Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 49: Đỉnh Ekeberg
T
háng mười hai tuyết lại bắt đầu rơi. Và lần này là thật. Tuyết chất đống trên tường các ngôi nhà, và theo dự báo thì tuyết sẽ còn tiếp tục rơi. Lời tự thú được đưa ra vào chiều ngày thứ Tư. Trond Grette, sau khi hội ý với luật sư bào chữa, đã thú nhận lên kế hoạch và tiến hành sát hại vợ mình.
Tuyết rơi suốt đêm, và ngày hôm sau hắn cũng thú nhận chủ mưu vụ giết hại anh trai. Cái gã mà hắn đã thuê làm việc này tên là El Ojo, Con Mắt, không có chỗ cố định. Gã thay đổi tên hành nghề và số điện thoại di động hằng tuần. Trond mới gặp gã có một lần, trong một bãi đỗ xe ở São Paulo, nơi họ thỏa thuận về mọi chi tiết. El Ojo đã nhận thước 1.500 đô la; Trond đã đặt số tiền còn lại trong một cái túi để trong một cái tủ có khóa ở phòng gửi hành lý tại nhà chờ sân bay Tietê. Thỏa thuận là Trond sẽ gửi thư tuyệt mệnh tới một bưu cục ở Campos Belos, một khu ngoại ở phía Nam thành phố này, và chiếc chìa khóa khi hắn nhận được ngón tay út của Lev.
Điều duy nhất có chút gì gần với sự vui vẻ trong những giờ thẩm vấn đằng đẵng là khi Trond được hỏi rằng làm thế nào, trong vai du khách, hắn lại có thể liên hệ được với một tên sát thủ giết thuê chuyên nghiệp. Hắn trả lời rằng chuyện đó còn dễ hơn nhiều so với việc đi kiếm thầu xây dựng ở Na Uy. Sự so sánh này không hoàn toàn là ngẫu nhiên.
“Có lần Lev kể với tôi,” Trond nói. “Bọn chúng tự quảng cáo mình là plomeros bên cạnh những quảng cáo chat line trên tờ Folha de São Paulo.”
“Plum… gì cơ?”
“Plomeros. Thợ sửa ống nước.”
Halvorsen đã gửi những thông tin ít ỏi đó qua fax cho đại sứ quán Brazil, họ đã cố kiềm chế không đưa ra những bình luận có tính châm chọc và hứa sẽ theo đuổi vụ này.
Khẩu AG3 mà Trond đã sử dụng trong vụ cướp là của Lev và đã được cất trên gác xép nhà họ ở Disengrenda mấy năm nay. Không thể tìm ra nguồn gốc của nó vì số xê ri của nhà sản xuất đã bị giũa mất.
Giáng sinh đến sớm với hiệp hội các công ty bảo hiểm của Nordea vì số tiền trong vụ cướp ở Bogstadveien đã tìm thấy trong cốp xe ô tô của Trond và chưa đồng nào bị động đến.
Nhiều ngày trôi qua, tuyết vẫn rơi và quá trình thẩm vấn vẫn tiếp diễn. Vào buổi chiều ngày thứ Sáu, khi mọi người đều đã kiệt sức, Harry hỏi Trond tại sao hắn không nôn khi bắn xuyên qua đầu vợ mình - vốn dĩ hắn đâu có chịu được cảnh máu me. Căn phòng trở nên im lặng. Trond nhìn chằm chằm vào máy quay ở góc phòng. Rồi hắn chỉ lắc đầu.
Nhưng khi họ kết thúc buổi thẩm vấn và đi qua đường hầm Culvert để trở lại trại tạm giam, hắn chợt quay lại nói với Harry: “Còn tùy xem máu ai.”
