There is no way to happiness - happiness is the way.

There is no way to happiness - happiness is the way.

Thich Nhat Hanh

 
 
 
 
 
Tác giả: Thomas Mann
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 56
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3352 / 137
Cập nhật: 2017-09-15 16:22:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần 6 - Như Người Lính Can Trường
ans Castorp vẫn thường xuyên nhận được tin tức của người anh họ, những dòng thư ngắn, mới đầu toàn tin vui, hồ hởi và phấn khởi, sau đó cứ kém dần đi, cuối cùng chỉ còn là những cố gắng che giấu phần nào sự thật đáng buồn. Chuỗi bưu thiếp bắt đầu bằng thông báo nhập ngũ của Joachim và buổi lễ tuyên thệ trọng thể, ở đó chàng, như Hans Castorp viết nửa đùa nửa thật trong tấm bưu thiếp chúc mừng anh họ, đã nguyện sống một cuộc đời nghèo khó, trong sạch và phục tùng tuyệt đối. Rồi tiếp theo là những tin tức đáng mừng: khởi đầu trơn tru trên con đường công danh rộng mở, nhờ lòng say mê binh nghiệp và được sự cảm tình của cấp trên nên Joachim thăng tiến vù vù. Đã qua mấy học kỳ ở trường đại học nên Joachim không phải tham gia khóa huấn luyện tân binh và được miễn cả giai đoạn tập sự ở trường võ bị. Vào dịp năm mới chàng được thăng chức hạ sĩ quan và gửi cho em họ một tấm ảnh chụp mình trong bộ quân phục đầy đủ lon đai. Tâm trạng ngưỡng mộ cuộc sống quân ngũ với cấp bậc trên dưới nghiêm minh, ý thức danh dự cao, kỷ luật sắt nhưng vẫn không thiếu vui thú lồ lộ hiện ra qua những dòng tin ngắn của chàng. Chàng tường thuật một cách khôi hài cung cách rườm rà giữ ý của viên thượng úy bẳn tính nổi tiếng hay hành hạ lính, cấp trên trực tiếp của chàng, mỗi khi nhắm mắt làm ngơ trước những sơ suất của tên hạ cấp chưa ráo máu đầu, bởi vì ông ta nhìn thấy trước ở chàng vị thượng cấp tương lai ngay từ bây giờ đã tự nhiên ra vào sòng bạc sĩ quan. Những câu chuyện ấy rất tếu. Rồi chàng khoe được phép tham dự kỳ thi thăng cấp sĩ quan. Đầu tháng tư Joachim được phong thiếu úy.
Có lẽ khắp cõi đời này không ai hạnh phúc hơn chàng, không ai mà bản chất và nguyện vọng lại phù hợp với nghề nghiệp khác thường ấy như chàng. Vẻ kiêu hãnh pha chút ngượng ngùng, chàng kể về lần đầu tiên khoác lên mình bộ quân phục sĩ quan láng coóng đi qua tòa thị chính và được người lính gác ở đó đứng nghiêm chào, và chàng đã phẩy tay chào lại từ xa ra sao. Chàng kể về những nỗi bực dọc và niềm vui nho nhỏ trong khi làm nhiệm vụ, về tình đồng đội khăng khít, về những người lính ranh mãnh và trung thành dưới trướng, về những sự cố tức cười ngoài thao trường và khi tập huấn, về những cuộc thanh tra và những bữa tiệc tình thương[347]. Chàng không quên kể về cả những mối quan hệ xã giao, những cuộc thăm viếng, những buổi tiếp tân, những đêm khiêu vũ. Riêng chỉ có tình hình sức khỏe của chàng là không bao giờ được nhắc đến.
Cho tới mùa hè. Rồi có tin chàng ngã bệnh phải nghỉ ít ngày: sốt do viêm họng, chuyện vặt, dăm bữa là hết. Đầu tháng sáu chàng trở về đơn vị nhận nhiệm vụ, nhưng tới giữa tháng lại “lăn ra” bệnh, như chàng cay đắng than thở, thật “xui tận mạng”, điệu này không khéo chàng lỡ mất cuộc tập trận lớn đầu tháng tám, sự kiện mà chàng nóng lòng mong đợi bấy lâu nay. Chỉ lo hão, sang tháng bảy chàng lại khỏe như voi mấy tuần liền. Cho đến khi có tin chàng bị buộc phải qua một cuộc kiểm tra sức khỏe, vì nhiệt độ dao động không rõ lý do, tuy không nói ra nhưng ai cũng hiểu rằng tương lai chàng phụ thuộc rất nhiều vào đó. Khá lâu sau Hans Castorp không nhận được thông báo gì về kết quả cuộc kiểm tra sức khỏe ấy, và rồi cuối cùng người báo tin cho chàng không phải là Joachim - chẳng biết vì hổ thẹn hay vì bệnh nặng đến mức không đủ sức viết thư. Mẹ Joachim, bà Ziemßen, đánh điện tín cho chàng. Bà cho biết, các bác sĩ khuyên Joachim nghỉ chữa bệnh vài tuần. Chỉ định điều dưỡng trên vùng núi, sắp khởi hành, đặt giúp hai phòng. Phúc đáp đã thanh toán. Ký tên: Dì Luise.
