Never lend books, for no one ever returns them; the only books I have in my library are books that other folks have lent me.

Anatole France

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Tín
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 49
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 64
Cập nhật: 2023-03-26 22:28:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 41
ôi xin nhắc lại: phản đối và bác bỏ đa nguyên, đảng cộng sản đã vi phạm tinh thần và lời văn của Hiến Pháp nước ta, tỏ ra không tin ở nhân dân, trốn tránh sự phán quyết công minh của cử tri và tạo nên một tư thế chính trị rất yếu kém của đất nước trước cộng đồng thế giới.
Sắp tới, ở Campuchia sẽ thực hiện đa nguyên chính trị, với cuộc tranh cử tự do của các phe phái đối lập để lập nên chính phủ liên hiệp. Điều này hợp với trào lưu chung của thế giới.
Một hướng chính trị quan trọng là sau 30 năm chiến tranh ở nước ta, nên quan tâm xây dựng hòa bình, đoàn kết và hòa hợp, dân chủ và nhân ái. Chiến tranh đã chấm dứt, nhưng di chứng nó để lại khá sâu trong nội tâm mỗi người. Người chiến thắng, kẻ chiến bại, người chính nghĩa, kẻ phản động, người cộng sản, kẻ quốc gia, người là chính, là phải, kẻ là tà, là ngụy... Cần làm tất cả để những vết thương lòng kín thành sẹo, Việc ra đi dai dẳng, không sao chấm dứt được của hàng trăm, hàng ngàn" thuyền nhân " mỗi tháng bất chấp hiểm nguy ngoài biển cả phải là nỗi lo âu của cả nước. Chương trình ra đi có trật tự ODP và chương trình ra đi nhân đạo HO (có thể đi đến gần nửa triệu người) là điều không bình thường. Họ phải gạt nước mắt rời bỏ tổ quốc một cách miễn cưỡng, cho thấy những vết thương chiến tranh của dân tộc ta vẫn còn rỉ máu, và còn lâu mới thành sẹo. Đã có người đặt chân lên đất Hoa Kỳ được vài ngày thì tự vận vì cảm thấy cuộc sống bơ vơ, gay gắt không như họ hy vọng. Biện pháp để giải quyết vấn đề trên đây là chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc sâu sắc (tuy quá chậm còn hơn không) thấm nhuần đạo lý và lòng nhân ái của dân tộc, nêu lên quyền bình đẳng về nhân cách và quyền lợi của mọi công dân, bất cứ quá khứ ra sao. Để những người miễn cưỡng định ra đi có thể lựa chọn sự Ở lại, cùng chung lòng, chung sức xây dựng đất nước mình, giữa tình thương yêu của đồng bào mình. Hãy xóa bỏ và gạt sang một bên những tỵ hiềm, những thù oán do lịch sử để lại. Những định kiến của người phía bên này đối với người phía bên kia cũng nên gác lại. Hãy nhìn nhau, mặt đối mặt, như những anh em ruột thịt. Hãy coi nhau như những người con cùng một tổ tiên, cùng ông bà, cha mẹ. Sự đối địch dù sao cũng chỉ là tạm thời, do hoàn cảnh lịch sử chi phối, một phần do những lực lượng bên ngoài. Những cảnh giết hại lẫn nhau, bắn chém nhau chỉ là bất đắc dĩ. Chẳng khác gì trên cùng một cơ thể, tay trái, tay phải đánh đấm, cào cấu nhau, đâm chém nhau vậy. Đã đến lúc hồi tỉnh, bình tâm nhìn lại tất cả. Để những người lương thiện của 2 bên đi đến hiểu nhau, nhân ái và độ lượng, tương kính và khoan dung, với ý nghĩa chung: mỗi bên đã yêu nước bằng những cách khác nhau, nay vẫn là lòng yêu nước gắn bó nhau trở lại để bắt tay vào xây dựng lại đất nước hoang tàn, vì cuộc sống của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Cố gắng đạt đến một sự thỏa thuận chung là chấm dứt đả kích, moi móc, nặng lời với nhau, chung sức, chung lòng xây dựng tương lai. Chủ trương đoàn kết, hòa hợp ấy được thực hiện sẽ làm cho nhân dân cả nước phấn chấn, gần 2 triệu người Việt ở nước ngoài yên lòng. Một không khí hòa giải sẽ xuất hiện, cổ vũ những người có tài năng và tâm lòng ở trong và ngoài nước đóng góp hết sức mình cho sự nghiệp phục hưng tổ quốc. Đối với bà con Việt kiều ở hải ngoại những cuộc vận động tiếp sức cho sự phát triển của tổ quốc sẽ mang quy mô rộng, hiệu quả cao, không rời rạc, ngập ngừng như hiện nay. Những chất xám Việt Nam ở nước ngoài có giá trị cao sẵn sàng trở về (một thời gian hay về hẳn) để đóng góp cho đất nước những trí thức, kinh nghiệm về quản lý, kinh doanh, khoa học kỹ thuật quý báu. Nỗi bất hạnh xa rời tố quốc, của hàng triệu con người được chuyển thành một lợi thế độc đáo, thu hút những tài năng trở về giúp nước, tăng chất lượng, tốc độ phát triển của đất nước.
