Số lần đọc/download: 8932 / 159
Cập nhật: 2015-07-11 21:05:32 +0700
Chương 54 -
Ô
ng René de Fromentin vừa cho in một loạt những bài viết về Đông Dương được người đọc chú ý. Ví dụ: việc xây dựng ngôi nhà thờ lớn tại Hà Nội hay “người Chiêm Thành và chế độ mẫu hệ". Rồi “nghiên cứu về tang lễ của người Việt ở xứ Bắc Kỳ”. Tuy vậy, ông René vẫn bị những người như Julien coi là kẻ vô tích sự đáng yêu. Sở dĩ Julien cho thêm tính từ dáng yêu vào vì mới đây cuốn sách “tản mạn Bắc Kỳ" của ông được báo chí Paris rất khen ngợi. Thực ra những người như ông vẫn được các ngài toàn quyền, công sứ coi trọng vì họ được coi là đại điện cho nền văn hóa Pháp. Họ được coi là những bình hoa đẹp trang trí cho công trình thuộc địa của nước Pháp ở xứ sở này.
Khi nhận được thư của họa sĩ Pierre Messmer báo cáo cho biết làng Cổ Đình sắp mở hội, ông René lập tức thu xếp đến đồn điền ngay. Về đến nơi, Pierre rủ René đi đến đình làng. Hai người Pháp đã đi từ ngạc nhiên này đến sửng sốt khác. René bảo:
- Lạ thật! Chúng ta ở cái làng này đã lâu. Sao lại không biết cái công trình đáng yêu này nhỉ. Thế mới biết chúng ta đầy chất quan liêu.
- Vì quan liêu hay vì chúng ta là ông chủ. - Pierre nói.
- Cũng có thể. Vì ông chủ thì bao giờ chả thấy ngôi nhà của mình là đẹp nhất thế gian. Còn ngôi nhà của đày tớ…
Pierre chú ý đến mặt mỹ thuật. Ông rất ngạc nhiên sao con người lại công phu và tinh vi chạm khắc đến từng mẩu gỗ nhỏ trong một công trình kiến trúc lớn thế này. Mà lại chỉ là công trình của một làng quê. Pierre rất thích thú đặt tên cho cái đình này là "Cái nhà hoa”. Còn René lại để ý đến mặt sinh hoạt của những bức khắc. Ông ta cứ ngần ngơ đứng trước bức cửa võng hoành tráng thếp vàng với bốn con rồng chầu mặt trời, với những nghệ sĩ đánh đàn với những cô tố nữ đang múa. Và óc ông đã lóe ra một đề tài nghỉên cứu mới.
Hôm mười ba, René và Pierre lên đền Mẫu đúng lúc bà đồng Mùi đang bắt ghế hầu thánh. Hai người dự cho đến hết ba giá đồng. Khi bà Mùi hầu xong lập tức một bà đồng khác thay chân hầu tiếp. René càng ngạc nhiên hơn khi ra ngoài điện thờ - Lúc này ở núi Mẫu không phải chỉ có một mà có nhiều đám hầu bóng. Đám ở dưới gốc cây ngọc lan có cây hương đã đành. Lại còn một đám ở dưới gốc cây si khổng lồ. Tại đây, người ta lấy năm tàu lá cọ chồng lên nhau xòe ra làm một bán mái. Từ đỉnh bán mái treo một chuỗi ba cái nón nối đuôi nhau từ trên cao rủ xuống, cái trên cùng tua đỏ, cái thứ hai tua xanh, cái thứ ba tua trắng. Dưới chùm nón là một hòn đá phía trên bằng phẳng đặt một bát hương. Và thế là đủ một điện thờ. Cung văn, chỉ một ông đánh đàn và một bà gõ trống phách. Cô đồng là một cô gái rất trẻ mặc áo xanh. Trước mặt cô có một đoạn thân cây chuối dài chừng gang tay trên cắm một thanh tre dán giấy mà người ta gọi cái cốt. Pierre nhìn những con người mê đắm và những màu sắc rực rỡ giữa một thiên nhiên êm đềm màu xanh, chợt thấy bản thân mình cũng như bị mê hoặc, bị ám ảnh. Ông vội lấy bút giấy ra vẽ nhanh ít nét. Ông còn lẫn vào đám con nhang đệ tử ngồi ở đó khá lâu. René phải kéo mãi Pierre mới chịu rời chỗ đó. Ông bảo sở dĩ phải ngồi lâu thế vì muốn thu vào tâm khảm những màu sắc, cái không khí hồn nhiên bí ẩn mà trong đời ông khó có dịp gặp lại. Buổi chiều hôm ấy, Pierre tự nhất mình trong buồng để tưởng tượng lại, ghi lại cái quang cảnh mà ông đã dự, lần này giữ lại bằng màu sắc thuốc nước.
Buổi tối rỗi rãi, René và Pierre rủ cả Julien xuống nhà ông đầu bếp Lềnh ở khu trồng bưởi cuối vườn. Ông già người Tầu thấy ba ông chủ Tây đến, định thu dọn cái bàn đến cất đi, song Julien hiền từ nói:
- Ông cứ để đấy, đừng dọn dẹp. Có cái bàn đèn của ông nói chuyện mới thú.