Bấy giờ là cuối tháng bảy. Hans Castorp nằm trên ban công phòng mình đọc đi đọc lại bức điện nhiều lần. Chàng gật gù, không chỉ bằng đầu mà bằng cả nửa thân trên, và lẩm bẩm qua hàm răng nghiến chặt: “Chà, chà, chà. Để coi, để coi, để coi!” - ‘Joachim trở lại!’ Niềm vui bồng bột bùng lên xuyên suốt người chàng. Nhưng chưa đầy một giây sau chàng đã lại chùng người xuống tự nhủ: ‘Hừm, hừm, tin này nghiêm trọng chứ chẳng chơi. Đúng là một sự bất ngờ không mong đợi. Mẹ kiếp, nhanh quá thể, chưa chi đã phải về lại cố hương rồi! Bà mẹ cùng đi’ - (chàng dùng danh từ chung ‘bà mẹ’ chứ không gọi là ‘dì Luise’, đủ thấy mối dây tình cảm với thân quyến họ hàng của chàng đã lỏng lẻo đến độ nào) - ‘tức là phải đáng ngại lắm. Lại đúng ngay trước cuộc tập trận mà anh chàng tội nghiệp sôi sùng sục chờ đón hôm rày! Hừm, thật là một trò chơi khăm độc ác và mỉa mai của số phận, một thực tế quá phản lý tưởng. Cơ thể đã chiến thắng vẻ vang, nó có những ý muốn khác hẳn linh hồn và ép buộc linh hồn phải làm theo ý nó - một thất bại nhục nhã cho những kẻ mơ mộng viển vông chuyên rao giảng thể xác phải phục tùng linh hồn. Có vẻ như họ chẳng biết họ nói cái gì, vì nếu họ có lý thì trong những trường hợp như thế này té ra linh hồn rất đáng ngờ. Sapienti sat[348], mình biết mình muốn nói cái gì. Vì vấn đề ở đây là, người ta đã sai lầm biết chừng nào khi cho thể xác và linh hồn đối đầu nhau, trong khi thực ra chúng cùng núp dưới một tấm chăn và ăn cánh với nhau trong một ván bài gian lận. Điều này những kẻ mơ mộng viển vông, may mắn cho họ, có ngủ mơ cũng không bao giờ ngờ tới. Joachim thân mến, chẳng phải tớ có ý chê bai gì cậu và lòng hăng hái của cậu! Cậu hành động với lương tâm trong sạch - nhưng ở đây xin được hỏi, lương tâm liệu có trong sạch được không, khi thể xác và linh hồn toa rập với nhau? Có phải cậu quay trở lại vì không thể quên một mùi hương sực nức, một bộ ngực đầy đặn và tiếng cười vô cớ vẫn đang chờ cậu ở bàn mụ Stöhr?... Joachim trở lại!’ Chàng thầm reo, lòng bồi hồi sung sướng. ‘Anh ấy trở về trong tình trạng sức khỏe xấu đi, cái ấy đã hẳn, nhưng từ nay bọn mình đi đâu cũng lại có đôi, mình sẽ không còn đơn thương độc mã ở trên này nữa! Hay lắm. Tất nhiên như thế không có nghĩa là mọi sự sẽ trở lại giống y như trước, phòng của anh ấy đã có người khác ở rồi: Mrs. Macdonald đang âm thầm ho không ra tiếng ở đó và thể nào cũng giữ một tấm hình cậu con trai nhỏ bên người, đặt trên chiếc bàn nhỏ sát giường hay cầm khư khư trong tay. Nhưng bà ta đã ở vào giai đoạn chung kết, và nếu như phòng ấy chưa có ai đặt trước... Tạm thời anh ấy có thể ở đỡ trong một phòng khác cũng được, số hai mươi tám đang trống đấy, theo như chỗ mình được biết. Mình phải xuống ngay phòng quản trị, và phải tìm gặp Behrens nữa. Thật là một tin nóng sốt - đáng buồn mặt này nhưng mặt khác lại tuyệt vời, dù thế này hay thế khác thì chắc chắn cũng sẽ gây chấn động ở đây! Mình còn phải đợi tay đồng đội kia đến “trào ông” nữa, bây giờ cũng đã quá ba rưỡi rồi. Mình nhất định phải hỏi y, trong trường hợp này liệu y còn giữ nguyên ý kiến cho rằng người ta chỉ nên coi thể xác là thứ yếu nữa hay không...’
Chàng xuống văn phòng từ trước giờ uống trà chiều. Gian phòng mà chàng nhắm ở cùng một cánh hành lang với phòng của chàng vẫn còn trống, và cả chỗ ở cho bà Ziemßen cũng được thu xếp không khó khăn gì. Chàng tức tốc đi tìm Behrens, và bắt gặp ông ta đứng trong ‘Labor’, một tay kẹp điếu xì gà, tay kia cầm một cái ống nghiệm trong đựng ít chất nhầy màu sắc gớm chết.
“Thưa ông cố vấn cung đình, ông biết chuyện gì chưa?” Hans Castorp mở màn...
“Biết rồi, toàn chuyện bực mình”, vị chuyên gia lao phổi đáp. “Đây là Rosenheim người Utrecht”, ông ta đưa điếu xì gà trỏ vào cái ống nghiệm. “Mười độ Gaffky. Và lão chủ nhà máy Schmitz vừa mới tới làm ầm ĩ cả lên về chuyện Rosenheim khạc nhổ tùm lum ngoài chỗ đi dạo - với mười độ Gaffky, ông có hình dung được không. Và tôi có trách nhiệm cạo gáy y. Nhưng hễ tôi mở miệng nói động đến là y sẽ nhảy lên đùng đùng ngay lập tức, vì y nóng tính như lửa và gia đình y chiếm hẳn ba phòng ở đây. Tôi không thể tống cổ y đi được, vì tôi sẽ gặp rắc rối to với ông tổng giám đốc an dưỡng đường. Ông thấy đấy, ở đây không ngày nào không có chuyện, và người ta cứ lôi đầu tôi ra mà gõ, mặc dù tất cả nguyện vọng của tôi chỉ là làm sao để được hành nghề cho yên ổn mà thôi.”
