In books lies the soul of the whole Past Time: the articulate audible voice of the Past, when the body and material substance of it has altogether vanished like a dream.

Thomas Carlyle

 
 
 
 
 
Tác giả: Frank Herbert
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 48
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5856 / 785
Cập nhật: 2020-09-12 14:37:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 43
HỤ LỤC I: HỆ SINH THÁI XỨ CÁT
Vượt quá điểm tới hạn bên trong một không gian hữu hạn, tự do giảm khi số lượng tăng. Điều này đúng với những con người trong không gian hữu hạn của một hệ sinh thái hành tinh cũng như đúng với các phân tử khí bên trong một chiếc bình kín. Đối với con người, vấn đề không phải là bao nhiêu người có thể sống sót bên trong hệ, mà là những ai sống sót thì có thể tồn tại theo kiểu nào.
- Pardot Kynes, nhà hành tinh học đầu tiên ở Arrakis
Đối với người mới đến, ấn tượng ban đầu về Arrakis thường là một vùng đất cằn cỗi choáng ngợp. Người xứ khác có thể cho rằng tại nơi đây không thứ gì có thể sống hay mọc ngoài trời, rằng đây quả thật là chốn hoang địa chưa bao giờ và sẽ không bao giờ màu mỡ.
Với Pardot Kynes, hành tinh này chỉ đơn thuần là sự hiển bày của năng lượng, một cỗ máy được vận hành bởi mặt trời của nó. Điều nó cần là phải thay đổi lại cấu trúc cho phù hợp với nhu cầu của con người. Tâm trí ông lập tức nghĩ đến cộng đồng dân cư di chuyển tự do, người Fremen. Thử thách lớn làm sao! Họ có thể là một công cụ tuyệt vời đến thế nào! Người Fremen: một lực lượng sinh thái và địa chất có tiềm năng hầu như vô hạn.
Một con người ngay thẳng và đơn giản xét trên nhiều phương diện, Pardot Kynes. Muốn tránh những ràng buộc của nhà Harkonnen ư? Tuyệt. Thì cứ lấy một phụ nữ Fremen làm vợ. Khi cô ta cho anh một đứa con trai Fremen thì anh hãy bắt đầu với nó, với Liet-Kynes, và những đứa con khác, dạy cho chúng kiến thức về sinh thái, tạo ra một ngôn ngữ mới với những biểu tượng làm cho trí tuệ có khả năng chi phối toàn bộ một cảnh quan, khí hậu của nó, những giới hạn theo mùa của nó, và cuối cùng vượt qua mọi cách nghĩ về sức mạnh để đến với nhận thức choáng váng về trật tự.
"Có một vẻ đẹp được thừa nhận từ bên trong về sự vận động và tính cân bằng trên bất cứ hành tinh nào có ảnh hưởng tích cực tới con người," Kynes nói. "Ta thấy trong cái đẹp này một hiệu ứng cân bằng động vốn dĩ thiết yếu đối với mọi sự sống. Mục đích của nó đơn giản thôi: duy trì và tạo ra những mẫu hình kết hợp ngày càng đa dạng hơn. Sự sống nâng cao khả năng duy trì sức sống của hệ khép kín. Sự sống - mọi sự sống - là nhằm phục vụ cho sức sống. Các dưỡng chất cần thiết được sự sống tạo ra cho sự sống và sự đa dạng của sự sống ngày càng tăng thì các dưỡng chất cũng ngày càng phong phú hơn. Toàn bộ cảnh quan trở nên sống động, tràn ngập những mối quan hệ và quan hệ bên trong quan hệ."
Đây là bài giảng của Pardot Kynes cho một lớp học trong sietch.
Tuy nhiên, trước khi giảng, ông đã phải thuyết phục người Fremen. Để hiểu chuyện này xảy ra như thế nào, trước tiên bạn phải hiểu sự chuyên chú và ngây thơ mà ông sử dụng để tiếp cận bất kỳ vấn đề nào. Chẳng phải ông ngờ nghệch, mà chỉ là ông không cho phép mình sao lãng.
