A good book is always on tap; it may be decanted and drunk a hundred times, and it is still there for further imbibement.

Holbrook Jackson

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Minh Khoa
Số chương: 61
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1965 / 44
Cập nhật: 2015-11-20 23:45:16 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 51
ăm 1977, sau khi được chuyển từ Long giao lên Gia rai, trại của Ngữ được phép thăm nuôi. Giấy phép được Ban Quản giáo gửi thẳng về gia đình người học tập cải tạo trước đó cả tháng, trong giấy phép có ghi rõ ngày giờ thăm nuôi, nên ai cũng tràn trề hy vọng.
Tên Ngữ vần N nên phải chờ tới ngày thứ 29 mới đến lượt mình. Ngữ nghĩ giai đoạn lao đao của mình đã qua, các rủi ro đã hết. Các sĩ quan Tâm lý chiến bị nhập chung với sĩ quan cấp tá để đưa ra tận các trại cải tạo ngoài Bắc. Ngữ được lọt sổ đoạn trường, vẫn ở trại Long giao rồi chuyển về lao động ở trại này. Cuối năm 1975, Ngữ nhận được gói quà vợ gửi chưa kịp mừng thì đã bị cán bộ quản giáo gọi lên nặng lời khiển trách, bảo Ngữ không chấp hành nghiêm chỉnh lệnh của chính quyền cách mạng. Ngữ hoang mang chưa biết ông bạn nào xấu miệng báo cáo cán bộ điều gì, thì cán bộ quản giáo vứt ra trước mặt Ngữ một gói quà nhỏ, đanh giọng hỏi:
- Mẹ Thuận là ai? Sao đã xin quà của vợ lại còn xin thêm quà của mẹ? Học tập cải tạo bao nhiêu nay mà còn ham vật chất, thích hưởng thụ, làm khổ gia đình như thế à?
Ngữ đứng ngớ ra, không hiểu tại sao bà Văn gửi quà cho mình làm gì khi Nhà nước qui định mỗi cải tạo viên chỉ được phép nhận một gói quà tối đa năm ký. Mà có phải mẹ gửi không? Sao lại đề tên người gửi là Mẹ Thuận? Đúng lúc đó, Ngữ chợt hiểu: Diễm đã gửi quà cho mình theo địa chỉ hộp thư Diễm dò hỏi được. Ngữ sung sướng vô cùng, nhưng ngoài mặt rán làm ra buồn rầu hối hận để nghe cán bộ dạy dỗ. Ngữ không được phép nhận gói quà đó, “đáng lý cách mạng phải gửi trả lại cho người gửi nhưng vì không có địa chỉ nên Ban Quản giáo tịch thu gói quà, bồi dưỡng cho anh em vệ binh”. Để cho công minh, viên cán bộ mở gói quà trước mặt Ngữ để nếu có thư thì cho Ngữ nhận. Gói quà không kèm thư từ gì cả, quà lại thuộc dạng không “chuyên nghiệp”, toàn những món ăn chơi như bánh biscuit, kẹo, hộp trà ướp sen và thuốc lá. Cán bộ còn dọa có thể Ngữ không được phép thăm nuôi vào lần sau, nếu Ngữ tiếp tục ngoan cố, ích kỷ.
Suốt hai mươi tám ngày trước, toàn trại rộn rịp như ngày hội. Tối hôm trước kỳ được thăm nuôi, không ai ngủ được. Buổi sáng đến phiên ai được gặp gia đình, người đó hồi hộp nhìn được thân nhân sau hơn hai năm xa cách thì bạn bè cùng láng cũng hồi hộp chờ bạn về. Người mang được tin vui, không ít thất thểu xách giỏ thăm nuôi trở về với bộ mặt dàu dàu, ai hỏi gì cũng không nói. Buổi tối, những thức ăn phải ăn liền như xôi, bánh mì, bánh bao, thịt quay… được bày ra, từng nhóm vừa ăn uống xì xụp vừa kháo chuyện nhà. Thuốc lá thơm chuyền từ môi này đến môi khác, khói un mù mịt cả đêm rừng. Lòng từng người dù đã được thăm nuôi hay chưa đều mở hội, quà cáp thứ gì không thuộc loại lương khô (như mì ăn liền, cốm dẹp, mắm ruốt, muối đỗ, bánh tráng…) đều trở thành tài sản chung. Ngày thăm nuôi của Ngữ đã đến. Vì đã sống suốt hai mươi tám ngày nôn nao rộn rã cùng với bạn bè nên đến lượt mình, Ngữ bình thản hơn. Toán vần NG của Ngữ thuộc buổi chiều, nên Ngữ càng có thì giờ để trấn tĩnh. Vì được lệnh chính thức nên Ngữ lục bộ quần áo dân sự lâu nay nhét dưới đáy xắc ra mặc lại. Nếp áo còn nhăn, hăng hắc mùi băng phiến pha lẫn ẩm mốc và mồ hôi, kích thước lại quá rộng. Tuy vậy ai cũng hân hoan như trẻ con được mặc áo mới đi hái lộc đầu xuân. Một lần nữa, Ngữ có cảm tưởng (hay ảo tưởng?) được dứt khoát với quá khứ để lập cuộc đời mới, được vứt bỏ bộ quân phục dày cộm khoác áo nhẹ về quê xây nhà lập vườn như cảm tưởng trong bữa tiệc giã từ vũ khí ở nhà mẹ.