Ông Lềnh mời mọi người hút:
- Các ông chủ chớ ngại. Thỉnh thoảng hút chơi một điếu không có hại. Chỉ có lợi vì tinh thần sảng khoái.
Julien cười:
- Châu Phi có lên đồng. Đông Nam Á có lên đồng. Tôi nghĩ lên đồng của người An Nam là một thứ dị đoan, phù thủy, một thứ khoa học rừng rú.
René điềm đạm nói:
- Tôi nghĩ bất cứ tôn giáo nào cũng đều có trạng thái lên đồng. Cơ đốc giáo có sự thiên khai. Phật giáo có trạng thái Ngộ đạo. Khi đã lý thuyết hóa, ta mới coi đó là tôn giáo. Còn những sự thiên khai vô ngôn thì sao? còn những người bình thường bằng trực giác bỗng nhiên thấy được những điều đẹp đẽ bí ẩn thì sao?
- Như vậy là những người An Nam cũng có tình cảm tôn giáo sao? Tôi đã gặp những cha đạo rất thánh của chúng ta. Tôi nghĩ chỉ đến khi các vị ấy trải qua bao gian khổ tới đây, lúc đó người bản xứ mới có một đức tin chân chính. Hãy đến ngôi chùa cổ mà xem. Người giữ đạo ở đấy là ông già điên khùng. Còn ngôi điện thờ trên núi ư? Tôi không tin những người đàn bà mê muội ấy lại có thể mang giữ được những điều thiêng liêng cao đẹp mà chúng ta gọi tên là tôn giáo. Nếu chúng ta kiêu ngạo như vậy, làm sao chúng ta có thể hiểu được họ. Làm sao chúng ta có thể làm được một sự tăng hợp sáng tạo. Nghĩa là sự hòa trộn nhuần nhị giữa hai nền văn hóa đề tạo ra một đất nước đẹp đẽ theo mô hình văn minh của người Pháp để tạo ra một bó hoa rực rỡ kiểu Pháp giữa vùng châu Á.
Julien cười khẩy bảo René:
- Ông là người bênh vực và am hiểu người bản xứ. Vậy ông có nhận thấy họ là những người thích làm quan và háo danh không? Hầu hết người An Nam đều muốn làm quan. Và khi đã leo lên được một địa vị, lập tức họ trở thành một ông quan tham tàn. Thậm chí làm quan không có quyền, họ cũng mua quan. Họ như những đứa trẻ ngây ngô. Khi có tiền trong tay, ho phung phí nào khao nào cỗ bàn linh đình. Họ cứ tưởng như tiền ở trên trời rơi xuống. Họ đâu biết người Tây phương chúng ta được như hôm nay đã phải mất bao nhiêu trí não, máu và mồ hôi, và cả sự cần kiệm. Có giao quyền cho họ, họ cũng không biết sử dụng. Trên thế gian này, chỉ có kẻ mạnh văn minh và kẻ yếu tối tăm. Quy luật đào thải vô tư và tàn nhẫn. Nó không bao giờ nương tay với kẻ yếu. Người Pháp chúng ta đang làm đúng quy luật. Không bao giờ có sự tổng hợp, hòa trộn.
René còn đang lúng túng tìm câu trả lời thì có tiếng nói:
- Có chứ! Có sự hòa trộn chứ!
Cả hai người đang tranh cãi hăng hái chợt ngừng lại và quay mặt ra khi nghe thấy câu nói của Pierre. Người anh trai vô tích sự của Julien không biết đã lên nhà trên từ lúc nào và đã quay trở lại, đem theo một bức tranh. Bức tranh tên là "Đội lửa!. Một người đàn bà miền sơn cước váy đen áo xanh lam có hàng khuy bạc là lũ bướm đậu trước ngực. Cô ta đang múa. Trên đầu cô đội cái mâm cắm đầy nến cháy rừng rực. Cô gái mua mâm lửa trong giá đồng cô Bé sơn trang. Những cây nến lung linh đang cuộn theo vòng xoáy của điệu múa. Bức vẽ khá sinh động. Pierre giải thích:
Chất liệu vẽ là sơn dầu, do một họa sĩ An Nam vẽ, lại vẽ cảnh lên đồng. Như vậy chẳng là sự hòa trộn cả Tây lẫn Đông đó sao? Tiếc thay người họa sĩ đó đã vào Sài Gòn rồi.
Nhờ có bức họa của Pierre đem tới, cuộc tranh luận dịu hẳn đi. Julien cũng phải cười và công nhận bức vẽ đẹp. Còn René suy nghĩ rồi nói muốn mượn bức tranh này làm minh họa cho một bài nghiên cứu dài mà ông sẽ viết. Không khí căn nhà lá của ông Lệnh chợt lắng xuống chốc lát. Pierre phá không khí ấy:
- Cuộc tranh luận của hai ông bỗng làm tôi nhớ lại cuộc tranh luận của hai người bạn bản xứ của tôi. Họ là những người có học mà tôi tạm giấu tên. Để cho tiện, xin gọi họ là anh A và anh B. Hai người rất thân nhau. Chợt một hôm, giữa họ nổ ra cuộc tranh cãi kịch liệt. Chủ đề là tương lai của xứ sở An Nam.
