn, con đường ông Đùng mà đi. Ai lại dại đi con đường dài, con đường bà Đà. Con đường xa ngái ấy chỉ đề dành cho những kẻ đang mê đắm. Bà ba Váy còn đứng giữa hai đống lửa thiêu xác ông Đùng bà Đà hồi lâu. Bà tần ngần bốc hai nhúm tro từ hai đống lửa đặt lên lòng bàn tay. Tro còn nóng bà trộn chung với nhau, rồi lặng lẽ leo lên đỉnh núi. Ngày xửa ngày xưa, Phác và Váy cũng đứng bên hai đống tro tàn như hôm nay. Phác đã trộn tro như vậy. Váy hỏi để làm gì. Phác bảo chắc hai ông bà thích như thế, và anh đã đem nắm tro trộn đó lên đỉnh núi đổ vào hai bát hương trên ngai thờ của ông Đùng bà Đà. Hôm nay, bà ba Váy lại lặp lại cái hành động xưa của Phác. Như thể một nghi lễ, như thể một tiếc nuối, ao ước.
Lúc bà Váy lên tới đỉnh, cũng là lúc chẳng còn một ánh lửa nào trong thung lũng, trong rừng sâu. Cũng là lúc bầu trời được vén mây và hai con mãnh thú xuất hiện trên đồi cỏ tranh. Hai con hổ say trăng, điên tình, gào lên giai điệu ái ân dữ dội. Chúng muốn đánh thức muôn vật thức dậy để cùng chúng quay cuồng vào vũ điệu ái ân. Bà ba Váy, người đi rừng lão luyện đã nhanh thoăn thoắt leo lên ngồi ở chạc ba cây thị. Hiếm có ai được chứng kiến cảnh loài dã thú ái ân trong rừng dãi trăng. Hiếm có ai được chứng toàn cảnh những vạt cỏ tranh, cỏ lau đổ rạp để tạo thành một tấm nệm, một vòng tròn tình ái cho loài chúa tể sơn lâm. Khi nệm cỏ rạp đã đủ rộng, đôi đã thú chỉ đuổi nhau trong phạm vi vòng tròn ấy. Cứ như thể đó là một sân khấu tình. Loài dã thú muốn phô bày hạnh phúc của mình cho trời đất cùng biết hay sao? Cái gì đã làm chúng say tình đến vậy? Các bậc đế vương phảỉ trợ sức bằng thứ rượu tình nhưng ở chốn sơn lâm này thì chẳng cần. Khí núi hương rừng cũng quá đủ men say. Hương rừng mùa xuân đặc quánh vật chất, thơm nức những thứ phấn hoa muôn loài trộn lẫn, dù là gỗ đá ngửi thấy cũng phải nổi tình. Con cái, khi đã tự gào thét đến khan giọng, tự khích thích đến mức thành kẻ say đồng, nó nằm lịm rạp xuống nệm cỏ để con đục ôm trùm lấy nó. Nó biến mất hòa tan vào vũ điệu tình yêu, lúc đó không gian mới lặng đi, không gian cũng tận hưởng sự giao hòa.