Đúng hai giờ chiều, Ngữ xếp hàng cùng các bạn theo cán bộ quản giáo ra cổng trại. Nhà thăm nuôi nằm sát bên trong hàng rào kẽm gai, đứng đó có thể nhìn rõ nhà ga và cảnh thân nhân các nơi đổ về đây.
Những người tù cải tạo được lệnh ngồi xuống theo hàng ngũ dưới một gốc sấu già, ai được gọi tên mới xách bao xách túi ra khu tiếp tân. Lệnh thật nghiêm: không được nói chuyện, không được đứng dậy chỉ trỏ, không được ra dấu hoặc nhờ vả nhắn nhủ kẻ đi lãnh quà trước. Vì sợ phạt cúp thăm nuôi, ai cũng lo răm rắp tuân theo. Nhưng lòng mọi người không yên. Vắng cán bộ quản giáo một lúc là tiếng xì xầm nổi lên ngay. Nhiều người thấy vợ con xách giỏ đi vào cổng, mừng quá reo lên, hoặc đứng hẳn dậy gọi ơi ới. Biết làm sao được! Hơn hai năm nay mọi người không biết gì hết ngoài việc chịu đựng những bài học tập chính trị và làm rẫy, tin tức gia đình và những gì xảy ra ở ngoài vòng kẽm gai đều mù tịt, ai không nôn nao!
° ° °
Ngữ lóng ngóng chờ mãi vẫn chưa thấy bóng vợ con và người thân. Ba giờ. Ba giờ rưỡi. Rồi bốn giờ. Chỉ còn nửa giờ nữa. Bốn giờ mười, rồi bổn giờ mười lăm. Toán của Ngữ hầu hết đều đã gặp thân nhân và hớn hở xách giỏ lương thực nặng trở vào. Bốn giờ hai mươi. Chỉ còn Ngữ và một thiếu tá bảo an hồi hưu ngồi lại. Cụ thiếu tá thất vọng ra mặt, hết đứng lên ngóng ra cổng trại lại ngồi xuống ho sù sụ. Ngữ cố giữ trầm tĩnh ngồi bó gối nhưng trong lòng như có ai đốt lửa. Nhà tiếp tân vắng dần. Bốn giờ hai mươi ba, rồi bốn giờ hai mươi bốn phút. Đúng bốn giờ hai mươi lăm thì chuyến tàu chợ từ Sài gòn lên xình xịch đỗ ngoài ga. Niềm hy vọng cuối đây! Không dằn được nữa, cả Ngữ lẫn cụ thiếu tá đều đứng bật dậy, dợm chạy ra phía nhà tiếp tân. Ngữ đã không lầm. Lúc hồi kẻng báo hiệu giờ thăm nuôi đã hết uể oải điểm đều từng tiếng, Ngữ thấy Quỳnh Trang một tay xách cái giỏ nặng một tay dắt con chạy từ nhà ga vào cổng trại. Ngữ xúc động quá kêu lớn:
- Trang ơi! Anh ở đây!