Nghe đến chủ đề chính trị ấy mọi người đều chú ý, nhất là Julien. Julien chăm chăm nhìn người anh.
Cả hai người đều thống nhất một điểm là phải nhanh chóng Tây phương hóa xứ sở này. Điểm khác nhau là chỗ anh A chú trọng đến khía cạnh văn hóa. Anh A cho rằng khoa học là của chung của toàn thế gới, còn văn hóa mang đậm tính chất địa phương. Một dân tộc mất văn hóa sẽ không còn diện mạo dân tộc. Anh B cho rằng chuyện đó là phụ, điều quan trọng số một lúc này là phải Tây phương hóa để đuổi người Pháp chúng ta ra khỏi xứ này. Họ tranh luận với nhau càng lúc càng hăng. A bảo: gia đình là nơi quan trọng. B bảo: Không cần gia đình. A bảo: dân tộc là quan trọng. B bảo: Thế giới là quan trọng. Cứ tưởng cuộc cãi vã ấy hai người không nhìn mặt nhau nữa. A chia tay với B rồi bỏ đi.
Ông Lềnh là người thông minh. Ở với người Tây, ông đã học tiếng Pháp. Nhưng dù sao ông vẫn chưa thạo nên nghe nói ông chỉ nhớ đến A và B. Riêng Julien nghe xong ông gật gù:
- Tôi đã nhận ra A là ai và B là ai rồi.
- Sao?
- Sao ư? Có một điểm chắc chắn A đã vào Sài Gòn rồi, còn B chính là kẻ tôi đang truy tìm. Gặp hắn tôi sẽ bắn một phát súng vào giữa sọ hắn.
Ông Lềnh nghe chiều hướng câu chuyện lại muốn ngả sang phần tranh luận gay cấn, liền làm dịu ngay tình hình bằng những chuyện vui. Ông ta nói về chuyện đàn ông đàn bà. Nói về những chuyện rất tinh vi và rất lạ về quan hệ giữa hai giới của người phương Đông.
Thực ra, Julien không thích người da vàng. Trước kia, khi thấy ông anh Pierre và René hay đến uống trà và tán dóc với ông Lềnh, Julien tỏ vẻ không hài lòng.
Pỉerre cười và bảo em:
- Cậu tưởng người đầu bếp già ấy quá tầm thường sao. Ông ta là một nho sĩ, một vị tú tài, đã đọc hàng ngàn cuốn sách. Chỉ riêng việc ông ta tóm tắt cho chúng ta biết những cuốn sách của ông ta đã là quý lắm rồi.
- Chúng ta là những nhà chinh phục.
- Em là người đi chinh phục... Thiết tưởng càng cần hiểu về những thần dân của mình chứ.
Nghe lời Pierre, Julien đối xử với ông già Lềnh trân trọng hơn song không khỏi có phần hạ cố. Dần đần Julien cũng thích ông ta. René và Pierre thích ông Lềnh ở chỗ muốn qua cái tinh thần phương Đông của ông để gián tiếp rồi sau đó trực tiếp hiểu cái xứ sở này. Còn Julien dần dà thích ông Lềnh ở chỗ những mưu mô thâm sâu của những câu chuyện cổ Trung Hoa. Còn thích ông ở những lời khuyên, những câu chuyện tình dục kỳ lạ, cũng có thể nói có lúc tinh tế và kỳ cục, chúng kích thích trí tưởng tượng và sự tò mò của một người đàn ông cường tráng Tây phương như ông rất mạnh.
Ông già Lềnh thực khéo. Tranh cãi đến mức gay cấn để làm gì. Ở cái chốn heo hút, khỉ ho cò gáy này, lại ở bên cạnh cái bàn đèn thuốc phiện, nơi con người chỉ biết vui vẻ, giải phiền, thì trách nhiệm của ông, người chủ bàn đèn, là phải làm sao cho khách khi ra khỏi đây người nào cũng thấy thư thái. Ông biết tâm lý của những người đàn ông. Nói chuyện về đàn bà, người nào cũng thích và có phần sành sỏi riêng của họ. Người nào cũng có những nhận xét chí lý. Julien là người đầu tiên lên tiếng:
- Theo tôi nghĩ có lẽ điều hấp dẫn nhất ở xứ Đông Dương này là người đàn bà. Tôi đã đi khắp. Đã sang cả Cao Miên, Lào. Tôi ở Lào hơn một năm. Tôi thấy đàn bà Lào dịu dàng, dễ bảo, chịu vâng lời. Những người đàn ông nào muốn tìm sự êm đềm hiền hòa, xin hãy đến với đàn bà Lào.
- còn đàn bà Việt? - René cười hỏi lại.