Về chính sách đối ngoại, cần kiến trúc lại cho thích ứng với những thay đổi cực kỳ lớn lao đã diễn ra trên thế giới trong thời gian gần đây. Phải đưa đất nước Việt Nam ta hòa nhập vào cộng động quốc tế. Phải thoát ly dứt khoát khỏi sự phân chia giáo điều cũ kỹ:" hai phe, bốn mâu thuẫn"... Phải tỉnh táo gác bỏ kết luận về" nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới ". Đó là kiểu nói lấy được, chủ quan, không có cơ sở thực tiễn, cũng như kiểu nói cố đấm ăn xôi rằng, chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết vậy.
Hội nhập với thế giới thì phải thực hiện những gì ta đã cam kết khi gia nhập. Liên Hợp Quốc. Chủ động và tự giác mà thực hiện. Trước hết về quyền con người, về quyền công dân. Sẽ không còn công dân nào bị bắt bớ, bị giam cầm hay bị quấy rầy do những quan điểm, tư tưởng thuộc ý thức hệ này hay ý thức hệ khác. Hãy từ bỏ sự cưỡng bức về nhận thức và tư tưởng, ví dụ như sự khẳng định yêu nước là phải yêu chủ nghĩa xã hội. Mỗi công dân có quyền suy nghĩ và có nhận thức riêng của mình qua sự xét đoán của chính mình. Không ai có quyền gò ép cả.
Không thể dửng dưng, vô trách nhiệm bất chấp dư luận thế giới phủi tay trước hàng mấy trăm trường hợp từ ủy viên trung ương, cán bộ cao cấp, tướng tá cho đến công dân thường bị xử oan, bị án oan, án giả, quy chụp, tù đàng trong suốt mấy chục năm qua.
Sòng phẳng và công bằng trả lại tư do cho tất cả những người đang bị bắt giữ, bị giam tù vì những quan niệm chính trị hay tôn giáo của họ. Hiện nay Việt Nam mang cái tiếng là nước vi phạm nhân quyền, nước vi phạm quyền công dân vào loại cao nhất! Hàng loạt vụ án chính trị " chống đảng ", " xét lại" " chống chủ nghĩa xã hội ", "phản động "... cần có một tổ chức pháp lý kết luận lại. Phải minh oan cho những người bị xử oan. Phải đính chính cho những trường hợp bị giam, bị phạt nặng hơn sự cần thiết. Phải xin lỗi, đền bù những tổn thất theo đúng luật. Làm được những điều ấy, không những nhà cầm quyền không mất uy tín mà còn được hoan nghênh. Nhân dân và cả thế giới trông đợi. Im lặng, ỉm đi thì lòng dân không sao yên được, công bằng xã hội chỉ là nói hão, trên giấy. Cả thế giới tiến bộ không chấp nhận thái độ bất nhân.
Cần chủ động đi những bước lớn, thật lòng hòa giải với những kẻ thù cũ: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc và những đồng minh của các nước này. Cần tìm ra những sáng kiến để sớm đi đến bình thường hóa một cách tốt đẹp nhất, có lợi cho các bên, đồng thời trên nhiều hứơng.