Có lẽ tiếng gọi của Ngữ bị gió rừng bạt mất, vì chàng không thấy Quỳnh Trang quay nhìn về phía mình. Người vệ binh đứng tuổi mang kính râm giữ việc kiểm soát giấy phép thăm nuôi đã đứng dậy sắp sửa về. Toán thân nhân đến trễ đang bu quanh ông ta, nét mặt người nào cũng khẩn khoản, chới với. Họ năn nỉ gì đó, nhưng Ngữ thấy ông vệ binh cứ lắc đầu. Một bà cụ nắm tay ông ta nói một hồi. Ông ta chăm chú nghe, nhưng đưa tay lên xem đồng hồ, rồi lại lắc đầu. Đến phiên Quỳnh Trang chen vào. Nàng nói gì Ngữ nghe không được, chỉ thấy Quỳnh Trang vừa nói vừa trỏ về phía nhà ga. Có thể nàng đổ lỗi cho chuyến tàu chợ trễ nãi. Người vệ binh vẫn lắc đầu. Nóng ruột quá, Ngữ liều lĩnh bỏ chỗ gốc sấu chạy tới khu tiếp tân. Ngữ nghe rõ mồn một giọng Nghệ Tĩnh giận dữ tức tối của ông ta:
- …Các người còn muốn đòi gì nữa? Chồng con các người mang tội với nhân dân phải học tập cải tạo nhưng còn có ngày được về. Còn tôi đây này, nhập ngũ từ 1965 đi khắp các chiến trường đến lúc về ở cái xó rừng này, biết bao giờ tôi mới được về? Chồng con các người còn được tiếp tế giỏ này giỏ nọ. Còn tôi đây, xa gia đình suốt bảy năm mà vợ con không đủ tiền gửi cho lấy cái kẹo lạc. Các người còn đòi gì nữa!
Nghe lén được mấy câu đó, Ngữ sững sờ đến nổi gai ốc. Chàng va đầu vào bức tường sự thật tàn nhẫn nên choáng váng. Người Ngữ ngây ngây, quên cả ý định lên tiếng để vợ con trông thấy mặt.
Có lẽ các thân nhân đến trễ cũng có tâm trạng y như Ngữ, nên người vệ binh nói xong, họ tản ra hết. Đã nói đến nước đó thì nằn nì cũng vô ích. Ngữ nhìn mẹ con Quỳnh Trang buồn bã xách giỏ quày trở ra ga, nghẹn ngào không biết phải làm gì. Cuối cùng chỉ còn biết sợ! Ngữ nháy mắt ra hiệu cho cụ thiếu tá hồi hưu, rồi se sẽ trở lại ngồi chỗ cũ. Hai người về trại tay không, lòng vừa buồn bã vừa hoang mang. Người vệ binh già đi trước đưa hai người cuối cùng trở vào. Nét mặt ông ta lầm lì, bước chân nặng nề, đầu cúi xuống. Chiều ở rừng buốt lạnh. Chuyến tàu chợ ngược về Sài gòn xình xịch đỗ ở cái ga xép. Tiếng còi tàu khao khao hơn nghẹn. Cổ họng Ngữ cũng nghẹn.
° ° °
Buổi tối hôm đó Ngữ nằm riêng một góc không tham dự cuộc vui chung. Các bạn tưởng vì không được thăm nuôi Ngữ buồn, ân cần đem đến tận chỗ Ngữ nằm mời mọc hết thứ này tới thứ khác. Ngữ cầm quà cho họ vui lòng, nhưng không thể nói hết lý do nỗi hoang mang của mình.
Ngữ tiếp tục được hưởng sự ân cần mời mọc của bạn bè suốt nửa tháng thăm nuôi còn lại. Thật ngược đời! Trong láng, Ngữ và cụ thiếu tá bảo an hồi hưu trở thành hai đứa trẻ được nuông chiều, ăn uống phủ phê còn hơn cả những người được may mắn.
Nhưng sự “phồn vinh” ấy “giả tạo”. Lúc các thức ăn chơi đã cạn và trong giỏ xách từng người chỉ còn lương khô, thì ai ai cũng lo tính đến đường xa. Kỳ thăm nuôi tới chưa biết lúc nào, sức mang xách khiêng đôi gánh gồng của những người vợ héo hon những bà mẹ già nua những đứa em yếu ớt thì có hạn. Cho nên ai cũng phải dè xẻn tính toán từng mẩu bánh khô, từng nắm cốm dẹp. Không muốn ích kỷ cũng phải đâm ra ích kỷ.
Ngữ trở lại sống nghèo đói đúng một trăm phần trăm nghĩa đen giữa đám bạn bè tương đối đầy đủ. Tinh thần Ngữ sa sút thêm. Không còn sự bình đẳng trong thiếu thốn nữa, nên Ngữ và cụ thiếu tá thui thủi một mình, mỗi lần thấy ai mở giỏ lương thực hoặc nấu nướng thứ gì thì phải tìm cách lánh đi chỗ khác để họ khỏi khó xử. Và thành thực hơn, phải nói thêm là để đỡ thèm thuồng.