- Tôi không thích hai hàm răng đen của họ. Nhưng may thay, tiếp xúc với đàn bà lại là trong đêm tối. Đêm tối mò, tôi không nhìn thấy cái điều mà tôi không thích. Khi đã vượt qua được cản trở đó, và khi đã có nhiều kinh nghiệm, tôi mới biết được cái mỹ miều của người đàn bà bản xứ. Một thân hình nhỏ nhắn và hoàn mỹ, làn da mượt mà săn chắc chứ không bệu nhẽo. Dáng đi đứng mềm mại, uyển chuyển của loài báo gấm. Cái dáng vương giả thần tiên. Một khuôn mặt trái xoan nhiều hơn là tròn. Đôi mắt hơi xếch, hơi man dại. Con mắt ấy, dáng vẻ ấy tạo ra một sự hài hòa và gợi báo cho ta biết một sức sống mãnh hệt. Thú thật, khi phát hiện ra được những đặc điểm đó tôi thấy mê những thân hình nhỏ nhắn, mềm mại, trơn nhẵn trong những giấc ngủ miền nhiệt đới. Tuy nhiên, vẫn có một cái gì đó kỳ lạ, bí hiểm mà tôi vẫn chẳng nghe ra khi ở trên giường với người đàn bà bản xứ. Cái đó kích thích tôi, thu hút tôi. Phải chăng vì da thịt họ thơm tho? Một mùi thơm thiên nhiên. Nó man mác như mùi hoa phong lan rừng ban đêm. Phải chăng còn vì cái thân hình be bé, xinh xinh như con búp bê của họ? Đó là thứ búp bê đai đẳng. Cảm giác lúc ấy là thứ cảm giác chặt chẽ, nó xiết lấy ta làm cho ta ngộp thở. Ta bỗng trở nên nhỏ bé lại, đúng, ta bỗng trở nên chú bé tí hon. Ta thăm thẳm chuồi vào ấu thơ. Có phải thế không nhỉ? Và tôi chợt thấy thán phục họ, người đàn bà bản xứ. Cái sinh vật nhỏ thó xinh xinh ấy lấy ở đâu ra mà tràn trề sinh lực thế nhỉ. Điều này tôi không thấy ở những người đàn bà của chúng ta.
Ông anh Pierre gật gù rồi phân tích quan hệ tình dục ở góc độ tâm lý:
- Có lẽ người Tây phương chúng ta đã quá lý trí, đem ý thức vào mọi vấn đề. Chúng ta đem ý thức vào cả những cuộc ái ân. Chúng ta có ý thức cá nhân cao. Ý thức cá nhân cao tức là ai cũng tranh phần hơn. Cả hai đối tác đều muốn phần hơn. Còn người bản xứ không đem ý thức vào đó. Ở họ ái ân tức là thiên nhiên. Có phải chú Julien đã gọi điều đó là điều bí hiểm chăng? Có phải cảm giác kỳ lạ là hệ quả của sự giúp gỡ giữa cái mà chú gọi là mông muội với cái văn minh tận hưởng của chúng ta chăng?
Ông Lềnh lại tham dự cuộc tranh cãi ấy một cách khiêm nhường:
- Chúng tôi là người đa vàng, chúng tôi không bàn luận về sự so sánh đó. Tôi là người Trung Hoa, tôi chỉ biết những câu chuyện của nước chúng tôi. Tôi xin kể chuyện một ông già đã tám mươi tuổi lại mua hai cô hầu non. Hai cô này chỉ trạc mười sáu mười bảy tuổi Lúc ấy, tôi hỏi ông già: "Cụ còn sức lực đâu mà lại dùng tới những hai cô gái tơ?”. Ông già trả lời: “Cậu còn trẻ, chưa hiểu được những bí thuật của cuộc đời. Các cụ xưa đã dạy ta điều này: Tất cả chỉ là chuyện của những làn da và sự điều hòa âm dương". Câu trả lời làm tôi cứ băn khoăn mãi. Về sau, khi đã lớn tuổi. Tôi mới hiểu ra. Ông già tám mươi kia mua hai cô hầu non về không phải để làm công việc thông thường giữa đàn ông và đàn bà. Thậm chí ông già còn kiêng chuyện đó. Đêm đêm, khi cả ba người đều trần trụi, ông già chỉ cần ngắm hai cô gái, vuốt ve da thịt họ. Còn công việc chính của hai cô chỉ là việc suốt đêm ôm chặt lấy ông và ve vuốt. Sách vở cổ của chúng tôi cho rằng ở những cô gái trẻ măng và trinh tiết như vậy, phần âm tính nơi họ rất mạnh. Cái âm tính hừng hực ấy sẽ phát tiết ra bề mặt những làn da và qua ôm ấp sẽ truyền lan sang ông già, để bồi bổ cho ông, bởi vì qua năm tháng thân thể người ta chỉ còn lại như thứ cây già cỗi chỉ còn cái phần dương tính leo lét. Phần âm tính mạnh mẽ kia sẽ kích thích cái phần dương tính kiệt quệ làm cho nó thức dậy rồi điều hòa nó. Giữa hai giới, chẳng qua chỉ là sự tiếp xúc của những làn đa. Bên trong hay bên ngoài thì cũng như nhau mà thôi.
Tất cả nghe xong đều cười òa. Cái câu chuyện lạ ấy chẳng biết có phải do ông đầu bếp già bịa đặt ra cho vui không, nhưng phải công nhận rằng chỉ có những người ở xứ viễn đông này mới có thể nghĩ được ra.
Nhưng mà Julien phải thú thật sự hưởng thụ những làn đa đẹp đẽ của con người đến như vậy thì thực tinh vi. Ông già Lềnh lại nói tiếp:
- Ngày mai là ngày cuối cùng của hội Kẻ Đình. Người ta bảo có những tục lệ rất lạ.