“Thật chuyện chẳng đâu vào đâu”, Hans Castorp đáp bằng giọng thông cảm của người trong cuộc đã lâu năm. “Tôi biết hai ông ấy. Schmitz chỉn chu và mẫn cán không thể tưởng tượng được còn Rosenheim thì cẩu thả khủng khiếp. Nhưng rất có thể đằng sau đó còn lý do nào khác nữa ngoài lý do vệ sinh. Cả Schmitz lẫn Rosenheim đều đang muốn lấy lòng Doña Perez người Barcelona ngồi ở bàn cô Kleefeld, chắc đấy mới là lý do chính gây ra xung đột. Theo tôi ông cố vấn cung đình có thể lên tiếng nhắc nhở chung mọi người phải theo đúng nội quy giữ gìn vệ sinh, còn thì nên nhắm một mắt làm ngơ đi là hơn.”
“Thì tôi vẫn nhắm đấy chứ. Tôi nhắm chặt đến nỗi sắp mắc chứng giật mí mắt rồi đây này. Cơn gió nào đưa ông xuống đây thế?”
Và Hans Castorp xổ ra cái tin nóng sốt vừa đáng buồn lại vừa tuyệt vời của chàng.
Đừng tưởng ông cố vấn cung đình ngạc nhiên khi nghe cái tin hấp dẫn ấy. Ông ta chẳng ngạc nhiên một tí nào, không phải vì Hans Castorp vẫn thường xuyên báo cáo về tình hình sức khỏe của Joachim, cả khi được hỏi lẫn khi không được hỏi, và ông ta đã biết anh họ chàng ngã bệnh hồi tháng năm.
“A ha”, Behrens bảo. “Thế cơ đấy. Tôi đã nói với ông thế nào? Tôi đã rót vào tai các ông những lời nào, không phải chỉ mười lần mà cả trăm lần? Giờ thì ông thấy rồi nhé. Chín tháng trời ông ta đã được thỏa chí tang bồng, bay bổng trên các tầng mây. Nhưng đó là những tầng mây chưa giải độc, là thiên đường không được ban phước. Ông ta không muốn tin lời lão già Behrens này. Nhưng đã lên tới đây thì phải tin tưởng lão già Behrens, chớ có nóng vội bỏ đi quá sớm, kẻo khi tỉnh ra thì đã muộn rồi. Ông ta lên đến chức thiếu úy rồi cơ đấy, hay lắm, tôi đâu có dám chê bai gì. Nhưng ông ta được cái gì nào? Chúa nhìn vào trái tim con người chứ không nhìn vào lon ngù trên ve áo, trước Chúa tất cả chúng ta đều trần như nhộng, dù là tướng tá hay lính quèn cũng thế mà thôi...” Ông ta lại rơi vào một cơn trầm cảm, và vừa đưa bàn tay khổng lồ lên dụi mắt, giữa hai ngón tay còn kẹp điếu xì gà, vừa bảo Hans Castorp giờ thì làm ơn để cho ông ta được yên thân. Ở đây chắc thế nào cũng có một cái chuồng còn trống cho Joachim, và chừng nào ông thiếu úy tới nơi thì xin ông em họ hãy nhét ngay ông ấy vào giường không được chậm trễ. Còn cá nhân ông ta, Behrens, thì không phải là người thù dai, ông ta vẫn mở rộng vòng tay ưu ái đón chào và sẵn sàng giết một con bê ăn mừng đứa con lầm đường lạc lối trở về.
Hans Castorp đánh điện trả lời. Chàng khoe cùng khắp viện là anh họ chàng sắp quay trở lại, và tất cả những người đã quen biết Joachim đều tỏ ra buồn vui lẫn lộn, cả vui lẫn buồn cùng rất thật lòng vì ai cũng mến bản chất đàng hoàng đứng đắn, tính tình hào hiệp của chàng, mặc dù không nói ra miệng nhưng theo đánh giá và cảm tình của đa số thì có lẽ chàng là người tử tế nhất trong tất cả các bệnh nhân ở trên này. Chúng tôi không muốn nhắm vào riêng ai, nhưng cũng phải thưa để quý vị biết rằng vẫn có một số người ngấm ngầm hả dạ khi thấy Joachim phải từ bỏ tư thế quân nhân để về lại tư thế nằm ngang và trở thành một người trong số họ, với tất cả sự nghiêm túc và tính kỷ luật của chàng. Bà Stöhr, như quý vị hẳn đã đoán ra, là một trong những người đầu tiên bày tỏ suy nghĩ ấy; bà ta thấy những tiên đoán ẩu tả của mình lúc Joachim xuống núi đã được chứng minh là đúng, và không bỏ lỡ cơ hội ném vào mặt người nghe cái câu thấy chưa tôi đã bảo mà. “Hỏng, hỏng”, bà ta chặc lưỡi. Bà ta đã thấy ngay từ đầu là mọi chuyện sẽ hỏng, và chỉ hy vọng Ziemßen không làm cho nó hỏng nặng bằng sự cứng đầu của mình. (“Hỏng nặng”, bà ta thản nhiên nói thế với vẻ mặt câng câng thường lệ.) Cứ bám trụ lại đây có phải tốt hơn không, như bà ta đây, bà ta cũng có đầy đủ lý do để mong xuống đồng bằng đấy chứ, cụ thể là về Cannstatt, nơi có một ông chồng và hai đứa con đang đợi bà ta, nhưng bà ta biết tự kiềm chế bản thân... Hans Castorp không nhận được thêm bức điện nào nữa từ phía Joachim hay bà Ziemßen và chẳng biết lúc nào họ sẽ tới; vì lẽ đó ở nhà ga đã không diễn ra cảnh đón chào, khi hai mẹ con Joachim đến nơi vào ngày thứ ba sau khi Hans gửi đi bức điện trả lời. Thiếu úy Ziemßen, nụ cười căng thẳng trên môi, gặp lại em họ khi cậu ta đang làm nhiệm vụ ngoài ban công.