Đã thế, hình như Ban Quản giáo ỷ y vào đồ thăm nuôi nên lặng lẽ rút bớt tiêu chuẩn lương thực cấp phát cho tù cải tạo xuống. Ngữ đói mà không kêu ca than van với ai được. May cho Ngữ là khoảng ba tuần sau, Ngữ được chuyển sang làm rẫy.
Thung lũng Gia rai đất đỏ phì nhiêu chẳng kém gì vùng Xuân lộc, Long khánh, nhưng vì thiếu nước nên chỉ làm rẫy được trong mùa mưa. Trước đây Nhà nước có đưa dân lên đây lập một khu kinh tế mới, nhưng cán bộ chuyên viên qui hoạch lỡ quên vấn đề sống còn không kém quan trọng là nước. Cũng có thể các chuyên viên ấy tin tưởng tuyệt đối vào ý chí con người. Không có nước ư? Thì hãy xắn tay áo lên, “vắt đất ra nước thay trời làm mưa”.
Khổ nỗi mồ hôi của dân kinh tế mới không đủ tưới cây, và các cán bộ hướng dẫn lại không chịu đổ mồ hôi lao động, cho nên chẳng bao lâu khu kinh tế mới vỡ. Một số dắt díu bồng bế nhau trở về thành phố che lều ở bất hợp pháp ngay trên nền nhà cũ. Một số thành tiều phu. Đàn bà con nít bán hàng rong, bán củi bó dọc theo đường xe lửa. Trên thung lũng gió hú chỉ còn lại đơn vị bộ đội lãnh phận sự quản giáo và các sĩ quan học tập cải tạo.
Những người tù cải tạo như Ngữ không được giữ lại mồ hôi trong người. Mùa nắng phá rừng, mùa mưa trỉa bắp. Chẳng bao lâu hai bên đường xe lửa từng nương bắp xanh ngút ngàn lần lượt lấn chiếm cây rừng và những bụi gai dại. Dù là những tên tù bị cưỡng bách lao động, nhưng nhìn những chồi bắp non vô tội nhú lên khỏi lớp đất đỏ, từng ngày theo dõi cách nó nứt lá, trổ hoa, nhú trái, lòng người nào cũng náo nức rộn rã. Có thế chứ! Tù cải tạo đâu phải là đồ phế thải. Có một niềm hãnh diện khắc kỷ trong lòng từng người, và chỉ cần có bấy nhiêu, họ đã đủ sức mạnh tinh thần chịu đựng mọi gian khổ thiếu thốn.
Nhưng được làm rẫy không phải chỉ có phần thưởng tỉnh thần. Nó còn là phần thưởng vật chất.
Sĩ quan học tập cải tạo được chuyển lên Gia rai không bao lâu thì khách đi lại trên các chuyến xe lửa xuyên Việt dần dần biết được những người mặc đồ lính quân đội cũ làm rẫy trên rừng là ai. Tin lành bay xa và vội, từ đó nhiều chuyện bất ngờ xẩy ra. Thư nhà gửi theo lối may rủi, trái cây, quà bánh từ trên xe lửa cứ bay xuống chỗ những nhóm tù lao động bên đường rầy. Các vệ binh canh giữ tù lao động ngơ ngẩn chẳng biết xử trí làm sao. Phải chờ chỉ thị của cấp trên. Trong khi chờ đợi họ vờ như không thấy gì hết.
Một lần Ngữ lượm được một lúc hai cái bánh ú. Chàng vừa thành thật vừa tinh nghịch mời cậu vệ binh tuổi khoảng mười tám mười chín. Ngữ tinh nghịch muốn thử lại bài toán đã biết đáp số, còn thành thực vì thấy khuôn mặt cậu ta hiền quá, trên mép mới mọc lông măng và cái nhìn liếc về phía Ngữ có vẻ thèm thuồng. Một bộ đội sữa vừa mới nhập ngũ sau ngày giải phóng. Ngữ đoán vậy. Thấy Ngữ chìa cái bánh ú về phía mình, cậu vệ binh lắc đầu quầy quậy:
- Không. Không.
Rồi như sợ Ngữ hiểu lầm, anh ta thêm:
- Tôi no rồi. Anh cứ ăn đi.