Một buổi trưa nóng bức, khi ông đang khảo sát cảnh quan Arrakis trên chiếc xe mặt đất một chỗ ngồi thì bắt gặp một cảnh tượng quen thuộc như cơm bữa: Sáu tên giết thuê Harkonnen, được bảo vệ bằng khiên chắn và vũ khí tận răng, đã bẫy được ba chàng thanh niên Fremen ngoài sa mạc phía sau Tường Chắn gần làng Túi Gió. Với Kynes, đó là một trận đấu thắng bại bất phân, giống trò hề hơn là thực, cho tới khi ông tập trung chú ý vào cái thực tế rằng bọn Harkonnen định giết chết những người Fremen. Cho đến lúc này, một chàng trai Fremen đã ngã xuống với động mạch bị cắt đứt, hai tên lính đánh thuê cũng đã gục, nhưng vẫn còn bốn kẻ có vũ trang chọi lại hai chàng trẻ tuổi.
Kynes không phải kẻ gan dạ; ông chỉ đơn thuần cẩn trọng và chú tâm vào mục đích. Người Harkonnen đang giết người Fremen. Họ đang hủy diệt những công cụ ông định dùng để tái tạo một hành tinh! Ông kích hoạt tấm chắn của mình, nhảy vào tấn công và giết chết hai tên Harkonnen bằng một lưỡi dao mảnh trước khi chúng nhận ra sau lưng có người. Ông né nhát gươm của một trong hai tên còn lại, cắt đứt họng y bằng một cú entrisseur gọn gàng, rồi để tên đánh thuê còn lại cho hai chàng Fremen giải quyết trong khi ông dồn hết tâm ý cứu chữa chàng trai đang nằm trên mặt đất. Và ông cứu được chàng ta... trong khi sáu tên Harkonnen đã bị kết liễu.
Giờ thì lại đến tình thế khó xử! Mấy người Fremen không biết làm gì với Kynes. Họ biết ông là ai, dĩ nhiên. Không ai đặt chân đến Arrakis mà tập hồ sơ đầy đủ về họ lại không tìm được đường tới các dinh lũy Fremen. Họ biết ông: ông là bầy tôi của Hoàng đế.
Nhưng ông đã giết bọn Harkonnen!
Nếu là những người trưởng thành thì hẳn họ đã nhún vai và, với đôi chút hối tiếc, cho linh hồn ông nhập bọn cùng linh hồn sáu người chết nằm trên mặt đất. Song nhóm Fremen này lại là những chàng trai trẻ người non dạ, và tất cả những gì họ nhìn ra được đó là họ đã nợ kẻ bầy tôi của Hoàng đế này một món nợ sinh tử.
Hai ngày sau Kynes được đưa đến một sietch nhìn xuống Đèo Gió. Với ông, điều này hoàn toàn tự nhiên. Ông nói với người Fremen về nước, về những cồn cát bị cỏ neo chặt, về những khu vườn đầy cây chà là, về những con kênh lộ thiên chảy qua sa mạc. Ông nói, nói hoài, nói mãi.
Xung quanh Kynes bùng lên một cuộc tranh cãi mà ông chưa từng thấy. Phải làm gì với gã điên này? Hắn biết vị trí của một sietch trọng yếu. Làm gì đây? Những lời nói của hắn, câu chuyện điên khùng về một thiên đường trên Arrakis này là cái quái gì chứ? Chỉ nói suông thôi. Hắn biết quá nhiều. Nhưng hắn đã giết bọn Harkonnen! Gánh nặng nước là cái gì chứ? Chúng ta mang nợ Đế chế từ đời nào vậy? Hắn đã giết bọn Harkonnen. Bọn Harkonnen thì ai mà chẳng giết được. Chính tôi cũng đã làm thế còn gì.
Nhưng còn những gì hắn nói về việc Arrakis sẽ đơm hoa kết trái thì sao?
Rất đơn giản: Lấy nước đâu ra để có hoa có trái?
Hắn nói nước ở ngay đây! Và hắn đã cứu ba người của chúng ta.
Hắn đã cứu ba thằng ngu tự đặt mình vào tay bọn Harkonnen! Và hắn đã nhìn thấy dao pha lê!