Khi đôi dã thú liếm láp cho nhau rồi lặng lẽ bỏ vào rừng, bà ba Váy cũng từ trên cây thị tụt xuống đất. Người đàn bà đã biến thành kẻ mộng du. Lúc này, tiếng trống hội trong tâm tưởng bà đã bặt lặng từ lâu, nhưng thay vào đó lại vang lên những tiếng thì thầm, đó là những tiếng gọi từ xửa từ xưa chúng khiến cho đôi chân bà bước đi theo chúng không tài nào cưỡng lại được. Như đã có sự dun dủi sắp xếp sẵn sàng một chiếc mồi rơm đã bị ai đó vứt chống chơ bên ngai thờ vẫn còn liu riu ngọn khói. Bà Váy cúi xuống nhặt rồi quăng đi quăng lại cho ngọn lửa bùng lên. Tiếp đó, bà xăm xăm bước vào rừng. Tiếng gọi trong tâm tưởng dẫn lối cho bà, hay thói quen của đôi chân chi nẻo. Đường trong rừng rát mập mờ, thế mà đôi chân không hề vấp váp, tiếng thì thầm trong óc bảo rằng hãy đến bên bờ suối. Hay là tiếng của người cha. của ông thần rừng nhỉ? Tiếng nói bảo rằng hãy đến nơi mỏ nấm. Hay là tiếng nói của chính bà nhỉ? Có thể ao ước đã biến thành giọng thì thầm. Không phải ao ước mà chính là sự thật. Đôi mắt của người đánh đàn và chính tiếng đàn cũng bảo bà như thế. Nó nói rằng đang có đợi chờ. Chính ở chỗ ấy ngày xưa đang có mong mỏi đợi chờ. Nhửng ý nghĩ làm cho bà nóng bừng. Trái tim đập thình thình. Bước chân run rẩy. Sắp đến rồi. Qua khu rừng sấu này thì đến. Mùi hoa sấu tháng ba. Ngọt ngọt chua chua. Những bông hoa sấu li ti rơi trên đá tảng. Chân bà dẫm lên; thấy như ngọt cả đôi chân. Một bầy con rồi mà vẫn thấy hồi hộp. Cái phấp phỏng của con người đi đến hẹn làm bà khô cả họng...
Bà Ba chẳng còn chút nào khôn ngoan cảnh giác nữa. Một năm trước đây, đã có những đôi mắt soi mói nhìn bà, bới tìm sâu vào đời bà. Người đàn bà đa tình vẫn xăm xăm rảo bước, chẳng chú ý tới một bóng đen đã lầm lũi đi theo cái chấm lửa của chiếc nùn rơm đang ve vẩy trên tay bà. Cái bóng đen ấy đã chú ý tới bà từ lúc bà leo lên đỉnh núi, rồi trèo lên cây thị. Cái bóng đen lẫn vào đêm tối bám chặt sau bà. Mà có lẽ con đường rừng cũng không lạ lẫm gì với hắn, bước chân hắn chẳng hề vấp váp Nhưng rồi có lúc bước chân ấy cũng đạp lên cành cây khô, tạo ra một tiếng động làm người đàn bà đứng sững quay đầu lại. Người theo sau đã kịp ngồi thụp xuống để bóng của hắn hòa tan vào bụi rậm ven lối mòn. Bây giờ thì bóng đen đã biết rõ người đàn bà định đi tới đâu. Hắn không theo sát bà mà lặng lẽ ngồi im nơi bụi rậm. hắn chờ cho đến lúc không nhìn thấy cái mồi lửa lập lòe đằng trước mới đứng lên đi tiếp. Chắc chắn hắn đoán không sai, người đàn bà đang đi tới bờ suối, chỗ có mỏ nấm. Bóng đen bước chậm và thận trọng. Hắn bước đi rất tự tin, cứ như thể con dã thú đã đánh hơi đúng hướng đi của con mồi. mùi của con vật bị săn đuổi còn nồng nặc quanh đây. Con đường mòn dẫn qua một khoảng rừng trống. Lúc ấy bóng trăng cũng hiện ra làm ta trông thấy rõ trên vai bóng đen choàng một cây nỏ và một ống tên. Nhờ ánh trăng, bóng đen bỏ cây nỏ từ vai xuống, cầm nơi tay. Hắn có ý kiểm tra cánh cung và dây cung. Sau khi xem xét kỹ càng, hắn không đeo lên vai nữa và lăm lăm cầm trong tay rồi lẩn vào rừng theo một trong nhiều lối mòn dẫn đến cái đoạn suối mà hắn biết chắc.