- Thế ông đã được dự bao giờ chưa
- Chưa, nhưng tôi đã được nghe kể. Câu chuyện ấy tôi đã được nghe bên bàn đèn nhà ông hương Ất.
Tiếp đó. Ông Lềnh say sưa kể cho họ nghe về sự tích ông Đùng bà Đà. Lại cũng vẫn là câu chuyện giữa nam và nữ. Chỉ có khác đây là chuyện tình cổ xưa về những người khổng lồ. Câu chuyện kích thích họ háo hức mong được dự ngày hội ông Đùng.
Người ta thường bảo nhau rằng: đi xem hội Kẻ Đình mà không dự ngày cuối. tức là không đi xem rước ông Đùng bà Đà, thì coi như chưa được đi xem hội. Do vậy nên tất cả những trò vui khác như chọi gà, đánh vật, đánh đu bơi chảy đều phải tiến hành từ trước đến hết sáng mười bốn là xong để đến chiều hôm ấy đi xem rước Ông - Bà. Ngay cả việc lên đồng ở đền Mẫu người ta cũng thu xếp đến quá trưa là xong, bởi vì đám con nhang đệ tử còn trẻ đều không muốn bỏ lỡ dịp vui.
Nhụ cũng thế. Cô cũng háo hức chẳng kém mọi người. Bà Mùi còn bận trăm công nghìn việc... Ông Huyền cũng vậy Cô gái đã nhân lúc mọi người còn đang tíu tít, nhanh nhẹn lẩn ra khỏi điện thờ, phăng phăng xuống núi để hòa vào đám đông người tụ tập ở chân núi, trước cửa đền.
Bà Mùi lúc ngơi việc, chợt giật mình nhớ ra một điều. Bà tìm Nhụ không thấy, hỏi ông anh trai:
- Bác Huyền! Cái Nhụ đâu rồi?
- Cô hỏi gì cháu? Chắc nó đã lẩn đi xem hội.
- Chết! Tôi quên khuấy mất - Bà tần ngần - Định dặn cháu một điều.
Điều gì bà Mùi chẳng nói ra? Mà nghĩ cũng lạ. Nói ra điều ấy thật vô lý. Đêm qua, bà nằm mơ thấy cụ Tổ cô về. Bà hay gặp cụ trong giấc mộng, điều này chẳng có gì lạ với bà. Chi có điều lạ là gặp bà, cụ Tổ cô cứ mấp máy đôi môi chẳng ra tiếng. Hỏi đi hỏi lại mãi mà đôi môi cụ tổ chỉ mấp máy không lời. Cuối cùng bà ghé sát tai vào môi mới nghe được mấy tiếng thều thào như gió thoảng; “Đừng... đừng... xem hội…” thốt ra mấy tiếng xong cụ Tổ cô đã như đám mây nổi trôi, tan loãng rồi biến mất. Bà đồng Mùi tỉnh dậy, nhớ nhớ quên quên, chẳng biết cụ Tổ cô có thực bảo: “đừng đi xem hội” hay không. Tuy nhiên, bà cứ thấy phấp phỏng trong lòng, nên quyết định đem câu nói ấy ra dặn cô cháu. Đáng tiếc thay, cô cháu lại lẩn đi mất rồi. Cuối cùng, bà Mùi tặc luỡi nghĩ bụng mình có bảo nó điều lạ lùng ấy chắc gì nó đã nghe.
Đúng vậy! Làm sao Nhụ có thể không dự ngày vui này khi đông người trẩy hội náo nức thế kia. Hội là ngày vui hiếm có của người dân quê quanh năm đầu tắt mặt tối. Rước ông Đùng bà Đà lại càng hi hữa hơn, có thể nói trăm năm mới có một ngày. Hơn nữa, hội này có những điều phạm vào cấm kỵ. Vậy nên nó hấp dẫn lạ lùng. Người thiên hạ đến xem đông vô kể.
Đám trai thanh, gái lịch, đối với cuộc rước ông Đùng bà Đà, lại càng háo hức hơn tất cả. Háo hức và phấp phỏng. Nghe nói đến, ai ai cũng tủm tỉm cười, có người còn đỏ ửng đôi gò má. Đó là một ngày hội cho phép con người được tự do nhất. Tự do ở những tục lệ sau hội, sau đám rước.
Đám rước đối với các bà sồn sồn nạ dòng thì sao? Có anh con trai ngổ ngáo hỏi một bà bạo miệng. Bà này trả lời:
- Lòng vả cũng như lòng sung. Trẻ có cái vui của trẻ. Già có cái vui của già. Còn các cụ già sáu, bảy mươi thì sao? Các cụ nghe hỏi đều sáng mắt lên bảo rằng lộc trời ai cũng muốn hưởng, song chẳng ai hưởng hết được. Hội ngày xưa, các cụ đã hưởng nhiều. Hội hôm nay, dành phần cho con cháu. Rồi các cụ cười nụ, chẳng nói gì thêm. Ý chừng nhớ lại những kỷ niệm xưa.