Quyết định cần thiết đã được biết tới từ hàng giờ trước khi nó được thốt ra. Tau của cộng đồng sietch cho các thành viên của nó biết những gì họ phải làm; ngay cả nhu cầu thiết yếu tàn bạo nhất cũng được người ta biết rõ. Một chiến binh dạn dày kinh nghiệm được cử đi hoàn thành việc này, mang theo một con dao đã được làm phép thiêng. Hai thầy quản nước đi theo anh ta để hứng nước từ cái xác. Nhu cầu thiết yếu tàn bạo.
Chẳng ai biết chắc liệu Kynes có để tâm gì đến người-suýt-nữa-là-kẻ-hành-hình ông hay không. Ông đang nói chuyện với một nhóm người rải rác xung quanh cách ông một khoảng đầy thận trọng. Ông vừa đi vừa nói: một vòng tròn ngắn, khoa tay múa chân. Nước ở giữa trời, Kynes nói. Đi bộ ngoài trời không cần mặc sa phục. Nước vốc ngay từ dưới ao lên! Rồi thì những quả cam!
Người mang dao đối diện với ông.
"Đi đi," Kynes nói, rồi vẫn tiếp tục câu chuyện về những cái bẫy gió bí mật. Ông khẽ chạm vào người mang dao. Lưng Kynes lồ lộ bày ra để hứng nhát dao theo nghi lễ.
Điều gì xảy ra trong tâm trí người-suýt-nữa-là-kẻ-hành-hình đó, giờ đây không ai có thể biết được. Liệu có phải cuối cùng anh ta đã lắng nghe Kynes và tin tưởng? Ai mà biết được? Nhưng điều anh ta đã làm thì thật vô tiền khoáng hậu. Tên anh là Uliet. LietGià. Uliet bước ba bước rồi cố tình ngã lên chính con dao của mình, bằng cách đó buộc chính mình "đi". Tự sát ư? Có người nói Shai-hulud đã đưa anh ta đi.
Cứ thử nói về những điềm báo nữa đi!
Từ giây phút đó trở đi, Kynes chỉ cần đưa tay chỉ, miệng nói: "Hãy đến đó". Hàng hàng bộ tộc Fremen lũ lượt đi. Đàn ông chết, đàn bà chết, con trẻ chết. Nhưng họ vẫn đi.
Kynes quay lại với những công việc phục vụ Đế chế của ông, chỉ huy các Trạm Thử nghiệm Sinh học. Thế nhưng giờ đây người Fremen bắt đầu xuất hiện trong số nhân sự của các Trạm. Người Fremen nhìn nhau. Họ đang thâm nhập vào "hệ thống", một khả năng họ chưa bao giờ tính tới. Dụng cụ của trạm bắt đầu tìm được con đường tiến vào các hang động sietch, đặc biệt là các cutteray dùng để đào lòng chảo hứng nước dưới lòng đất và bẫy gió khuất.
Nước bắt đầu tích lại trong các lòng chảo.
Người Fremen bắt đầu nhận ra Kynes không phải một kẻ điên hoàn toàn mà chỉ điên ở mức vừa đủ để là một thánh nhân. Ông là một người thuộc umma, đoàn ái hữu các nhà tiên tri. Linh hồn Uliet được đưa vào sadus, nhóm phán quan thiên đường đông đảo.
Kynes - Kynes thẳng thắn, kiên quyết đến độ hung hăng - biết rằng công cuộc nghiên cứu được tổ chức cao kia cầm chắc sẽ chẳng tạo ra cái gì mới. Ông thiết lập những cuộc thử nghiệm theo từng đơn vị nhỏ, có sự trao đổi dữ liệu đều đặn hầu đạt hiệu ứng Tansley nhanh, để cho mỗi nhóm tự tìm con đường của mình. Họ phải tích lũy hàng triệu sự kiện cỏn con. Ông chỉ tổ chức những cuộc thí nghiệm khái quát, có tính tóm lược, cách ly để hiểu đúng khó khăn của họ.