Lúc ấy là đầu giờ nằm nghỉ buổi tối. Vẫn chuyến tàu ấy đưa họ tới, chuyến tàu hai năm trước đã đưa Hans Castorp lên đây, những năm trời không lâu mà cũng chẳng chóng, không có thời gian, đầy ắp sự kiện nhưng chẳng có nội dung và ý nghĩa; thậm chí thời điểm trong năm cũng gần như trùng lặp: cả hai đều rơi vào một trong những ngày đầu tháng tám. Joachim, như đã nói ở trên, chạy ngay vào phòng em họ - hay nói đúng hơn là chạy ra ngoài ban công - tay bắt mặt mừng chào hỏi Hans Castorp, với tiếng cười cố nén và hơi thở hổn hển đứt quãng. Chàng đã vượt qua cuộc hành trình dài dằng dặc xuyên qua nhiều quốc gia, qua hồ nước lớn mênh mông như biển và con đường dốc đứng lên cao, cao mãi để về lại chốn này, và giờ đây chàng đứng đó, cứ như chẳng hề xuống núi, trong khi cậu em họ từ tư thế nằm ngang lập cập chồm dậy đón chào, bất ngờ đến nỗi chỉ thốt lên được “Ơ kìa” với “Cậu đấy à”. Sắc diện chàng rất hồng hào, có lẽ nhờ thời gian chủ yếu ngoài trời trong cuộc đời quân ngũ, nhưng cũng có thể vì nóng bức lúc đi đường. Vừa đặt chân đến nơi, thậm chí chưa về phòng riêng của mình chàng đã chạy ngay lên phòng số 34 chào người đồng đội đã chia sẻ những ngày xưa và sẽ chia sẻ những ngày sắp tới với chàng, trong khi bà mẹ còn lo rửa ráy sau chặng đường dài vất vả. Mười phút nữa họ sẽ ăn tối, dĩ nhiên là trong khách sạn. Hans Castorp hẳn còn ăn thêm được vài miếng hoặc uống một ngụm rượu cho vui. Và Joachim kéo em họ sang phòng số 28, ở đó mọi sự diễn ra đúng y như buổi tối Hans Castorp mới tới nơi, chỉ có điều vai trò hai người đã đảo ngược: Joachim là người nói luôn miệng, vừa nói vừa rửa tay trong cái bồn rửa trắng bóng, còn Hans Castorp đứng nhìn - kinh ngạc và có phần hơi thất vọng vì thấy anh họ mặc thường phục. Nhìn bề ngoài thế này chẳng ai đoán được con đường công danh sự nghiệp của người anh. Chàng vẫn hình dung ra anh mình là một sĩ quan oai phong trong bộ quân phục đỏm dáng, vậy mà giờ đây anh ấy đứng đó trong bộ đồ xám tầm thường, như bất kỳ kẻ vô danh tiểu tốt nào. Joachim bật cười vì sự ngây thơ của em họ. Quân phục chàng đã để lại nhà, Hans Castorp phải biết rằng không thể cứ hứng lúc nào là mặc quân phục lúc ấy được, bộ quân phục gắn liền với danh dự quân nhân và phải được đặc biệt trân trọng. “À ra thế. Rất cảm ơn cậu đã giải thích”, Hans Castorp bảo. Joachim có vẻ như không nhận ra cái ý miệt thị trong lời giải thích của mình, mà chuyển ngay sang hỏi thăm những người quen và tình hình ở “Sơn trang”, chẳng những không một chút kiêu ngạo mà còn thể hiện mối quan tâm thực sự của người đi xa trở về nhà. Rồi bà Ziemßen xuất hiện nơi cánh cửa thông giữa hai phòng, và chào người cháu bằng cái cách nhiều người khác cũng chọn trong tình huống ấy, tức là làm ra vẻ ngạc nhiên vui mừng vì gặp Hans Castorp ở đây. Giọng nói của bà chậm rãi đầy vẻ ưu phiền, phần vì mệt mỏi, phần vì nỗi đau khổ thầm kín liên quan đến tình trạng sức khỏe của người con. Rồi họ xuống dưới nhà ăn tối.