Riêng cụ phó Cối, tuổi ngót nghét sáu mươi, chân tay vẫn còn săn chắc. Cụ bảo đám thanh niên:
- Các con cứ yên lòng. Tuy ta không đi rước, nhưng sẽ đan hai hình nhân thật to, thật đẹp, làm sao cho ông Đùng bà Đà sẽ là hai người khổng lồ mà ai ai cũng phải thích. Ta sẽ chế những cái máy gỗ bên trong thật thần tình để cho ông và bà biết cử động chân tay, biết vui buồn y như người thật…
Đối với Nhụ, cô hồi hộp đón chờ đám rước chiều nay. Đó là niềm vui rất riêng tư của cô. Đó là điều bí mật của riêng vợ chồng cô. Gần đến ngày hội, Điều mới thổ lộ cho cô bí mật này. Điều thì thầm với Nhụ rằng anh đã “trải ổ” xong. Nhụ ngạc nhiên: “Trải ổ là gì?”. Đến tận lúc ấy, Điều mới giảng giải cho cô gái nghe cái tục “trải ổ” của dân Kẻ Đình. Tục lệ cho phép trai gái yêu nhau, dù chưa cưới xin, được phép tạo một chiếc giường tình, được phép tạo một chiếc ổ thơm tho, êm ái cho cuộc yêu đương của mình, trong một hang đá hoặc dưới một vòm cây nào đó ở trong rừng, cạnh núi Đùng… Điều ấy được dân làng cho phép trong tháng ba, tháng tư. Cô gái nào có mang lúc trải ổ trong thời kỳ ấy, được coi là rất may mắn. Cô ta sẽ sinh quý tử. Nhụ cười một mình: Hóa ra là thế. Mình nói để dành, anh ấy nghe theo; mình lại nói cái ấy chưa chín, anh ấy cũng nghe theo; cứ tưởng Điều là anh chàng ngốc; té ra anh ấy để dành thực sự, để dành đến ngày hội, để dành đến mùa thiêng. Bởi vì nhìn vào mắt chồng, Nhụ mới biết Điều rất tin vào tục lệ cổ ấy. Anh tin rằng, đến hội, ông Đùng bà Đà sẽ phù hộ, sẽ ban phúc cho vợ chồng anh. Và nhất định vợ chồng anh tới đây sẽ sinh quý tử.
Xế chiều, người đi rước đã tụ tập ở chân núi Mẫu hàng ngàn đông như kiến cỏ. Nhụ lẫn trong đám người, đưa mắt tìm chồng. Hai đứa đã hẹn nhau từ trước. Quái lạ? Vẫn chưa thấy bóng dáng Điều. Nhụ liền tách khỏi đám đông, đứng ở một mô đất cao, dưới gốc cây trám. Đứng tách ra thế để Điều đi tìm để nhận ra. Đứng một mình Nhụ lại cười thầm và tiếp tục dòng suy nghĩ bị đứt quãng.
…Năm nay cả hai đứa đều tròn mười lăm tuổi. Nhụ biết mình là đã chín rồi. Nhiều đêm Điều vầy vò đôi nhũ hoa đã thây lẩy của Nhụ, cô thấy lòng mình xốn xang rạo rực. Còn Điều, chắc anh chàng chưa "chín lắm. Có như thế cu cậu mới chịu để dành chứ. Nhưng đến bây giờ thì sao? Chắc anh chàng cũng đã sẵn sàng. Chính vì vậy, Điều mới sáng mắt lên và thổ lộ hứng thú với Nhụ về cái giường ổ rất êm, rất thơm tho mà anh đã mất công một mình tạo dựng. Điều bảo đã tìm thấy một hang đá gần quả núi Đùng rất kín đáo, lại khô ráo. Cái hang nằm ở lưng chừng núi chưa người biết. Bên trong có một chỗ cao tương đối bằng phẳng, Điều chọn chỗ đó, đòn đá quây như cái thường có thành, rồi đánh tranh trải làm chiếu, sau đó cắt cỏ mật phơi khô tạo thành cái ổ thơm phưng phức. Ở đấy Điều còn để sẵn nồi đất và gạo phòng khi muốn ăn... Việc làm này của Điều vẫn mang chất mục đồng; chẳng là khi hai dứa đi chăn bò, Nhụ vẫn thích nấu nướng... Cái anh chồng của Nhụ thật ngộ. Ý chừng anh chàng muốn tạo nên một cái gì thật vui, thật đặc biệt, để chẳng bao giờ có thể quên được chuyện này... Ử có bao giờ lại quên được nếu như trong những ngày này. Nhụ được đơm hoa kết trái. Nếu Nhụ được trời phật thương mà có con, các cụ bảo những đứa con như thế sẽ rất thông minh sáng láng lại nhiều phúc nhiều lộc. Ngày xưa, nếu thai nhi được sinh ra từ ngày hội, mẹ nó sẽ được thưởng ba quan tiền kẽm; còn ngày nay. các cụ sẽ thưởng cho miếng vải hồng để mẹ may áo cho con...
Cô gái chợt giật mình vì có tiếng người gọi. Cái Lan, cái Huệ, cái Năm, cái Thắm trông thấy Nhụ vội chạy tới. Lan bảo:
- Chờ chồng phải không? Đừng chờ nữa! Mình mới gặp Điều. Thi bơi chải sáng nay, đội làng mình giải nhất. Cả đội chải đang ngồi trong làng uống rượu mừng. Hắn bảo cậu cứ đi xem hội với bọn mình. Còn hắn sẽ ra sau. Có tiếng trống cái thì thùng. Người ta đã dùng thuyền rước ông Đùng, bà Đà từ đình làng xuống bến, theo sông lên trước cửa đền.