Cuối tuần Harry đang ngồi trên một chiếc ghế bên cửa sổ, ngắm Oleg và đám trẻ trong phố xây những pháo đài bằng tuyết ở mảnh vườn bên ngoài căn nhà gỗ. Rakel đã hỏi anh rằng anh đang nghĩ gì và suýt nữa anh buột miệng nói ra. Nhưng thay vì vậy anh lại rủ cô đi dạo một chút. Cô đi lấy mũ và găng tay. Họ đi qua dốc trượt tuyết nhân tạo Holmenkollen và Rakel đã hỏi có nên mời cha và em gái của Harry tới nhà cô trong đêm Giáng sinh không.
“Chúng ta là những người thân duy nhất còn lại mà,” cô nói và siết chặt tay anh.
Đến thứ Hai, Harry và Halvorsen bắt tay vào vụ Ellen. Từ đầu. Thẩm vấn các nhân chứng đã từng được triệu đến, đọc lại các báo cáo cũ và kiểm tra những thông tin chưa từng được theo dõi và những manh mối cũ. Hóa ra đó lại là những manh mối đã nguội lạnh.
“Cậu đã tìm được địa chỉ của cái gã đã nói là nhìn thấy Sverre Olsen đi cùng một người đàn ông trong chiếc xe màu đỏ ở Grunerlokka chưa?” Harry hỏi.
“Kvinsvik. Địa chỉ của hắn được đặt ở nhà bố mẹ, nhưng tôi không tin là chúng ta sẽ tìm thấy hắn ở đó.”
Harry không hy vọng sẽ nhận được sự hợp tác nhiệt tình khi anh bước vào quán Pizza Herbert hỏi gặp Roy Kvinsvik. Nhưng sau khi mua cốc bia cho một gã thanh niên mặc áo phông in logo Nasjonalallianse thì anh được biết rằng Roy không còn phải giữ lời thề im lặng từ khi hắn cắt đứt với đám bạn cũ cách đây chưa lâu. Hình như Roy đã gặp một cô gái theo Công giáo và từ bỏ niềm tin vào chủ nghĩa Quốc xã. Không ai biết cô ta là ai hay Roy hiện đang sống đâu. Nhưng có người đã nhìn thấy hắn hát bên ngoài nhà thờ thuộc Hội thánh Tin Lành Philadelphia.
○○○
Tuyết chất thành lớp dày khi xe gạt tuyết chạy qua chạy lại như con thoi trên những đường phố khu trung tâm Oslo.
Người phụ nữ bị bắn ở chi nhánh ngân hàng Den Norske trên phố Grensen đã được ra viện. Trên tờ Dagbladet, cô ta chỉ nơi viên đạn xuyên vào bằng một ngón tay và khoảng cách từ đó tới tim bằng hai ngón tay. Hiện giờ, cô ta đã ở nhà để chăm sóc chồng và hai con trong dịp Giáng sinh, tờ báo đó viết.
Trong tuần đó, lúc mười giờ sáng thứ Tư, Harry đứng ngoài cửa Phòng 3 Sở Cảnh sát, giẫm chân giũ tuyết bám trên ủng rồi gõ cửa.
“Vào đi Hole,” giọng thẩm phán Valderhaug gầm lên. Ông ta đang chỉ đạo cuộc điều tra nội bộ của Đội Điều tra Đặc biệt về vụ nổ súng trong khu cảng công te nơ. Harry được dẫn tới một cái ghế trước phiên tòa gồm năm người. Trừ Valderhaug ra còn có công tố viên, một nữ và một nam điều tra viên, luật sư bào chữa Ola Lunde mà Harry biết là cứng rắn nhưng rất có năng lực và thẳng thắn.
“Chúng tôi muốn hoàn tất các kết quả trước kỳ nghỉ Giáng sinh,” thẩm phán Valderhaug mào đầu. “Anh có thể nói cho chúng tôi biết chính xác hết sức về vai trò của anh trong vụ này được không?”