Như vậy là hắn quá tự tin. Hắn không biết rằng trong rừng luôn có thể xảy ra rất nhiều tình huống mà con người không bao giờ ngờ tới. Vả lại, rừng có ngàn vạn cây, rồi vô số bụi rậm, hang núi, hốc núi để cho phép con người nương náu, trú ẩn, để thoát khỏi những con mắt rình mò. Bởi vậy, khi bóng đen nấp sau một tảng đá, nhìn xuống quãng suối dãi ánh trăng thì hắn đã hoàn toàn không thấy bóng bà Ba đâu nữa. Lúc ấy bóng đen tỏ vẻ bực mình. Hắn đưa con mắt láo liên nhìn khắp mọi chốn. Trăng dãi bạc lên các bụi rậm ven suối. Ánh trăng nhảy nhót trên dòng suối quanh co. Có một bụi rậm lay động làm bóng đen chú ý. Hắn chĩa cây nỏ vào đó. Từ đêm đen bỗng chui ra hai con vật xinh xinh dễ thương: hai con hoẵng rủ nhau xuống suối uống nước. Giá như hắn là nhà đi săn thì đôi hoẵng kia đã là miếng mồi ngon khó lòng thoát. Thực ra, hắn cũng là kẻ đi săn, nhưng không phải kẻ săn thú Con mồi của hắn là con người. Con người tinh hơn con thú, săn rất khó. Để nó hiện nguyên hình còn khó gấp bội. Linh tính bảo hắn cần kiên nhẫn chờ đợi. Con mồi của hắn thể nào cũng xuất hiện. Chỉ là vấn đề thời gian. Hắn thầm nghĩ “ Lưới trời lồng lộng... Con mồi kia làm sao thoát được”.
Hắn chờ đợi rất lâu. Có lẽ đã nửa tiếng hay một tiếng, hắn cũng chả biết nữa. Chỉ biết rằng hắn thấy thời gian đằng đẵng. Hắn vô cùng nóng ruột. Lại thêm lũ muỗi rừng quấy nhiễu, đốt đau nhoi nhói. Đôi hoẵng uống nước no nê đã dắt nhau đi từ lâu. Hắn nghĩ rằng mình đã sai lầm vì không theo sát bà ba Váy. Như vậy tức là hắn đã tính sai. Bóng đen đã định đứng dậy rồi đi lùng sục quanh vùng. Thời gian lâu quá rồi. Từng ấy thời gian, người đàn ông và người đàn bà đã có thể làm bao nhiêu chuyện. Không chừng, âu yếm nhau xong, họ đã bỏ đi rồi cũng nên. Nghĩ đến thế, lòng hắn chợt sôi lên sùng sục.
Hắn đã đứng hẳn lên rồi, đột nhiên lại ghìm bước và ngồi xuống. Một bóng người đang từ chân hòn núi đá đằng trước mặt bỗng hiện ra, đang đi xuống suối. Hắn nhận ra ngay bà ba Váy. Người đàn bà với dáng đi nhanh thoăn thoắt, ý chừng vui vẻ. Vai bà đeo cái ống bương. Bà ta đi lấy nước. Ánh trăng soi tỏ bộ mặt tươi cười của bà. Thấy bộ mặt tươi rói ấy, hắn càng sôi lên sùng sục. Hắn không thể nhờ người đàn bà lại có thể hai lòng như vậy được. Tuy nhiên, tay giương chiếc nỏ, hắn cũng không nhằm vào người đàn bà. Người hắn muốn nhằm vào là kẻ giấu mặt lén lút đằng sau bà ta, kẻ còn đang ở trong một hang đá nào đó đề chờ người đàn bà trở về. Kẻ ấy mới là kẻ đáng tội.
Bây giờ thì hắn không thể bỏ mất dấu vết người đàn bà nữa rồi. Bằng một lối tắt, hắn đã nhanh nhẹn qua được bên kia bờ suối, bám sát theo bà ta. Cơn mưa lây rây đã tạnh. Mù đã tan. Ánh trăng lu nhưng cũng đủ để hạn nhìn rõ người đàn bà rẽ đám đây leo chui vào một cái hang ở tưng chừng núi. Thì ra ở đây có một cái hang rất kín đáo. Đám đây leo như bức mành màu xanh che giấu mối tình vụng trộm của họ. Cái bóng đen phừng phừng cơn giận, chờ một lát rồi cũng rẽ dám dây leo chui vào.