Luise Ziemßen cũng có đôi mắt đen đẹp hiền hậu như mắt Joachim. Mái tóc đen đã điểm nhiều sợi bạc của bà được bọc gọn trong một tấm lưới kín đáo, kiểu tóc rất hợp với tác phong trầm tĩnh, chững chạc mà vẫn dịu dàng thân thiện của bà, làm toát lên một sự giản dị tinh thần rõ rệt nhưng không kém phần đáng kính và đáng mến. Hoàn toàn dễ hiểu, và Hans Castorp cũng không lấy làm lạ, khi bà tỏ ra ngơ ngác và thậm chí hơi phật ý trước tâm trạng phấn khởi của Joachim, hơi thở dồn dập và giọng nói gấp gáp của chàng, những biểu hiện có lẽ khác hẳn thái độ của chàng khi ở nhà cũng như trong lúc đi đường và rõ ràng không phù hợp với tình trạng sức khỏe của chàng. Quay trở lại đây đối với bà là một sự kiện đáng buồn, và bà cho rằng họ nên có thái độ cư xử phù hợp mới phải. Bà không chia sẻ những cảm xúc của Joachim, tâm trạng lâng lâng xúc động của người trở về nhà sau chuyến đi xa đang lấn át tất cả những tình cảm khác trong chàng, cộng thêm việc hít thở lại bầu không khí trên này, nhẹ hơn rất nhiều so với bầu không khí ở dưới kia, không mùi vị, làm nóng ran đôi má, những cái ấy bà mẹ không thể nhìn thấy được. “Thằng bé tội nghiệp”, bà nghĩ, và ngớ người ra khi chứng kiến cảnh thằng bé tội nghiệp của bà cười ha hả với em họ nó, cùng nhau ôn lại hàng trăm kỷ niệm, đặt một lúc hàng trăm câu hỏi và cười lăn ra ghế khi nhận được các câu trả lời. Nhiều lần bà phải lên tiếng nhắc nhở: “Nào, nào, các con!” Và rốt cuộc nhận xét của bà, đáng lý phải vui, lại có vẻ giận dỗi và thoáng chút trách móc: “Joachim, thật tình, đã lâu lắm rồi mẹ không được thấy con vui thế này. Chẳng lẽ mình phải lên tận đây để con lấy lại tâm trạng phấn khởi của ngày được thăng cấp hay sao.” Dĩ nhiên sau đó tâm trạng phấn khởi của Joachim biến mất tiêu. Chàng ngồi ủ rũ, đăm chiêu, đắm mình trong im lặng và bỏ không ăn món tráng miệng, mặc dù nhà hàng đưa lên bánh nướng sô cô la với váng sữa đặc (khác với anh họ Hans Castorp thưởng thức rất nhiệt tình, mặc dù bữa tối thịnh soạn của chàng mới vừa kết thúc trước đó chưa đầy một tiếng). Về cuối bữa Joachim gần như không ngẩng đầu lên nữa, đôi mắt đen to nhòa nước.
Hậu quả ấy rõ ràng ngoài mong đợi của bà Ziemßen. Thực tình bà chỉ muốn tạo ra bầu không khí nghiêm trang và đúng mực cho phù hợp với tình cảnh của mẹ con bà, mà không biết rằng chính nghiêm trang và đúng mực là những khái niệm hoàn toàn xa lạ với nơi này, và rằng ở đây người ta chỉ có thể chọn một trong hai thái cực mà thôi. Nhìn con trai âu sầu ủ dột chính bản thân bà cũng muốn rớt nước mắt, và hết sức biết ơn khi người cháu tìm cách cứu vãn tình thế. Chà, về những người ở đây, chàng bảo, thì Joachim sẽ thấy có một vài thay đổi và cả những gương mặt mới, nhưng nói chung tất cả đã đâu lại vào đó trong thời gian chàng vắng mặt, chẳng khác gì trước kia. Ví dụ như bà cụ già vui tính và các cô gái đi cùng, họ đã quay trở lại từ lâu. Ba bà cháu vẫn ngồi chỗ cũ bên bàn bà Stöhr. Marusia vẫn hay cười như trước.
Joachim im lặng. Nhưng bà Ziemßen chợt nhớ ra trong một cuộc gặp gỡ tình cờ có người quen cũ gửi lời chào Hans Castorp, bà phải chuyển đến chàng trước khi quên khuấy mất, lời chào của một người phụ nữ, không phải là không dễ mến, mặc dù đi một mình và có cặp chân mày quá ư bằng bặn. Ở München, khi họ nghỉ lại một ngày giữa hai chuyến xe đêm, bà ta thình lình bước tới bàn ăn của họ trong khách sạn niềm nở chào Joachim. Một cựu bệnh nhân ở đây - Joachim, tên bà ấy là gì nhỉ...
“Bà Chauchat”, Joachim âm thầm đáp. Bà ta hiện đang ở một khu an dưỡng vùng Allgäu và dự định mùa thu sẽ sang Tây Ban Nha. Qua đông rất có thể bà ta sẽ quay trở lại đây.
Bà ấy gửi lời chào Hans Castorp.
Hans Castorp không còn là một cậu bé, chàng đã có thể kiểm soát những mối dây thần kinh điều khiển mạch máu giãn ra hay co lại khiến chàng đỏ hay tái mặt. Chàng bảo:
“A, bà ấy hả? Thế ra bà ấy cuối cùng đã bò ra khỏi rặng Caucasus. Bà ta định đi Tây Ban Nha ư?”
Bà ấy có nhắc đến một địa danh ở Pyrenees. “Một phụ nữ đẹp, rất hấp dẫn. Giọng nói êm tai và dáng đi cũng nhẹ nhàng. Nhưng tác phong quá tự do, hơi thiếu giữ gìn”, bà Ziemßen bảo. “Tới hỏi chuyện chúng tôi như những người bạn cũ, mặc dù theo chỗ dì được biết, Joachim chưa bao giờ được giới thiệu chính thức với bà ta. Lạ quá.”