Người ta làm những tiêu bản lõi trên khắp vùng sa mạc. Người ta vẽ đồ thị những chiều hướng thời tiết dài hạn được gọi là khí hậu. Ông nhận thấy ở vùng vành đai rộng nằm giữa các đường vĩ tuyến 70 độ Bắc và Nam, trong suốt hàng ngàn năm nhiệt độ chưa bao giờ ra khỏi phạm vi 254 - 332 độ (tuyệt đối); vành đai này có những mùa sinh trưởng kéo dài khi nhiệt độ dao động từ 284 đến 302 độ tuyệt đối: phạm vi "năng suất cao" đối với các dạng sống của trái đất... nếu họ giải quyết được vấn đề nước.
Bao giờ chúng ta mới giải quyết được? người Fremen hỏi. Khi nào chúng ta sẽ được thấy Arrakis là một thiên đàng?
Với cung cách của ông thầy đáp lại một chú học trò hỏi hai cộng hai là mấy, Kynes bảo họ: "Từ ba trăm đến năm trăm năm nữa."
Một giống dân non kém hơn thì hẳn đã kêu la, chí cùn khí nhụt. Nhưng người Fremen đã học được đức kiên nhẫn từ những kẻ cầm roi. Chừng đó thì lâu hơn một chút so với họ dự tính, nhưng tất cả họ đều hiểu thời sung sướng kia sẽ tới. Họ thắt chặt khăn rồi quay lại với công việc. Bằng cách nào đó, nỗi thất vọng khiến cho viễn cảnh thiên đường trở nên thật hơn.
Mối lo về Arrakis không phải nước mà là hơi ẩm. Người ta hầu như không biết đến thú cảnh, gia súc cũng hiếm hoi. Một số dân buôn lậu sử dụng loài lừa sa mạc đã thuần hóa, kulon, nhưng ngay cả khi lũ lừa đã được trang bị sa phục có cải tiến thì giá nước vẫn quá cao.
Kynes từng nghĩ đến việc lắp đặt thiết bị khử nhằm phục hồi nước từ khí hyđrô và ô xy bị giam trong đá tự nhiên, nhưng nhân tố chi phí-năng lượng vẫn quá cao. Hai điểm địa cực (bất chấp cái cảm giác sai lầm về an ninh nước mà chúng đem lại cho đám tiện dân pyon) chứa lượng nước quá nhỏ so với dự án của ông... và ông đâm ngờ rằng nước phải nằm ở đâu đó. Vẫn có sự gia tăng độ ẩm một cách nhất quán ở các độ cao trung bình, và trong một số ngọn gió nhất định. Lại còn cái manh mối căn bản nằm trong sự cân bằng không khí - 23 phần trăm ô xy; 75,4 phần trăm ni tơ và 0,023 phần trăm đi ô xít các bon - còn lại là một chút khí ga.
Có một loài thực vật bản địa rất hiếm, thuộc dạng cây có củ, mọc ở độ cao trên 2.500 mét ở vùng ôn đới phía Bắc. Một thân củ dài hai mét cung cấp nửa lít nước. Và có những loài cây sa mạc giống như cây ở trái đất: những loài dẻo dai hơn trong số đó có dấu hiệu tăng trưởng mạnh nếu được trồng ở những vùng trũng có lắp thiết bị thu sương.
Thế rồi Kynes nhìn thấy lòng chảo chứa muối.
Chiếc tàu chim của ông đang bay giữa các trạm xa xôi trên bled thì bị một trận bão đánh bật khỏi lộ trình. Khi bão tan thì xuất hiện lòng chảo đó - một vùng trũng khổng lồ hình bầu dục, đường trục dài khoảng ba trăm ki lô mét - một nỗi ngạc nhiên màu trắng sáng lóa giữa sa mạc trống trơ. Kynes hạ cánh, nếm thử bề mặt lòng chảo đã được bão rửa sạch bong.
Muối.
Giờ thì ông chắc chắn.
Từng có nước trên Arrakis - một thời từng có. Ông bắt đầu xem xét lại bằng chứng về những cái giếng khô nơi có nước rỉ ra rồi biến mất, không bao giờ trở lại.