Trên nền tiếng gõ bàn phím lạch cạch của người điều tra viên nam, Harry kể về cuộc gặp ngắn ngủi của anh với Alf Gunnerud. Khi anh trình bày xong, thẩm phán cảm ơn anh và giở tài liệu sột soạt một lúc mới tìm thấy thứ ông ta muốn tìm. Ông ta ngó Harry qua cặp kính.
“Chúng tôi muốn biết liệu qua cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Gunnerud, anh có ngạc nhiên khi nghe nói hắn rút súng chĩa vào một cảnh sát không?”
Harry nhớ lại những gì anh đã nghĩ khi gặp Gunnerud ở cầu thang. Một gã trai sợ bị lĩnh thêm đòn. Không phải một kẻ giết người dày dạn. Harry nhìn vào mắt của vị thẩm phán và trả lời, “Không.”
Valderhaug bỏ kính ra. “Nhưng khi Gunnerud gặp anh, hắn lại chọn cách bỏ chạy. Tôi không hiểu tại sao khi gặp Waaler hắn lại đổi chiến thuật.”
“Tôi cũng không biết nữa,” Harry nói. “Tôi không có mặt ở đó.”
“Nhưng anh không thấy chuyện đó kỳ lạ sao?”
“Có, tôi có thấy.”
“Nhưng anh chỉ trả lời là anh không ngạc nhiên.”
Harry đẩy nhẹ cái ghế ngả ra sau. “Tôi làm cảnh sát lâu rồi, thưa thẩm phán. Nên tôi không còn thấy ngạc nhiên khi người ta làm những chuyện kỳ lạ nữa. Kể cả kẻ giết người.”
Valderhaug đeo kính lại và Harry nghĩ anh nhận thấy nụ cười chập chờn nơi cái miệng trên khuôn mặt nhăn nheo đó.
Ola Lunde hắng giọng. “Như anh đã biết, năm ngoái thanh tra Tom Waaler bị đình chỉ một thời gian ngắn vì có liên quan đến một vụ tương tự khi đi bắt một tên theo phái Phát xít mới.”
“Sverre Olsen,” Harry đáp.
“Vào lúc đó, Đội Điều tra Đặc biệt kết luận rằng không có đủ căn cứ để công tố viên buộc tội.”
“Các vị chỉ ngồi có một tuần,” Harry nói.
Ola Lunde nhướng một bên mày với Valderhaug, ông thẩm phán gật đầu. “Tuy nhiên,” Lunde tiếp tục, “đương nhiên là rất đáng chú ý khi chính người này lại rơi vào một tình huống tương tự lần nữa. Chúng tôi biết lực lượng cảnh sát có một ý thức đoàn kết mạnh mẽ và các sĩ quan sẽ ngại phải đặt đồng nghiệp của mình vào một hoàn cảnh khó khăn khi ờ… ừm… ờ…”
“Mách lẻo,” Harry nói. “Xin lỗi, anh bảo sao?”
“Tôi nghĩ là cái từ mà anh đang tìm kiếm là ‘mách lẻo’.”
Lunde và vị thẩm phán lại nhìn nhau. “Tôi hiểu ý anh là gì, nhưng chúng tôi thích gọi đó là trình bày những thông tin có liên quan để đảm bảo các quy tắc được thực thi. Anh có đồng ý không, anh Hole?”
Hai chân trước của cái ghế Harry ngồi sập xuống đánh rầm. “Có, thật ra là tôi đồng ý. Chỉ là tôi không giỏi sử dụng ngôn ngữ như các ông thôi.”
Valderhaug không còn che giấu nổi nụ cười.
“Tôi không chắc về chuyện đó lắm, anh Hole,” Lunde nói, chính anh ta cũng bắt đầu mỉm cười. “Thật tốt là chúng ta đều đồng tình với nhau, và vì anh và Waaler từng làm việc chung nhiều năm, chúng tôi muốn dùng anh như một nhân chứng về tính cách. Chúng tôi cũng có mời những cảnh sát khác tới đây, họ đều nói tới tác phong không nhân nhượng của Waaler khi xử lý tội phạm và đôi khi là cả với những người không phải tội phạm. Anh có thể hình dung rằng Tom Waaler bắn Alf Gunnerud trong một khoảnh khắc thiếu suy nghĩ không?”