“Đấy là phương Đông và bệnh tật”, Hans Castorp đáp. Mình không thể áp dụng các thước đo của nền văn minh phương Tây cho nó, ở đó những luật lệ kia hoàn toàn sai chỗ. Và chàng nghĩ lan man, thì ra Madame Chauchat dự định sang Tây Ban Nha. Hừm. Tây Ban Nha, xứ ấy cách xa nền văn minh cũng chẳng thua gì xứ kia - mặc dù không phải về phía mềm dẻo mà là về phía cứng rắn, không phóng túng mà là khuôn phép, dưới hình thức cái chết, không phải sự giải thoát sau khi chết mà là sự khắc nghiệt của bản thân cái chết, đen ngòm, quý phái và đẫm máu, tòa án giáo hội, cổ áo hồ bột xếp nếp cao, Loyola[349], Escorial[350]... Thú vị thật, chàng muốn biết Madame Chauchat rồi đây có thích Tây Ban Nha không. Hy vọng ở đó nàng bỏ được cái tật để sập cửa, và biết đâu sự hòa trộn giữa hai thái cực ngoại nhân văn có thể dẫn đến một kết quả nhân bản hơn. Nhưng cũng có thể nó sẽ cho ra đời một cái gì rất độc ác và khủng bố, khi phương Đông tìm đường sang Tây Ban Nha...
Không, mặt chàng không đỏ hay tái đi, nhưng ấn tượng cái tin bất ngờ về Madame Chauchat gây ra nơi chàng thể hiện rõ rệt không kém qua lời nói và dĩ nhiên được đáp lại bằng sự im lặng khó xử. Joachim không đến nỗi quá sốc, chàng đã được làm quen với những tư duy kỳ quái của em họ từ trước rồi. Nhưng ánh mắt bà Ziemßen để lộ một nỗi bất bình kinh khủng; bà tỏ thái độ như thể Hans Castorp vừa phát biểu điều gì vô cùng bất nhã, và sau một khoảnh khắc im lặng nặng nề bà tế nhị viện ra một cái cớ để kết thúc bữa ăn. Trước khi chia tay ai về phòng nấy Hans Castorp không quên truyền đạt chỉ thị của ông cố vấn cung đình, dặn Joachim sáng hôm sau đừng rời khỏi giường cho tới khi được ông ta đến khám. Còn sau đó ra sao thì hạ hồi phân giải. Rồi ba người bà con nằm trằn trọc trong những căn phòng mở toang cửa giữa bầu không khí trong lành của đêm hè - mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng, Hans Castorp mơ về Madame Chauchat và sự trở lại của nàng nếu đúng như dự định thì chỉ trong vòng nửa năm nữa thôi.
Và như thế Joachim tội nghiệp trở về cố hương làm một khóa điều trị bổ sung nho nhỏ theo chỉ định. Điều trị bổ sung rõ ràng là một cách dùng từ có lựa chọn ở dưới đồng bằng, và được các vị lương y ở đây độ lượng chấp nhận. Bản thân ông cố vấn cung đình cũng không phản đối việc dùng cái từ ấy, mặc dù vừa nhìn thấy mặt Joachim ông ta đã tuyên án: bốn tuần nằm yên trên giường - cần phải thế, để sửa chữa những chỗ hư hỏng nặng nhất, làm quen trở lại với khí hậu và tạm thời điều chỉnh thân nhiệt. Và ông ta tránh nêu một thời hạn cho khóa điều trị bổ sung. Bà Ziemßen, tế nhị, biết nghe lẽ phải, không bao giờ nóng vội, lên tiếng đề nghị mùa thu, có thể là tháng mười, làm thời điểm ra viện, và Behrens không tán thành cũng chẳng phản đối, chỉ bảo rằng đến lúc bấy giờ người ta có thể biết nhiều hơn. Cũng phải nói thêm rằng ông ta đã thu phục được toàn bộ cảm tình của bà mẹ bằng thái độ cư xử rất mực hào hoa, lúc nào cũng “thưa quý bà thân mến”, vừa nói vừa ngước nhìn bà bằng ánh mắt trung thành tận tụy nhất huy động được từ cặp mắt lồi xanh lơ vằn tia máu đỏ, và sử dụng thứ ngôn ngữ sinh viên vui nhộn đến nỗi đang buồn rầu như thế mà bà vẫn phải bật cười. “Thôi thì trăm sự nhờ ông”, bà bảo thế lúc lên đường về lại Hamburg, sau tám ngày lưu lại trên này, vì rõ ràng Joachim không cần đến một người chăm sóc riêng, hơn nữa đã có cậu em họ bầu bạn với chàng.
“Đấy nhé, cậu phải vui lên đi chứ”, Hans Castorp bảo lúc ngồi bên giường anh họ trong phòng số 28. “Mùa thu là cậu được ra viện rồi. Lão già đã ít nhiều chịu chấp nhận thời hạn ấy; cậu có thể lấy đó làm mốc để tính. Tháng mười. Bấy giờ có người sang Tây Ban Nha, còn cậu thì quay trở về với lá cờ của cậu để lập những chiến công hiển hách...”