Câu nói thêm khiến Ngữ có cảm tình với anh vệ binh trẻ tuổi. Hình như anh ta muốn xác định rõ: việc từ chối không phải là xác định lập trường, dứt khoát phân biệt bạn thù, kiên quyết theo con đường chính thống. Nó thuộc vào phạm vi tiêu hóa, bạn thù đều có bao tử, thế thôi.
Ngữ bạo dạn đưa ra nhận xét:
- Anh từ chối cũng phải. Hôm qua bạn tôi kể một trường hợp tương tự. Em gái bạn tôi đang mang thai nhưng tính lém lỉnh y như thời con gái. Cô ta phải xách cái giỏ thăm nuôi nặng từ nhà ga vào khu tiếp tân. Cô nhìn quanh định nhờ vả, nhưng ai cũng lo cho phần mình. Cô ta bắt gặp một anh vệ binh trẻ đang nhìn cô, ánh mắt có vẻ ái ngại. Cô đánh bạo nói: “Anh ơi, xách giùm cái giỏ cho em với” Anh vệ binh chợt đổi mặt nghiêm, đáp lại: “Tôi là vệ binh giúp cô sao tiện”.
- Nếu cô ta nhờ tôi, tôi cũng phải đáp y như thế.
Một lần nữa, Ngữ thích sự chân thật của cậu vệ binh.
Ngữ nói ngay không do dự:
- Tôi thích sự sòng phẳng của anh. Cũng như tôi thích tính thẳng thắn ruột ngựa của ông quản đốc trại này. Hôm chúng tôi mới tới, ổng nói ngay: “Các anh là tù, tù, tù, chớ không phải cải-tạo-viên cải-tạo-hòn gì ráo trọi. Các anh phải răm rắp nghe lời. Ngày trước các anh làm cha rồi, bây giờ tới lượt chúng tôi làm cha, nghe chưa!” Đấy, thà nói quách như vậy cho dễ xử trí với nhau. Hình như ông ta gốc Nam bộ thì phải.
Cậu vệ binh cười hô hố một cách thoải mái. Ngữ cũng cười. Bức tường vô hình ngăn cách giữa tù nhân và cai tù biến mất. Cậu vệ binh bảo Ngữ nghỉ thêm một lát, rồi hỏi:
- Trong này có con rô ti là con gì nhỉ?
Ngữ ngớ ra, hỏi lại:
- Con rô ti à?
- Phải. Con rô ti.
- Có lẽ một loại súc vật mới lai giống, như trâu sữa Mura, heo Yorkshire. Nhưng anh thấy nó ở đâu? Hình thù thế nào?
Cậu vệ binh đỏ mặt, sau một hồi ngập ngừng mới đáp:
- Tôi đã trông thấy nó đâu! Tuần trước tôi được phân công kiểm soát đồ thăm nuôi. Một chị có chồng bên khu C biên vào tờ kê: “Gà rô ti hai con” Tôi hỏi: “Gà có đây, còn con rô ti đâu?” Chị ta cười phá lên. Rồi cả khu tiếp tân đều cười. Thú thật tôi ngượng quá, nhưng không hiểu tại sao.
Ngữ nhìn cậu vệ binh ái ngại. Không sợ cậu tự ái vặt, Ngữ giải thích cho cậu ta hiểu. Cậu ta đỏ mặt, gật gù:
- À ra thế, à ra thế.
Để vớt vát, cậu than:
- Nhưng việc gì phải dùng chữ Tây cho rắc rối. Gọi là “gà quay” có tiện hơn không. Trong này lai căn đến kỳ!
Lúc đó hai cán bộ quản giáo đi tới. Cậu vệ binh bảo Ngữ tiếp tục làm cỏ bắp.
Từ đó về sau, Ngữ không có dịp nói chuyện với anh ta nữa. Vô tình gặp nhau, hai người mỉm cười chào nhau, ngầm thông cảm.
° ° °
Mùa bẻ bắp đã tới. Ban Quản giáo phân công rất đông anh em học tập cải tạo đi gác rẫy. Thật là chuyện khác thường. Cả trại xôn xao. Ban ngày đi làm cỏ bắp thoải mái nhưng có vệ binh gác. Bây giờ ban đêm lại cho tù ra rẫy canh bắp? Canh ai đây? Đuổi khỉ chăng? Đuổi heo rừng chăng? Bộ đội có súng còn chưa đuổi được huống chi tù cải tạo. Chỉ có một lối giải thích nghe rất hợp tai: tù cả tạo sắp được cho về, và Ban Quản giáo muốn thử thách lập trường của tù trước khi lựa chọn. Ai cũng mừng. Ai cũng tin là mình vượt qua trò thử thách trẻ con này dễ dàng. Nhờ đồ thăm nuôi, ít ai bị đói như trước. Trong xắc còn nào là mì khô, cốm dẹp, nào gạo sấy, lại sắp được về, việc gì phải đi ăn trộm bắp của Nhà nước cho mang lụy vào thân?