Kynes cho các chuyên gia nghiên cứu về hồ người Fremen mới qua huấn luyện bắt tay vào việc: manh mối chính của họ, những mẩu vật chất giống như da đôi khi được tìm thấy cùng với quặng hương dược sau vụ nổ. Người ta từng cho nó thuộc về một loài "cá hồi cát" tưởng tượng trong truyện dân gian Fremen. Khi các sự kiện đã trở thành bằng chứng, người ta nhận thấy có một loài sinh vật đã sinh ra những mẩu giống như da đó - một loài bơi trên cát chuyên giam nước vào những túi quặng màu mỡ nằm trong lớp địa tầng xốp ở dưới thấp, dưới mức 280 độ (tuyệt đối).
Kẻ "ăn cắp nước" này chết có đến hàng triệu trong mỗi vụ nổ hương dược. Nhiệt độ chỉ cần thay đổi năm độ là đủ giết nó rồi. Những con ít ỏi còn sống sót thì rơi vào một giấc ngủ dài trong bào xác mà kỳ thực là nửa thức nửa ngủ, để rồi sáu năm sau hóa thành những con sâu cát nhỏ (dài cỡ ba mét). Trong số sâu cát này, chỉ một vài con tránh được những người anh em to xác hơn và các túi chứa nước tiền hương dược để phát triển thành shai-hulud khổng lồ. (Nước là chất độc đối với shai-hulud, theo như người Fremen đã biết từ lâu, sau khi dìm chết con "sâu còi" hiếm hoi của Erg Nhỏ để tạo ra chất gây mê quang phổ nhận thức mà họ gọi là Nước của Sự sống. "Sâu còi" là dạng sơ khai của shai-hulud, chỉ mới đạt độ dài chừng chín mét).
Giờ thì họ đã có mối liên hệ vòng tròn: giữa Ngài tạo bé với quặng tiền hương dược; giữa Ngài tạo bé với shai-hulud; shai-hulud với sự phân tán hương dược mà nhờ đó cung cấp thức ăn cho các vi sinh vật gọi là phiêu sinh cát; phiêu sinh cát - vốn là thức ăn cho shai-hulud - ngày một lớn, đào bới, trở thành Ngài tạo bé.
Kynes và người của ông không chú ý đến những mối liên hệ lớn lao đó nữa mà chuyển sang tập trung vào vi sinh thái. Đầu tiên là khí hậu: bề mặt cát thường đạt nhiệt độ từ 344 đến 350 độ (tuyệt đối). Dưới mặt đất chừng 30 xăng ti mét có thể mát hơn 55 độ; trên mặt đất chừng 30 xăng ti mét thì mát hơn 25 độ. Lá cây hoặc bóng râm có thể làm mát thêm 18 độ nữa. Kế đó là các dưỡng chất: cát ở Arrakis hầu hết là sản phẩm từ sự tiêu hóa của sâu cát; bụi (cái vấn nạn quả thực ở nơi này đi đâu cũng gặp) sinh ra từ sự lở bề mặt liên tục, chuyển động "nhảy vọt" của cát. Các hạt thô được tìm thấy ở những triền cát phía đón gió. Phía có gió thì được nén phẳng và rắn. Cồn cát già có màu vàng (bị ô xy hóa), cồn cát non thì có màu như đá đã sinh ra chúng - thường là xám.
Những triền cát già phía đón gió cung cấp các khu trồng trọt đầu tiên. Người Fremen thoạt tiên muốn thực hiện một chu trình sinh trưởng cho loại cỏ đất cằn có lông mao giống như than bùn nhằm đan kết, nén chặt và cố định các cồn cát bằng cách tước khỏi gió cái vũ khí lợi hại của nó: những hạt cát di động.
Các khu vực có khả năng thích ứng được bố trí ở sâu trong sa mạc về phía Nam, khuất tầm mắt bọn canh gác Harkonnen. Cỏ đất cằn biến dị trước hết được trồng dọc theo (bề mặt dốc) phía đón gió của các cồn cát đã chọn vốn nằm chắn ngang đường những ngọn gió Tây thường xuyên thổi trong vùng. Bởi mặt dưới gió đã bị neo lại, mặt đón gió mỗi lúc một cao hơn và cỏ cũng tiến lên theo để bắt kịp. Những sif khổng lồ (các cồn cát dài có đỉnh ngoằn ngoèo) cao trên 1.500 mét đã được tạo ra bằng cách đó.