Nhiệm vụ mỗi ngày của chàng là an ủi động viên Joachim, anh chàng thất vọng đến cùng cực vì không được tham gia trò chơi đánh trận giả đang mở màn trong những ngày đầu tháng tám này. Joachim không thể nghĩ đến bất kỳ điều gì khác ngoài chuyện ấy, và thở ra cái giọng gần như khinh bỉ bản thân mình vì tự nhiên lăn ra ốm vào lúc quyết định nhất. “Rebellio carnis[351]”, Hans Castorp bảo. “Cậu làm sao mà chống lại nó được? Dù có là sĩ quan và dũng cảm đến đâu cũng chẳng làm gì được, ngay cả Thánh Antoninus cũng bị nó hành cho đến nơi đến chốn đấy thôi. Nhân danh Chúa, tập trận thì năm nào chẳng có, mà cậu còn lạ gì thời gian ở đây nữa, nhanh như chớp! Cậu vắng mặt chưa bao lâu nên quay trở về nhịp điệu cũ cũng dễ thôi, và trước khi cậu kịp trở tay thì khóa điều trị bổ sung cỏn con này đã hết rồi.”
Tuy nhiên cảm nhận về thời gian của Joachim đã được mài giũa và làm tươi mới một cách đáng kể trong thời gian chàng sống dưới đồng bằng, cho nên chàng không thể nào không thấy sợ khi nghĩ đến bốn tuần trước mắt. Được cái mọi người đều ra sức giúp đỡ chàng vượt qua giai đoạn này; mối thiện cảm chung người ta dành cho chàng trai trung hậu được thể hiện ra bằng lượng khách từ khắp nơi xa gần lũ lượt kéo tới bên giường người bệnh. Settembrini đến thăm với thái độ thông cảm và vẻ duyên dáng quen thuộc, gọi Joachim là “ông đại úy” thay vì “ông thiếu úy” như từ trước tới giờ; cả Naphta cũng tới, và những người quen cũ ở ‘Sơn trang’ cũng lần lượt trình diện không thiếu một ai, họ tranh thủ mươi mười lăm phút không làm nhiệm vụ để đến ngồi bên giường chàng, nhắc lại cái từ điều trị bổ sung và nghe chàng kể về số phận mình: các bà Stöhr, Levi, Iltis và Kleefeld, các ông Ferge, Wehsal và vài người khác nữa. Một đôi người thậm chí còn mang hoa đến tặng chàng. Hết bốn tuần chàng được phép rời khỏi giường, và vì cơn sốt đã bị hạn chế ở mức độ có thể đi lại được nên chàng xuống ăn dưới phòng ăn lớn, ngồi vào bàn cậu em họ ở vị trí giữa Hans Castorp và bà vợ ông chủ hãng bia Magnus, đối diện với ông Magnus, nơi góc bàn dạo nào cậu James đã ngồi và cũng là chỗ mẹ chàng, bà Ziemßen, vừa ngồi mấy bữa trước.
Vậy là hai chàng trẻ tuổi lại cặp kè sóng bước bên nhau như ngày nào; đúng thế, để cho mọi sự trở lại đúng y như trước, Mrs. Macdonald đã trút hơi thở cuối cùng với tấm hình cậu con trai nhỏ trong tay, và Joachim dọn về ở trong gian phòng cũ của chàng bên cạnh phòng Hans Castorp, tất nhiên sau khi đã tẩy trùng kỹ lưỡng bằng H2CO. Nhưng trên thực tế và cả theo cảm tính vai trò của Joachim và Hans Castorp đã đảo ngược: cậu em bây giờ là ma cũ, trong khi cậu anh chỉ có ý định chia sẻ nếp sống này một thời gian ngắn có tính chất tạm thời mà thôi. Joachim khăng khăng không rời mắt khỏi cái hẹn tháng mười, mặc dù có một điểm nhất định trong hệ thần kinh trung ương của chàng ương bướng khước từ việc điều hành hoạt động trao đổi chất trong cơ thể cho đúng chuẩn mực và cản trở việc điều hòa thân nhiệt của chàng.
Họ nối lại những cuộc thăm viếng Settembrini và Naphta cũng như những chuyến dạo chơi cùng cặp liên minh thù địch này; nếu có cả A. K. Ferge và Ferdinand Wehsal nhập bọn, chuyện này xảy ra rất thường xuyên, thì nhóm của họ lên tới sáu người. Hai đối thủ tinh thần hăm hở xông vào cuộc đấu tay đôi bất tận của họ, và chúng ta không thể đi đến một sự lĩnh hội đầy đủ mà không hoàn toàn lạc lối trong những lý luận vô biên-vô vọng của họ, ngày nào cũng như ngày nào, trước một cử tọa đông đảo, cho dù Hans Castorp vẫn muốn tin rằng linh hồn tội nghiệp của mình mới là đối tượng tranh giành chính của cuộc so tài biện chứng kia. Qua lời Naphta chàng được biết Settembrini là hội viên hội Tam Điểm[352], và kinh ngạc không thua gì lúc ông người Ý tiết lộ gốc gác dòng Tên và nguồn tài chính của Naphta. Chàng không ngờ trên đời vẫn còn tồn tại những hội kín kiểu này, và ra sức gặng hỏi tay tu sĩ khủng bố về xuất xứ và tổ chức của cái hội bí mật đầy hấp dẫn, chỉ vài năm nữa là tròn hai trăm tuổi kia. Nếu như Settembrini khi bình luận những nét cá tính tinh thần của Naphta sau lưng ông nọ ưa dùng giọng cảnh cáo lâm li bi đát như thể nói đến một cái gì quỷ quái rất đáng sợ, thì Naphta, khi không