Harry nhìn ra ngoài cửa sổ, nấn ná hồi lâu. Anh hầu như không nhìn thấy đỉnh Ekeberg qua màn mưa tuyết. Nhưng anh biết nó ở đó. Năm nào cũng vậy, anh ngồi sau bàn làm việc và ngọn núi Ekeberg thì vẫn luôn ở đó, và sẽ mãi còn đó xanh về mùa hè, đen trắng về mùa đông; nó không thể bị dịch chuyển, đó là sự thật. Điều tuyệt vời về sự thật là người ta không phải ngẫm nghĩ xem chúng có đáng mong muốn hay không.
“Không,” Harry đáp. “Tôi không hình dung là Tom Waaler bắn Alf Gunnerud trong một khoảnh khắc thiếu suy nghĩ.”
Nếu có ai ở trong Đội Điều tra Đặc biệt có nhận thấy Harry nhấn mạnh một chút ở từ ‘thiếu suy nghĩ’ thì họ cũng không nói gì.
Ở hành lang bên ngoài, Weber đứng dậy ngay khi Harry bước ra.
“Xin mời người tiếp theo,” Harry nói. “Ông có gì nào?”
Weber nhấc một cái túi ni lông lên. “Khẩu súng của Gunnerud. Tôi phải đi vào làm cho xong chuyện này đã.”
“Ừm.” Harry rút một điếu thuốc ra khỏi bao. “Súng lạ nhỉ.”
“Hàng Israel,” Weber nói. “Khẩu Jericho 941.”
Harry đứng dậy nhìn chằm chằm vào cánh cửa khi nó đóng lại sau lưng Weber cho tới lúc Møller đi qua và nhắc anh nhớ điếu thuốc chờ châm trên miệng.
○○○
Đơn vị Chống Cướp im lặng đến kỳ lạ. Lúc đầu, các điều tra viên đùa rằng Kẻ Hành quyết đã đi ngủ đông rồi, nhưng giờ thì họ bảo hắn đã cho người ta bắn mình và chôn ở một nơi bí mật để được mãi mãi là huyền thoại. Tuyết đọng trên các mái nhà khắp thành phố, trưa xuống, và lớp tuyết mới lại rơi trong lúc khói bình thản bốc lên từ các ống khói.
Ba đơn vị ở sở Cảnh sát tổ chức bữa tiệc mừng Giáng sinh tại căng tin. Ngồi theo quy định nên rốt cuộc là Bjarne Møller, Beate Lønn và Halvorsen ngồi cạnh nhau. Giữa họ là một chiếc ghế trống và một cái đĩa trên đặt thẻ tên của Harry.
“Anh ta đi đâu rồi?” Møller vừa hỏi vừa rót rượu cho Beate.
“Ra ngoài tìm một người bạn của Sverre Olsen, tìm bảo rằng hắn đã nhìn thấy Olsen đi cùng một gã khác vào cái đêm xảy ra án mạng,” Halvorsen nói, chật vật mở một chai bia bằng cái bật lửa dùng một lần.
“Chán quá,” Møller nói. “Bảo anh ta đừng có làm việc đến chết chứ. Một bữa tiệc Giáng sinh thì cũng đâu có mất nhiều thời gian.”
“Ông bảo anh ấy đi,” Halvorsen đáp.
“Có lẽ anh ấy chỉ không muốn tới thôi,” Beate nói.
Hai người đàn ông nhìn cô và mỉm cười.
“Có chuyện gì thế?” Cô bật cười. “Các vị không nghĩ là tôi hiểu Harry đến thế ư?”