Khi các cồn cát làm rào chắn đã đạt đủ độ cao, người ta trồng loài cỏ kiếm rắn rỏi hơn lên mặt đón gió. Mỗi cấu trúc dựa trên một cái nền dày gấp sáu lần chiều cao của nó đều được neo lại - được "cố định" lại.
Giờ thì họ bắt đầu gieo trồng đa dạng hơn - những loài cây có vòng đời ngắn (trước hết là rau muối, rau bina, rau dền), kế đó là đậu chổi, đậu lupin lùn, khuynh diệp (loại thích nghi với các vùng phía bắc Caladan), thánh liễu lùn, thông biển - rồi các loài cây sa mạc thứ thiệt: cây nến, xương rồng, và lưỡi quỷ, loài xương rồng dại. Ở đâu trồng được, họ trồng cả cây xô thơm lạc đà, yến mạch dại, cỏ vũ mao Gobi, cỏ linh lăng dại, cỏ roi ngựa sa mạc, anh thảo, bụi hương trầm, cây hoa khói, bụi creosote.
Kế đó họ chuyển sang đời sống động vật cần thiết - các sinh vật đào hang để mở đất và làm cho đất thông hơi: chồn, chuột căng gu ru, thỏ sa mạc, rùa cát... các loài ăn thịt để kiềm chế số lượng chúng: diều hâu sa mạc, cú lùn, đại bàng và cú sa mạc; các loài côn trùng để lấp đầy những hang hốc mà các loài trên không tới được: bò cạp, rết, nhện bẫy, ong bắp cày cái và sâu bay... cùng với dơi sa mạc để giám sát các loài này.
Giờ mới đến cuộc thử nghiệm quyết định: cây chà là, cây bông, dưa, cà phê, thảo dược - hơn 200 loài cây lương thực được chọn lọc để thử nghiệm và làm cho thích nghi.
"Điều mà những kẻ dốt nát về sinh thái không thể nhận ra ở một hệ sinh thái," Kynes nói, "ấy là: nó là hệ thống. Một hệ thống! Một hệ thống duy trì một sự ổn định linh hoạt nhất định mà chỉ cần một bước sai trong chỉ một khâu là có thể bị hủy diệt. Một hệ thống có trật tự, một dòng chảy từ điểm này đến điểm kia. Nếu có gì đó ngăn dòng chảy lại là trật tự sụp đổ. Kẻ không được huấn luyện có thể bỏ sót sự sụp đổ đó cho đến khi đã quá muộn. Chính vì vậy chức năng cao nhất của sinh thái học là thấu hiểu các hệ quả."
Họ đã đạt được một hệ thống chưa?
Kynes và người của ông quan sát, chờ đợi. Giờ đây người Fremen đã hiểu ý ông khi ông tiên đoán quá xa rằng phải chờ năm trăm năm nữa.
Có một báo cáo từ các khu vườn gửi đến:
Ở rìa tiếp giáp sa mạc của các khu trồng trọt, phiêu sinh cát đang bị nhiễm độc do tương tác với các dạng sống mới. Nguyên nhân: không tương thích về protein. Ở đó đang hình thành thứ nước độc mà ngay cả sự sống của Arrakis cũng không thể đụng tới. Một vùng khô cằn bao quanh các khu trồng trọt mà ngay cả shai-hulud cũng không xâm phạm.
Kynes đích thân đến vườn - một chuyến đi dài hai mươi cú thúc (ngồi trên kiệu như một người bị thương hay như Mẹ Chí tôn bởi ông không bao giờ trở thành kỵ sĩ cát). Ông kiểm tra vùng khô cằn đó (nó hôi thối vô cùng tận) và nhận được một phần thưởng, món quà của Arrakis.