Đêm đó Ngữ đi gác chung với một người nữa. Hai người chịu trách nhiệm nặng nhất: canh chừng rẫy bắp sây trái ở sát mé rừng rậm phía Nam. Sau khi bắt thăm, ông bạn đại úy Công binh may mắn chịu trách nhiệm từ bảy giờ tối tới khuya. Ngữ thì phải canh bắp từ mười hai giờ khuya tới sáu giờ sáng.
Ngữ nằm chờ tới phiên mình bên đống lửa lập lòe, vừa lạnh vừa đói không sao ngủ được. Chàng phải bò dậy ra nói đủ thứ chuyện đầu cua tai nheo với ông bạn tù. Đến khuya, có lẽ chưa tới mười hai giờ, ông bạn buồn ngủ quá giao phận sự lại cho Ngữ. Ngữ vui vẻ nhận nhiệm vụ, với một chủ tâm xấu.
Hãy ngủ say đi, ông bạn! Chờ cho bạn ngủ xong, Ngữ ra rẫy bắp. Chàng đang cố len sâu để bẻ trộm vài trái bắp đem nướng ăn đỡ đói thì nghe có tiếng sột soạt phía trước. Ngữ chùn lại, thu mình yên lặng. Không nghe thấy gì nữa. Có lẽ chỉ là gió rừng. Yên tâm hơn, Ngữ bẻ ba trái bắp lớn. Tiếng lá va chạm nhau sột soạt, tiếng cuống bắp gãy khỏi thân mẹ như được khuếch âm, vang xa khắp thung lũng. Rồi hình như vì tình liên đới mà khắp nơi mọi cây bắp đều xào xạc thương cảm.
Nhưng ô kìa! Tại sao trước mặt Ngữ có tiếng lắc rắc và tiếng lá bắp sột soạt. Chàng cố giữ yên lặng, phía trước lại yên lặng. Ngữ kiên nhẫn chịu cho kiến cắn ngồi thật lâu lắng tai nghe, thì nghe rõ mồn một tiếng thân bắp bị gãy. Ai dám bẻ trộm bắp Nhà nước thế này? Phải làm sao đây? Hô hoán lên, ông bạn thức dậy thì ăn làm sao nói làm sao với ba trái bắp trên tay. Mà không hô hoán thì sáng mai làm sao trả lời với cán bộ?
Ngữ hoang mang đến cực độ không còn thiết gì đến chuyện ăn uống nữa. Nhưng bàn tay trái của Ngữ lại a tòng với cái bao tử xẹp, vẫn khư khư nắm chặt lấy ba trái bắp, không chịu phi tang đi. Cho nên khi bất ngờ chạm trán với bóng đen trước mặt, Ngữ đang quả tang phạm pháp. Sợ quá, Ngữ ù té chạy, bóng đen cũng chạy, khác hướng.
Về chỗ nhóm lửa, Ngữ run cầm cập, dáo dác nhìn quanh. Nhìn về phía ông bạn tù, ông bạn vẫn đang ngon giấc, tiếng ngáy như sấm. Nhìn về phía bóng đen chạy trốn, chỉ có đêm và gió núi. Nhìn lại mình: Ngữ hốt hoảng thấy tay trái vẫn còn giữ chặt ba trái bắp. Chỗ nhóm lửa gặp đoạn củi khô nên ngọn lửa đột nhiên bùng sáng. Ngữ bậm môi lại, đâm liều. Đã trót thì trét. Chàng vùi ba trái bắp vào đống lửa đỏ. Ngữ đói quá, chàng lấy quyền được ăn để tự cho phép. Trái bắp đầu, Ngữ chỉ cạp vài cái là hết. Trái thứ hai, Ngữ ăn từ tốn hơn, cẩn thận lấy tay lảy những hạt còn sót cho vào miệng. Đang lảy chậm chạp theo hàng dọc từng hạt của trái bắp thứ ba, vừa nhai vừa thưởng thức vị ngọt của chính mồ hôi mình, Ngữ thấy một bóng đen tiến lại. Chính cậu vệ binh hôm nọ.