Họ nâng cốc. Halvorsen không ngừng mỉm cười. Anh ta cứ nhìn đăm đăm. Có gì đó - anh ta không thể gọi đích danh nó ra - khác biệt ở cô. Lần anh ta gặp cô gần đây nhất là ở phòng họp, nhưng khi ấy trong mắt cô chưa có cái sinh khí như thế này. Đôi môi đỏ. Dáng người, tấm lưng yểu điệu.
“Harry thà vào tù còn hơn tới dự những sự kiện như thế này,” Møller nói và kể cho họ nghe về cái lần cô nàng Linda ở bộ phận lễ tân bên Cục An ninh ép anh nhảy.
Beate cười tới chảy nước mắt. Rồi cô quay sang Halvorsen và nghiêng đầu. “Anh định ngồi đó mà trố mắt nhìn suốt buổi tối à, Halvorsen?”
Halvorsen thấy hai má nóng bừng và lắp bắp được mỗi một câu “Đâu có” đầy bối rối khiến Møller và Beate lại phá lên cười lần nữa.
Khuya hôm đó, anh ta mới thu hết can đảm hỏi Beate xem cô có thích xoay một vòng trên sàn nhảy không. Møller ngồi một mình đến lúc Ivarsson bước tới và ngồi vào ghế của Beate. Ông ta đã say, nói líu cả lưỡi, và ông ta kể về cái lần ngồi trước một ngân hàng ở Ryen, sợ đến mất trí.
“Lâu lắm rồi mà, Rune,” Møller nói. “Lúc đó anh mới ra trường. Dù sao thì anh cũng đâu làm gì được.”
Ivarsson ngả ra sau và nhìn Møller. Rồi ông ta đứng dậy bỏ đi. Møller đoán rằng Ivarsson là một kẻ cô đơn nhưng thậm chí chẳng hề biết.
Khi hai DJ họ Li kết thúc bằng bài Purple Rain thì Beate và Halvorsen va phải một cặp nhảy khác và Halvorsen nhận thấy người Beate đột ngột cứng đờ lại. Anh ngước lên nhìn cặp kia.
“Xin lỗi,” một giọng trầm trầm cất lên. Hàm răng trắng khỏe khoắn trên khuôn mặt của David Hasselhoff lóe lên trong bóng tối.
Khi buổi tối kết thúc thì chẳng còn gọi nổi taxi và Halvorsen đề nghị đưa Beate về nhà. Họ cuốc bộ trên tuyết về hướng Đông và phải mất một tiếng mới về đến trước cửa nhà cô ở Oppsal.
Beate mỉm cười và quay lại đối diện với Halvorsen. “Nếu anh thích vậy thì chúng tôi rất vui mời anh tới chơi,” cô nói.
“Tôi rất thích,” anh ta đáp. “Cảm ơn cô.”
“Thỏa thuận vậy nhé,” cô nói. “Mai tôi sẽ báo với mẹ.”
Anh chúc cô ngủ ngon, hôn lên má cô và lại bắt đầu chuyến thám hiểm vùng cực về phía Tây.
○○○
Viện Khí tượng Na Uy thông báo rằng trận tuyết rơi kỷ lục được ghi lại cách đây hai mươi năm sắp bị phá vỡ.
Cùng ngày hôm đó, Đội Điều tra Đặc biệt kết thúc vụ Tom Waaler.
Nhóm điều tra kết luận rằng không phát hiện thấy điều gì mâu thuẫn với các quy tắc. Trái lại, Waaler còn được ca ngợi vì đã hành động chính xác và giữ được bình tĩnh trong một tình huống cực kỳ căng thẳng. Giám đốc Sở gọi cho Cảnh sát Trưởng để thăm dò xem liệu ông ta có nghĩ nên đề cử Waaler cho một giải thưởng nào không. Tuy nhiên, vì gia đình Alf Gunnerud là một trong những gia đình có máu mặt ở thành phố này - chú hắn nằm trong Hội đồng Thành phố - nên họ cảm thấy việc đó có lẽ là không phù hợp.