Quan hệ với Hoa Kỳ có ý nghĩa quan trọng bậc nhất. Trong vấn đề tù binh chiến tranh (POW) và người mất tích khi làm nhiệm vụ (MIA), có biện pháp để chủ động xóa tan những hoài nghi. Tất cả những tù binh phía Việt Nam giữ đã trao trả hết cho phía Hoa Kỳ sau Hiệp định Paris. Trường hợp anh lính Garwood tự nguyện ở lại, đến 1979 mới về Mỹ là trường hợp duy nhất. Hài cốt lính Mỹ tìm ra được đến đâu là giao cho phía Hoa Kỳ. Những tin tức về tù binh Mỹ vẫn còn ở Việt Nam là thất thiệt, là những tin đồn có động cơ không lành mạnh, hoặc do những lầm lẫn.
Tôi đã theo dõi khá chặt vấn đề tù binh Mỹ ở miền Bắc và đã viết một cuốn sách về họ. Tôi đã gặp khá nhiều tù binh Mỹ từ năm 1967 đến năm 1973 và thường xuyên tiếp xúc với cơ quan của Bộ Quốc Phòng phụ trách vấn đề này. Tôi khẳng định dứt khoát và có cơ sở là hoàn toàn không còn một quân nhân Mỹ nào còn sống ở Việt Nam cả. Tôi khẳng định điều này trên tinh thần thông cảm sâu sắc và tôn trọng tình cảm của những gia đình, thân nhân của các quân nhân Mỹ bị mất tích, mà chưa có tin tức về trường hợp hy sinh của họ. Không thể để cho những gia đình ấy sống trong tình trạng phấp phỏng, hoài nghi và hy vọng không có chút cơ sở thực tế, để rồi sẽ bị thất vọng một cách đau khổ. Tôi đề xuất một cách làm: phía Việt Nam đồng ý để phía Mỹ, những đại diện của chính quyền Mỹ đại diện của những gia đình quân nhân Mỹ bị mất tích tự do đi đến những địa phương mà họ muốn làm công tác điều tra cần thiết. Phía Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, dễ dàng nhất, hợp tác với phía Mỹ một cách thành thật, vô tư, không chút vụ lợi. Bất cứ chi tiết nào phía Mỹ nêu ra về vấn đề nào cũng sẽ được phía Việt Nam đón nhận, chung sức làm sáng tỏ trong khả năng cố gắng cao nhất.
Trong vấn đề Campuchia (là một điểm then chốt trong quan hệ Việt- Mỹ), cần công khai, sòng phẳng theo lập trường hoàn toàn tôn trọng độc lập, chủ quyền của Campuchia, để người Campuchia giải quyết với nhau vấn đề của nước họ, với sự giám sát của Liên Hợp Quốc, của Hội Đồng Bảo An. Nhân đây cũng cần nhận rõ: chúng ta đã để bộ đội Việt Nam quá lâu ở Campuchia là sai lầm (gần 10 năm), hơn 100. 000 thương binh Việt Nam do cuộc chiến tranh này gây ra, cần có chính sách chăm lo một cách chu đáo. Một số khá đông anh em bị cụt chân. Cần công khai xin lỗi phía Campuchia về việc làm sai trái của một số chuyên gia Việt Nam ở bên đó (từ năm 1979 đến năm 1990), những việc làm bao biện, mang ý thức nước lớn, gia trưởng, thiếu tôn trọng chủ quyền nước bạn, kể công... Cũng cần khẳng định rằng việc đưa bộ đội vào Campuchia là cần thiết và chính đáng, nhầm bảo vệ an ninh của đất nước mình, đồng thời để cứu một dân tộc khởi bị tàn sát. Nhưng sau đó chủ trương xây dựng một liên minh đặc biệt của ba nước Đông Dương mang tính chất chủ quan, lỗi thời, không thích hợp với tình hình đang phát triển, gây căng thẳng không cần thiết trong khu vực. Việc này bị thế giới lên án rất mạnh mẽ và do đó Việt Nam bị cô lập kéo dài.