Biết rõ chính Ngữ đang canh lửa, cậu ta bạo dạn mang bắp đến nướng nhờ. Hai người vừa bẽn lẽn vừa cảm động nhìn nhau, những trái bắp ăn trộm còn rành rành trên tay. Ngữ phân bua trước:
- Kỳ thăm nuôi vừa rồi vợ tôi lên trễ, kẹt quá!
Cậu vệ binh kín đáo hơn:
- Được ăn ngô chính mình trồng, ngon đấy chứ!
Giành quyền làm chủ ngang xương như vậy kể cũng bạo. Cậu ta mời Ngữ thêm trái nữa. Ngữ e dè nhìn về phía ông bạn tù. Cậu vệ binh cũng lo ngại nhìn theo. Cả hai không hẹn cùng đổi hướng ngồi, quay lưng về phía ông đại úy Công binh đang ngủ rồi mới dám ăn bắp. Khi đã khá no, cậu vệ binh hỏi:
- Sao hôm ấy anh không tìm gặp tôi?
- Lúc đó tôi có quen anh đâu. Vả lại…
- Vả lại thế nào?
- Vả lại dù quen anh chắc cũng không dám nhờ. Ông ấy dữ quá.
- Ông nào dữ?
- Cái ông giữ phần kiểm soát giấy thăm nuôi trên khu tiếp tân. Ngồi ở cái bàn sát cổng vào.
- Nhiệm vụ ấy luân phiên, anh nói thế khó xác định lắm. Có phải cậu tre trẻ nói giọng Bùi chu?
- Không. Ông này khá lớn tuổi. Khoảng gần bốn mươi.
- Ông ta có cái sẹo dài trên trán?
- Không. Hình như ông đau mắt, có mang kính râm.
- À, ông Lâm đấy. Có phải ông ấy nói tiếng Nghệ?
- Phải.
Cậu vệ binh bật cười:
- Anh suýt rờ tổ kiến rồi. Hôm ấy anh bị xát xà phòng ghê lắm phải không?
- Không. Tôi lén đứng ngoài nhà trạm để nghe. Một số thân nhân đến trễ sau giờ thăm nuôi, trong đó có vợ tôi. Nằn nì mãi, ông ấy cứ lắc đầu, nói nhiều câu hắc búa lắm.
- Ông ấy nói gì?
Ngữ cố thêm thắt gia vị cho câu chuyện thêm phần bi đát:
- Ông ấy nói: “Chúng nó toàn bọn ác ôn có nợ máu nhưng đi học tập còn có ngày về. Còn tôi đây nhập ngũ từ hơn hai mươi năm, biết bao giờ mới nhìn được mặt vợ con”.
Cậu vệ binh chồm về phía Ngữ hỏi vội:
- Từ bao lâu? Ông ấy nói từ bao lâu?
- Trên hai mươi năm.
- Năm nay ông Lâm mới ba mươi bốn. Chẳng lẽ mới mười ba tuổi đã đi nghĩa vụ à?
- Chẳng lẽ ông ta nói dối.
- Không nói dối. Chỉ nói quá. Ông ấy đi B năm 1969, lúc vừa lấy cô vợ làm mậu dịch viên. Đi một lượt với anh cả tôi, tôi lầm lẫn sao được. Ông ấy còn nói gì nữa?
- Ông ấy nói: “Các người đi thăm nuôi chúng nó xách giỏ này giỏ nọ. Còn vợ tôi đây không đủ tiền gửi cho tôi một viên kẹo lạc”.
- Bà ấy bán ở cửa hàng mậu dịch lớn, thiếu gì kẹo lạc. Chỉ tại bà ấy không muốn gửi đấy thôi.
Ngữ ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao thế?
- Thong thả đã. Ông ấy còn nói gì nữa?
Ngữ chế thêm một câu gắn vào miệng con người đáng ghét:
- Ông ấy bảo vợ biết chồng đóng quân ở đây từ lâu mà không thể mua nổi cái vé hạng chót để vào thăm.
- “Không thèm” mua chứ không phải là “không thể” mua.
- Tại sao vậy?
- Ông ấy được phép về thăm nhà tháng Mười năm ngoái.
Ngữ lỡ nói dối phải phóng theo lao:
- Sao ông ấy bảo suốt bảy năm trường vợ chồng chưa gặp mặt nhau?