Việc bổ sung sulfua và ni tơ cố định đã biến vùng khô cằn đó thành một lớp đất trồng màu mỡ cho các dạng sống của trái đất. Họ có thể đẩy mạnh việc gieo trồng tùy thích!
"Chuyện này có thay đổi thời hạn không?" người Fremen hỏi.
Kynes quay lại với các công thức hành tinh của ông. Đến khi đó thì các số liệu về bẫy gió đã khá đáng tin cậy. Ông hào phóng với những dung sai, biết rằng ông không thể vạch những giới hạn rõ ràng quanh các vấn đề sinh thái. Phải dành một lượng phủ xanh nhất định để giữ cho các cồn cát không di chuyển; một lượng nhất định dùng làm thức ăn (cho cả người lẫn thú); một lượng nữa để giữ hơi ẩm trong hệ thống rễ cây và tiếp nước cho các vùng khô nẻ xung quanh. Đến lúc này họ đã vẽ được lên bản đồ các điểm lạnh lưu động ngoài sa mạc. Phải tính thêm chúng vào công thức. Ngay cả shai-hulud cũng có chỗ trong các biểu đồ. Không bao giờ được hủy diệt Ngài, nếu không thì của báu hương dược sẽ chấm dứt. Nhưng cái "nhà máy" tiêu hóa bên trong của Ngài, với sự tập trung rất lớn các chất an đê hyt và a xít, là nguồn ô xy khổng lồ. Một con sâu trung bình (dài khoảng 200 mét) thải vào không khí lượng ô xy tương đương với sự quang hợp của một diện tích cây xanh rộng mười cây số vuông.
Ông còn phải tính tới Hiệp hội nữa. Khoản hương dược để mua chuộc Hiệp hội nhằm ngăn không cho vệ tinh thời tiết và các dụng cụ quan sát khác hiện diện trên bầu trời Arrakis đã chiếm một phần rất lớn.
Và cũng không thể phớt lờ người Fremen. Nhất là người Fremen, với bẫy gió và những vùng đất chiếm hữu không theo quy tắc bố trí quanh nguồn nước; người Fremen với tri thức họ mới có về sinh thái, cùng giấc mơ tái tạo những vùng rộng mênh mông của Arrakis trải qua giai đoạn đồng cỏ để biến thành rừng.
Một con số hiện lên từ các biểu đồ. Kynes thông báo. Ba phần trăm. Nếu đưa được ba phần trăm nhân tố cây xanh trên Arrakis tham gia vào việc hình thành hợp chất các bon thì họ đã có được chu trình sống độc lập.
"Nhưng bao lâu?" người Fremen gặng hỏi.
"Ồ: khoảng ba trăm năm mươi năm nữa."
Thế là quả đúng như vị umma này đã nói từ đầu: điều đó sẽ không xảy ra trong cuộc đời của bất cứ ai đang sống bây giờ, cũng không xảy ra trong thời tám đời hậu duệ của họ, nhưng nó sẽ đến.
Công việc tiếp tục: xây dựng, trồng trọt, đào bới, huấn luyện trẻ em.
Thế rồi Kynes-vị-Umma chết trong vụ sập hầm ở lòng chảo Thạch cao.
Khi đó thì con trai ông, Liet-Kynes, đã mười chín tuổi, một người Fremen thuần túy, một kỵ sĩ cát từng giết chết hơn trăm tên Harkonnen. Chức vụ trong Đế chế mà Kynes bố từng nộp đơn xin nhân danh đứa con trai đã được trao cho Liet như một chuyện đương nhiên. Ở đây cơ cấu giai cấp faufreluche nghiệt ngã đã đạt được mục đích duy trì tôn ti trật tự. Người con được đào tạo để nối gót cha.
Đến lúc này tiến trình đã được vạch rõ, những người Fremen-Nhà sinh thái đã được nhắm sẵn vào con đường của họ. Liet-Kynes chỉ phải quan sát, nhắc khéo và để mắt theo dõi nhà Harkonnen... cho đến cái ngày hành tinh của ông khổ sở vì một vị Anh hùng.
Xứ Cát Xứ Cát - Frank Herbert Xứ Cát