Lúc này, tất cả mọi người đều đổ đồn nhìn vào hai người hình nhân. Bảo là hai người hình nhân khổng lồ cũng được, mà bảo là hai con rối khổng lồ cũng được. Ông Đùng cao to gấp ba, bốn người thường, cao to tới mức có đủ chỗ cho hai người lớn chui vào bên trong để khiêng và điều khiển những máy lỗ kiểu như ta điều khiển con rối. Họ có thể làm cho cái đầu lắc lư và đôi mắt đảo đi đảo lại để biểu lộ sự hoan hỉ tinh quái. Họ cũng có thể làm cho đôi tay người khổng lồ giơ lên, hạ xuống, ôm choàng thân mật. Bà Đà là một hình nhân bé hơn ông Đùng chút ít. Cũng như ông Đùng, bà cũng có thể lắc lắc đầu và giơ tay lên xuống. Chỉ có một điều khác: người ta có thể điều khiển làm cho bà Đà há miệng tròn to. Kiểu há miệng thơ ngây khi con người vui thích.
Ông Đùng mặc áo đỏ quần đỏ. Mặt hồng có râu có ria. Thực ra, người ta không làm máy điều khiển râu, ria, nhưng cụ phó Cối là người hóm hỉnh, cho nên cụ để cho hai chòm ria có thể tự chuyển động. Khi cái đầu ngoẹo sang một bên, lập tức bộ ria cũng biết cử động theo. Nhờ đôi mắt biết đảo đi đảo lại, đôi ria biết ngọ nguậy, nên trông bộ mặt ông Đùng thật ngộ nghĩnh và sinh động.
Bà Đà mặc áo xanh, quần xanh. Mặt trắng, lông mày đen nhánh. Trông bà thật đẹp và đa tình ông cụ phó Cối này đã già rồi mà vẫn còn tếu. Ông làm cho bà Đà một đôi vú hẳn hoi, mà lại là loại vú ấm giỏ mới nghịch chứ. Đan đôi vú bằng nan tre, phất giấy hồng. Bà Đà mặc yếm trắng. Đôi vú lại cũng biết cử động. Khi rước, đôi lúc gió núi đánh toe cái yếm lên, để lộ ra đôi vú hồng thây lẩy, núng nính. Đám con gái lại được dịp ồ lên ngắm nghía đôi vú to đúng bằng hai quả mít đại.
Đám rước mới đầu là một, đến chỗ đường rẽ, tách làm hai; nam đi theo ông Đùng ở con đường bên trái; nữ đi theo bà Đà ở con đường bên phải. Lộ trình đám rước như sau: cả hai con đường đều xuất phát từ chân núi Mẫu, đi qua thung lũng và đều dẫn đến núi Đùng. Ông đi một đường, bà theo một nẻo, như thế để tượng trưng cho việc hai ông bà đi vòng quanh núi, nhưng cuối cùng họ vẫn gặp nhau ở bãi rộng dưới chân núi Đùng. Hai đám rước đầy đủ cờ, quạt, lọng che, trống to, trống nhỏ. Trống hội tùng tinh vang động khắp thung lũng. Người ta vừa đi vừa reo hò:
Ông Đùng mà lấy bà Đà
Đẻ con, cái vú bằng ba quả dừa.
Quãng đường rước hình nhân khá xa. Đi dềnh dang nên gần hai tiếng mới đến nơi. Nhập nhoạng tối mọi người mới đủ mặt trên bãi. Người đi trầy hội đều đã chuẩn bị sẵn. Người mang bó đuốc, kẻ xách nùn rơm. Nùn rơm không cháy đùng đùng như đuốc nhưng mỗi khi vung vẩy mạnh, nó lại hồng lên vẽ thành những vệt sáng trong bóng tối...
Ở giữa bãi rộng, người ta đã đốt nhiều đuốc. Giữa núi rừng, đuốc bập bùng, trống đánh thì thùng, người reo hò vui sướng. Hai hình nhân từ đầu hai con đường, theo tiếng trống và tiếng hò la cũng vẫy tay rối rít, rồi đi vào giữa bãi. Họ càng đến gần, tiếng trống càng rộn rã. Người tham dự tự động tản ra, tạo thành một khoảng trống một sân khấu tự nhiên, nơi ông bà gặp mặt nhau. Hai hình nhân khổng lồ một đỏ, một xanh, cố bước cho nhanh. Trông họ vụng dại và ngây thơ đến tức cười. Ông cụ phó Cối làm máy điều khiển thật thần tình. Hai con nộm khổng lồ đã đứng trước mặt nhau. Ông Đùng giang rộng đôi tay. Bà Đà cũng vậy. Hai hình nhân ôm chầm lấy nhau, đầu con nọ ngả vào vai con kia. Cả bốn con mắt đều cụp xuống. Quang cảnh vừa ngồ ngộ vừa cảm động. Đám con gái bỗng cất giọng thanh thanh đặt ra câu hỏi:
Cái nạo thế sừ là cái sự thế nào?