- Ông ấy về lần trước năm 1970 sau khi bị thương ở mắt bên phải. À, nếu kể lần đó thì ông ấy tính thành bảy năm cũng đúng. Lần sau có về mà coi như không, Anh ngạc nhiên chứ gì? Để tôi kể anh nghe. Năm ngoái, chờ đợi suốt một năm rưỡi sau ngày giải phóng, ông Lâm mới nắm được tờ giấy phép. Đời bộ đội kham khổ, anh hiểu. Ông ấy dành dụm bao nhiêu năm được hai trăm đồng, trước khi về phép quá giang xe đơn vị về Sài gòn để mua một ít quà cho vợ. Những thứ rẻ tiền thôi: cái gương soi hình trái tim, một tá kẹp tóc, hai cái nịt ngực may ở Chợ lớn chóp nhọn hoắc như nón khỉ, một cái khăn thêu, kim chỉ, quần lót và cái ống bơm xe đạp. Trước khi lên xe lửa ông ấy dàn ra mọi thứ khoe với tôi. Thấy ông ta hí hửng quá, tôi không dám nói hơn phân nửa những thứ ông mua là đồ giả. Thấy ông lăng xăng thấp thỏm, tội nghiệp lắm. Ông ấy còn dở kính râm nhờ tôi xem con mắt bị thương có bị lé không. Tôi bảo không hề gì. Ông yên tâm ra ga. Bọn chúng tôi thì không yên tâm chút nào.
Trước đó đã có nhiều lời xì xầm, nhưng chúng tôi nửa tin nửa ngờ. Mà dù có tin thật cũng không dám nói gì với ông ấy. Hạn về phép là một tháng. Tinh thần phục vụ của ông ấy xứng đáng với cái phép đặc biệt. Ông ta về chưa được mười ngày đã vào. Anh em kín đáo quan sát thái độ ông Lâm, thấy rõ những lời đồn đại không phải hoàn toàn bịa đặt. Ông vẫn giữ vẻ trầm tĩnh nghiêm túc như trước kia, nhưng hay cau có gắt gỏng hơn. Chuyện vặt bằng sợi tóc ông cũng giận. Anh em nhịn làm lành, ông ấy càng giận hơn. Ông ấy không chịu được lòng thương hại. Không ai bắt chuyện được với ông ấy, ngoài tôi.
Anh có biết chuyện gì xảy ra ngoài Nghệ không?
Ông ấy đến ga Vinh, xuống đi thêm nửa ngày xe khách nữa mới đến quê nhà. Hăm hở vào cổng thì nghe tiếng trẻ sơ sinh khóc. Ông ấy khựng lại, không dám tin trí nhớ của mình. Nhưng rõ ràng đây là căn nhà hai vợ chồng ông. Cái sân gạch ấy, mái tranh ấy, cái cửa sổ ván tạp ấy, giàn hoa lý ấy vẫn như cũ tuy bây giờ rườm rà mà tiêu điều hơn. Một người đàn bà quàng khăn sản phụ từ trong nhà bước ra: đúng là chị mậu dịch viên vợ anh. Chị cũng ngớ ra. Hai vợ chồng bàng hoàng nhìn nhau, chưa biết phải làm gì, nói gì. Tiếng trẻ thơ khóc càng thống thiết hơn, âm thanh chói chang xoắn sâu vào lỗ tai ông ấy. Chị vợ chộp ngay cơ hội nói mau: “Anh mới về! Cho em vào ru con một chút!” Ông ấy cảm thấy lơ lửng, không dám bước tiếp bước nào. Trong nhà chị vợ à ơi hát ru:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Ngữ xúc động vội hỏi:
- Làm sao anh biết chuyện đó?
- Chính ông Lâm kể cho tôi nghe, vào một đêm ngồi ăn ngô chui như tôi với anh đêm nay. Khỏi cần dặn anh cũng biết không nên kể chuyện đau lòng này cho ai khác nghe. Tôi chỉ kể riêng cho anh. Thật tức cười! Từ lâu tôi vẫn nghĩ lẩn thẩn: không biết người nghệ sĩ nhân dân nào khi đặt ra hai câu ca dao đó, có tiên đoán người đời về sau lại sử dụng tác phẩm của mình trong hoàn cảnh oái oăm như thế không?
Ngữ đáp:
- Tôi nghĩ là có, vì đôi mắt nghệ sĩ có thể nhìn suốt cả chín cõi. Kể cả cảnh hai chúng ta lén ăn bắp nướng đêm nay.
Tha Hương Tha Hương - Nguyễn Mộng Giác Tha Hương