Đang là đêm Giáng sinh nên sự yên bình và thiện chí bao trùm lên, ừm, ít nhất là đất nước Na Uy bé nhỏ.
Rakel đã đuổi Harry và Oleg ra khỏi nhà để làm bữa trưa Giáng sinh. Khi hai chú cháu quay về thì khắp nhà đã sực nức mùi sườn. Ông Olav Hole, cha của Harry, cùng với Sis đi taxi tới.
Sis mê mẩn ngôi nhà, những món ăn, Oleg, tất cả mọi thứ. Trong suốt bữa ăn, cô và Rakel trò chuyện say sưa như những người bạn thân thiết trong khi Olav và cậu bé Oleg ngồi đối diện với nhau, hầu như chỉ đối đáp nhát gừng. Nhưng đến lúc tặng quà thì cả hai bớt dè dặt hơn và Oleg mở cái gói lớn của ông với dòng chữ Ông Olav tặng cháu Oleg. Đó là một tuyển tập các tác phẩm của Jules Verne. Oleg há hốc miệng lật giở một cuốn.
“Ông ấy chính là người đã viết về cái tên lửa phóng lên mặt trăng mà chú Harry đã đọc cho con nghe đấy,” Rakel nói.
“Đó là những bản minh họa đầu tiên đấy,” Harry nói, chỉ vào bức vẽ Thuyền trưởng Nemo đang đứng bên lá cờ ở Nam Cực và đọc to, Tạm biệt. Đế chế mới của tôi bắt đầu với sáu tháng trong bóng tối.”
“Đây là những cuốn nằm trên giá sách của cha ông,” ông Olav nói, phấn khích chẳng kém gì Oleg.
“Chuyện đó không quan trọng!” Oleg kêu lên.
Ông Olav đón nhận cái ôm cảm ơn với nụ cười ngượng ngùng nhưng nồng ấm.
Khi họ đã lên giường và Rakel đã ngủ, Harry trở dậy, tới bên cửa sổ. Anh nghĩ về tất cả những người không còn hiện diện trên đời: mẹ anh, Birgitta, cha của Rakel, Ellen và Anna. Và những người vẫn còn hiện diện. Øystein khu Oppsal, đã được anh gửi tặng một đôi giày nhân dịp Giáng sinh, Raskol ở nhà tù Botsen và hai người phụ nữ ở Oppsal đã tử tế tới mức mời Halvorsen tới bữa ăn tối muộn trong ngày lễ Giáng sinh vì năm đó anh ta phải ở lại trực và không được về thăm nhà ở Steinkjer.
Tối nay đã có chuyện gì đó xảy ra, anh không rõ là gì, nhưng có gì đó đã thay đổi. Anh đứng ngắm nhìn những ngọn đèn thành phố một lúc mới nhận ra tuyết đã ngừng rơi. Những lối mòn. Những người đi bộ trên phố Akerselva tối nay sẽ tạo nên những lối mòn.
“Điều ước của anh đã trở thành sự thật chưa?” Rakel thì thầm khi anh trở về giường nằm.
“Điều ước ư?” Anh vòng tay ôm cô.
“Lúc đứng bên cửa sổ trông anh như thể đang ước điều gì đó. Là gì thế?”
“Anh đã có tất cả những gì mình ước rồi,” Harry nói, hôn lên trán cô.
“Nói cho em biết đi,” cô thì thào, nhích ra để nhìn anh cho rõ. “Hãy nói cho em biết điều ước của anh đi, Harry.”
“Em thật sự muốn biết sao?”
“Vâng.” Cô nép sát lại gần anh hơn.
Anh nhắm mắt lại và cuộn phim bắt đầu quay, chậm đến mức anh có thể thấy từng hình ảnh trông đó. Những lối mòn trên tuyết.
“Hòa bình,” anh nói dối.