Đám con trai đồng thanh hô to trả lời:
Cái nạy thế sừ là cái sự thế này!
Ông hình nhân áo đỏ đã tách xa khỏi bà hình nhân áo xanh. Bất thình lình, khắp bãi rộng bỗng động lên một tiếng ồ đài kinh ngạc. Ở trong ông hình nhân áo đỏ, người ta giật máy để cuốỉ cùng một khúc tre sơn đỏ từ bụng ông Đùng khổng lồ đột ngột chui ra. Tiếng trống, khi ông bà gặp nhau, đã dịu đi ỷ chừng để hai ông bà dễ biểu lộ sự mừng mừng tủi tủi lúc này lại rộ lên rung trời, và tiếng hò la cũng như sấm rền đậy đất. Hai hình nhân sáp lại ôm chầm lấy nhau. Đặc biệt là hình nhân áo xanh, cái mồm há hốc. Tiếng cười vang. Tiếng hét vang. Những cô nàng kín đáo, ý tứ nhất cũng phải đỏ mặt, bịt miệng cười khúc khích. Vui thật là vui. Vui đến nổ trời sập đất.
Nhưng kìa, chú ý mà xem! Ta bỗng thấy hai đống củi lù lù mọc lên giữa vòng tròn từ lúc nào chẳng hay. Một ông già quấn khăn nhiễu, quần chùng áo đài, đang dự đầu vào củi. Đám thanh niên khiêng ông Đùng bà Đà đặt lên. Ông và bà lặng lẽ nhìn nhau. Lúc này, người trong bụng hai hình nhân không còn nữa. Không có điều khiển, tay hình nhân thông xuống cái đầu cũng hết lắc lư, bốn con mắt, khi cái đầu đứng nguyên bỗng cụp xuống cả. Ôi chao Hai gương mặt hình nhân lúc ấy sao mà buồn thế! Hay là ông và Bà đều biết rõ số phận của mình. Cuộc vui đã tàn, người ta đem thiêu họ. Ông già quần chùng áo dài vái lạy rồi vứt bó đuốc vào đống củi. Hai hình nhân bằng nan tre và giấy bắt lửa rất nhanh. Lửa cháy đùng đùng trên thân hình hai người khổng lồ. Hai hình nhân thản nhiên một cách lạ lùng. Sao họ chẳng thét lên? Tay họ thõng thượt. Chỉ còn hai cái đầu thỉnh thoảng gặp gió lại lắc lư nghiêng bên trái bên phải để cho những con mắt đôi lúc choàng mở, đôi con mắt ngạc nhiên ngơ ngác. Lửa lem lém từ chân leo lên bụng. ngực, rồi từ ngực lan sang tay và cuối cùng bò lên tận mặt. Chăng biết ông phó Cối bế trí máy móc thế nào, hay lửa đã tác động đến máy móc bên trong ra sao, mà bỗng nhiên mồm bà Đà chợt há rất to. Khi trước, lúc vui, miệng bà cũng hồ nhưng nhỏ thôi, còn lúc này mồm bà há hoác hết cỡ. Một ngọn lửa chợt từ mồm bà chui ra. Lúc đầu là một lưỡi lửa, sau đó là một luồng lửa phụt ra rất mạnh. Bà Đà đã hét ra lửa để sau đó khuôn mặt bà tan ra. Ông phó Cối làm được việc này thật thần tình hay đó chỉ là một kết quả ngẫu nhiên.
Khi gương mặt hai người khổng lồ biến mất, tiếng cười reo của người đi xem hội cũng tắt ngấm lúc nào chẳng hay. Trống cũng bật lặng. Người ta đứng im ngắm nhìn hai cột lửa ngất trời. Lửa tạo ra gió bốc lên trời. Nó mang theo cả những tro tàn, mang theo cả những mảnh giấy hãy còn bắt lửa. Chúng lốm đốm như sao sa bay vào rừng sâu. Gió cuốn bay đi cả những thương xót những tội lỗi, cả mềm ân hận của con người. Hầu như mọi người đều im lặng. Chỉ có vài người nghiệt ngã nói rằng:
- Chết thiêu là còn nhẹ đấy. Ngày xưa, người ta còn khoét mắt, cắt lưỡi, chặt đầu, băm vằm ra nhiều mảnh rồi mới đem thiêu.
Riêng đám thanh niên, họ câm như hến. Đối với họ hình như, xót thương nhiều hơn căm giận, vả lại họ cũng chưa đủ từng trải để đưa ra những lời phán xét. Hơn nữa sự sống quan trọng hơn. họ còn bận sống. Những đôi trai gái đã rủ nhau từ trước. Từng đôi. họ tản vào rừng, leo lên núi vào khu rừng mít, hoặc rẽ cỏ gianh xuống thung lũng. Những tiếng hú gọi nhau ở mọi phía. Những chiếc mồi rơm vung mạnh vẽ nên những vòng tròn lửa sáng quắc trong đêm. Mưa lây rây. Sương mù từ núi cao trườn xuống hay từ rừng sâu tuôn ra tràn đầy thung lũng. Xa xa những bó đuốc chiếu qua sương tạo thành những mầu sắc cầu vồng đẹp lạ lùng.