Chủ trương đoàn kết, hòa hợp với những người Việt Nam với nhau (trước kia ở hai trận tuyến) gắn liền với chủ chương thật lòng hòa giải với nước Mỹ. Nên đặt vấn đề với Hoa Kỳ trên tinh thần nhân đạo cùng phối hợp chăm sóc những nạn nhân chiến tranh ở cả hai miền, thuộc cả hai phía trong chiến tranh. Cùng phối hợp chăm sóc các thương binh, những người tàn tật, những gia đình có người thân hy sinh trong chiến tranh, những cựu sĩ quan, những công chức về hưu (của cả hai phía).
Hoàn cảnh lịch sử đã dẫn đến cuộc đụng đầu giữa Hoa Kỳ và Việt nam, mang lại những tổn thất to lớn về người và của cho cả hai bên. Có những mất mát không gì hàn gắn được. Nay đã đến lúc dứt khoát giở sang trang khác trong mối quan hệ giữa hai nước. Hãy xây dựng giữa nhân dân hai nước một tình bạn lâu bền và sâu sắc. Từ năm 1988, tôi viết bài nói quan hệ Việt- Mỹ, duyên hay là nợ? theo tinh thần này.
Hãy mở rộng quan hệ giữa những cựu binh, kể cả thương binh, giữa văn nghệ sĩ với nhau, giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, giữa các tổ chức phụ nữ, thanh niên, lao động, công đòan của hai nước, dựa trên lòng tin và tình bạn. Luận điệu cho rằng hiện nay đế quốc Mỹ và phản động đang tập trung sức để lật đổ chính quyền ở Việt Nam là một luận điệu chủ quan, mang nặng tâm lý suy diễn, hoảng hốt, mang dấu ấn của thời kỳ đối địch đã thuộc về quá khứ. Thật ra chính giới Hoa Kỳ cũng chỉ mong cho nước Viêt Nam ổn định, dân chủ hóa đồng bộ cả về chính trị và kinh tế, gia nhập một cách thuận lợi vào cuộc sống của cộng động thế giới. Mong muốn ấy phù hợp với ước vọng của nhân dân ta.
Khi đất nước ta đi vào con đường dân chủ hóa, đoàn kết hòa hợp dân tộc, nên nghĩ đến việc chủ động mời tổng thống Mỹ, tổng thống hoặc thủ tướng Pháp, thủ tướng Nhật Bản và Trung Quốc, mời Đức Giáo Hoàng viếng thăm nước ta để có thể tìm hiểu rõ tình hình, thấy tình cảm mới mẻ của nhân dân ta giành cho những nước vốn là thù địch. Việt Nam không bao giờ để lòng để dạ những mối thù trong quá khứ.
Chúng ta chủ động tạo nên những điều kiện để tranh thủ đầu tư quy mô lớn, cũng như sự giúp dỡ cho vay của các nước và các tổ chức quốc tế như ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF). Trong không khí tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, Việt Nam nên sớm mời một số chuyên gia quốc tế am hiểu về kinh tế, tài chính, ngân hàng, quản trị công nghiệp, quản lý kinh doanh, quản lý thị trường, luật pháp, tư nhân hóa, áp dụng công nghệ mới, chuyển giao kỹ thuật... đến cùng chuyên gia ta lập các phương án về sản xuất, quản lý, kinh doanh, đào tạo cán bộ chuyên ngành theo những nội dung và tiêu chuẩn của thế giới.
Một chuyên gia kinh tế Nhật Bản nhận xét rằng: Việt nam vẫn chưa từ bỏ bệnh chủ quan ngay trong đại hội 7. Các đại biểu khi giơ tay biểu quyết đến năm 1995 đất nước nhất định sẽ căn bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tài chính, chỉ biểu lộ một quyết tâm, một mong muốn chủ quan không có cơ sở. Tính khả thi, lại giống như nghị quyết của các đại hội trước, là hoàn toàn đáng ngờ! Quả nhiên ngay sau đại hội, giá vàng, giá gạo, giá đô- la đều tăng vọt, bất chấp những quyết định vừa được biểu quyết!... Nghị quyết một đàng, cuộc sống đi một nẻo.