Cái hang hình chữ chi. Khúc bên ngoài nhỏ hẹp. Khúc bên trong ngoặt sang phải và phình to. Trong và ngoài chẳng nhìn thấy nhau. Cái bóng đen rón rén đi vào khúc thứ nhất thấy ánh sáng ở trong hắt ra, chắc là họ đốt lửa. Cái bóng nghe rõ tiếng của người đàn ông bảo người đàn bà:
- Thôi Bà về đi, kẻo lũ trẻ đi xem hội về không thấy mẹ lại mong.
Tiếng người đàn bà trả lời âu yếm:
- Để tôi đặt nồi chảo cho ông đã. Mùa này lắm nấm. Cháo nấm thêm vài hột muối ngon như cháo gà.
Cái bóng nghe mà lộn ruột. Hắn bước thêm vài bước đã nhìn thấy khúc phình to trong hang. Bên đống củi bập bùng giữa hang, người đàn ông đang ngồi hơ tay để xua đi cái rét muộn tháng ba. Ánh lửa hắt lên làm rõ mồn một khuôn mặt quái đản nửa sần sùi như quỷ dữ, nửa khôi ngô sáng sủa của Trịnh Huyền. "Đây rồi! Con mồi ta tìm kiếm bấy lâu nay đây rồi Lửa giận ngùn ngút làm tay hắn run lên khi kéo dây nỏ vào lẫy. Hắn lắp tên vào rồi tìm chỗ đứng thích hợp. Hắn đạp phải một hòn đá lổng chổng để phát ra tiếng động. Bà ba Váy đang lúi húi ở góc hang sửa soạn nồi cháo, nghe tiếng động vội quay đầu ra phía cửa hang và hỏi "ai đấy?". Khi nhìn thấy cái bóng đen đương giương nỏ bà bỗng hét lên:
- Kìa! Thằng Cò! Không được! Không được đâu!
Một tiếng phụt khẽ. Không kịp nữa rồi. Mũi tên đã bay đi. Bà quay nhìn về đống lửa. Ông Huyền tay đang ôm vai. Cũng may, tiếng hét của bà không ngăn được mũi tên nhưng cũng đủ làm cho thằng con trai lớn của bà, thằng Cò động tâm làm mũi tên trệch không trúng tim. mà chỉ trúng tay. Bà ba Váy giậm chân kêu khổ rồi đầm đìa nước mắt xô tới ôm lấy Trịnh Huyền. Thằng Cò, một chàng trai đôn hậu ngay thẳng đã được nghe lời xì xầm của dân làng về mẹ, nay lại được tận mắt mục kích cảnh này. Nó như bị sỉ nhục. Nó tê tái đến tận đáy linh hồn. Nó lắp thêm một mũi tên và sắp sửa giương lên, thì mẹ nó rền rĩ bảo:
- Con ơi là con! Cha mày đấy! Mày định giết cha đẻ mày sao?
- Cha ư? Ai là cha tôi?
- Ông Trịnh là cha đẻ của con. Mẹ đã có mang con trước khi bị bán cho ông lý Cỏn. Lại đây! Lại đây mà nhận cha đi con.
Người mẹ tiến lên định nắm lấy tay người con đặt vào bàn tay người cha đẻ của nó nhưng người mẹ tiến một bước, người con trai lại lùi một bước. Anh ta không thể nào tin một sự thực lạ lùng đến vậy. Đang từ một kẻ thù không thể đội trời chung, nay lại trở thành người cha đẻ thân thiết của anh hay sao? Sao người mẹ đã mười tám năm trời ròng rã, lại chẳng nói một lời với anh về chuyện ấy. Liệu là thật hay giả. Liệu có tin được không. Liệu có hiểu được không?
Cò giằng khỏi tay mẹ, chạy ra cửa hang. Anh đi trong rừng suốt cả đêm hôm ấy.
Mẫu Thượng Ngàn Mẫu Thượng Ngàn - Nguyễn Xuân Khánh Mẫu Thượng Ngàn