Khi có lòng tin cậy nhau, chính phủ dân chủ thật sự do dân và vì dân có thể thẳng thắn trình bầy với các nước quan tâm đến tình hình nước ta về thực trạng của đất nước mình, số dân, số lao động, số thất nghiệp, số người tàn tật, số thương binh nặng (của cả hai phía), số trẻ em suy dinh dưỡng... Tình trạng nền kinh tế, giáo dục của nước ta. Thực trang hạ tầng cơ sở. Những vấn đề cấp bách cần ưu tiên giải quyết, vấn đề tài chính, ngân hàng, vấn đề nợ nước ngoài, những ý kiến đề xuất của ta, của các chuyên gia quốc tế.
Theo những tính toán sơ bộ của những chuyên gia am hiểu của ESCAP (ủy ban kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương) thuộc Liên Hợp Quốc, trong điều kiện Viêt Nam hiện tại (với thu nhập tính theo đầu người dưới 200 đô la) muốn có bước phát triển vừa phải để khỏi tụt hậu thêm so với các nước láng giềng Đông Nam á thì trong 5 năm tới, mỗi năm Việt Nam cần được đầu tư từ 4 đến 6 tỷ đô la (trong năm năm là từ 20 đến 30 tỷ đô la), và năm năm tiếp theo (1995- 2000) mỗi năm cần chừng 5 tỷ đến 8 tỷ đô la.
Họ cho rằng những con số có vẻ to lớn trên đây là cần thiết, vì Việt Nam đã trải qua chiến tranh quá lâu dài (hơn 30 năm), chịu đựng 10 triệu tấn bom đạn, cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề, hồi phục chưa được mấy. Không có sự giúp dỡ khởi đầu của một số cường quốc thế giới thì khó có thể bước vào thời kỳ phát triển được. Việt Nam cần một kế hoạch như kế hoạch Marshall ở Tây Âu sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bảy nước công nghiệp phát triển đang nghiên cưú vấn đề giúp dỡ Liên Xô. Các nước Tây Âu đang nghiên cứu vấn đề giúp dỡ các nước Đông Âu (qua ngân hàng BERD chẳng hạn).
Một số chuyên gia nhấn mạnh đến vấn đề ưu tiên cấp bách: dựng dậy hệ thống giáo dục đang xuống cấp nhanh (cơ sở đào tạo nhân tài và truyền bá kiến thức), dựng dậy hệ thống y tế cũng đang xuống dốc, kể cả việc khắc phục nạn suy dinh dưỡng trẻ em với diện rộng (cơ sở của sức khỏe, sức lao động của nòi giống Việt Nam), củng cố hệ thống giao thông vận tải đã xuống cấp nhanh, quá lạc hậu (đường xá, cầu và cảng... ), những yêu cầu ấy đều có tính chất SOS - cấp cứu!
Chỉ có mời những chuyên gia quốc tế am hiểu các lĩnh vực, giầu kinh nghiệm mới có thể đề ra những kế hoạch khả thi, có cơ sở khoa học và khi thực hiện mới thuận lợi.
Đã đến lúc cần thiết đề xuất việc lập ra một Quỹ phát triển Việt Nam (Fund for development of Viet Nam) hoặc một ngân hàng phát triển Việt Nam (Bank for development of Viet Nam, BDV), tập trung các nguồn tài chính, phân phối, điều hòa, kiểm tra việc chi tiêu, dưới sự quản lý điều hành của chính phủ Việt Nam cũng đại diện một số tổ chức quốc tế.
Hiện nay Việt Nam mới nhận được sự hợp tác và đầu tư nước ngoài có giá trị gần 2 tỷ đô la (trong đó mới có 400 triệu đô la là được thực hiện) là quá thấp nếu so sánh với số dân đã lên tới 67 triệu (Tính theo đầu người, mỗi người chưa đạt được tới 40 đô la trên ký kết và trên thực hiện mỗi người chưa đạt 6 đô la). Ngay khi dầu hỏa khai thác, mỗi năm đạt chừng 2 tỷ đô la tiền lãi, thì mỗi đầu người cũng mới chỉ vẻn vẹn chưa đươc 30 đô la.
° ° °
Hoa Xuyên Tuyết Hoa Xuyên Tuyết - Bùi Tín Hoa Xuyên Tuyết