có mặt ông nọ, lại kể toạc móng heo tất cả những gì ông ta biết và công khai giễu cợt gọi hoạt động của Settembrini là một trò hề cổ hủ và lạc hậu: ra sức đấu tranh để khai sáng dân trí và giành một sự tự do tinh thần đã lỗi thời, không hơn gì những bóng ma tư tưởng thảm hại, nực cười nhất là mù quáng đến độ tự lừa dối bản thân rằng mình vẫn đang sống trọn vẹn một cuộc đời cách mạng hào hùng. Naphta bảo: “Nhà ấy có truyền thống tham gia hội kín, ông nội ông ta đã là thành viên hội Carbonari rồi, tiếng Đức gọi là Hội những người đốt than đấy. Ông ta thừa kế được từ người ông niềm tin của đám Carbonari, nêu cao những là trí tuệ, tự do, tiến bộ và cả đống tàn dư tư tưởng đạo đức tiểu tư sản cổ điển khác. Ông biết đấy, cái làm cho thế giới này lộn sòng là sự thiếu đồng bộ giữa tốc độ làm việc quá nhanh của tinh thần và sự chậm chạp, lười biếng, sức ì khủng khiếp của vật chất. Phải thú thật rằng sự lệch pha này lẽ ra đã đủ để giải thích sự thờ ơ của tinh thần đối với thực tế, bởi theo quy luật các ý tưởng của nó đã thối rữa từ lâu trước khi lên men sôi sục làm nổ ra các cuộc cách mạng trong thực tế. Đúng thế, tư tưởng chết đáng kinh tởm hơn vật chất chết rất nhiều, như đá bazan, nó chẳng bao giờ lên tiếng đòi tinh thần và cuộc sống. Những đá bazan ấy, tàn dư của một thực tế xưa cũ, đã rơi rớt lại quá xa sau lưng tinh thần và khước từ mọi mối liên hệ với khái niệm thực tế, nhưng vẫn trơ trơ tồn tại và, đáng buồn thay, cùng với sự tồn tại không sinh khí thô thiển ấy chúng tiếp tục bảo tồn sự vô nghĩa của mình mà không chịu nhìn nhận cái vô nghĩa ấy. Tôi nói chung chung như thế, nhưng ông sẽ biết cách áp dụng vào trường hợp tư tưởng tự do nhân đạo của con người kia, đã chết từ lâu mà cứ tưởng mình vẫn là người hùng đấu tranh chống áp bức và thống trị. Ối chà, lại còn những tai họa mà nó viện dẫn ra để chứng minh là mình còn sống, những thắng lợi vẻ vang muộn màng mà nó miệt mài chuẩn bị và mơ đến ngày được ăn mừng! Chỉ cần nghĩ đến đấy là tinh thần sống đã chán muốn chết rồi, nếu như nó không biết chắc rằng kỳ thực chỉ có nó là người chiến thắng và được hưởng lợi từ những tai họa ấy - nó, kẻ kết hợp những yếu tố cũ và mới để tạo ra một cuộc cách mạng thực sự... Sức khỏe anh họ ông ra sao rồi, Hans Castorp? Chắc không cần nói ông cũng biết là tôi rất có cảm tình với ông ấy.”
“Cảm ơn ông, ông Naphta. Có vẻ như ai cũng đem lòng yêu mến anh ấy, một chàng trai trung hậu đến thế. Cả ông Settembrini cũng dành cho anh ấy nhiều ưu ái, mặc dù dĩ nhiên ông ấy không tán thành khía cạnh quân phiệt trong nghề nghiệp của Joachim. Ông nói tôi mới biết té ra ông ta là thành viên hội kín. Ai mà ngờ được. Phải thú thật là điều đó làm tôi suy nghĩ rất lung. Cá nhân ông ta hiện ra dưới một làn ánh sáng khác hẳn, và nhiều điều bỗng trở nên sáng tỏ đối với tôi. Chẳng biết ông ấy có khi nào đứng hai chân thành hình thước thợ và bắt tay theo một lối đặc biệt không nhỉ[353]? Tôi chưa bao giờ nhận thấy có gì khác lạ...”
“Ông bạn Tam Điểm của chúng ta hẳn đã ra khỏi giai đoạn ham thích những trò trẻ con ấy rồi”, Naphta bảo. “Tôi e rằng những nghi lễ bí mật ở hội quán Tam Điểm ngày nay chỉ còn là một sự thích nghi rẻ tiền cho phù hợp với tính bình dân của thời đại mới. Người ta sợ xấu hổ vì những nghi thức truyền thống, dưới cái nhìn hiện đại chúng chẳng khác gì trò mê tín dị đoan thiếu văn minh. Mà thay đổi là phải, vì khoác lên tư tưởng cộng hòa vô thần một tấm áo huyền bí thì thật khó coi. Tôi không biết ông Settembrini bị thử thách lòng trung thành bằng những biện pháp kinh dị nào, liệu người ta có bịt mắt ông ta dẫn đi lòng vòng trong những địa đạo ngầm chật chội, có bắt ông ta đứng đợi trong một gian hầm tối trước khi phòng khánh tiết của hội quán mở ra sáng lòa trước mắt ông ta hay không. Chẳng biết ông ta có phải trải qua một cuộc thẩm vấn khắt khe về các quan điểm tôn giáo và chính trị, và bị một lưỡi gươm tuốt trần chĩa vào ngực trong khi đứng dưới hình đầu lâu với ba ngọn đèn tỏa sáng hay không. Những cái ấy ông phải tự hỏi ông ta, tôi chỉ e rằng ông ta sẽ trở nên đặc biệt ít lời khi bị hỏi về những điều đó, bởi các nghi thức có thể đã trở nên giản tiện hơn, nhưng lời thề giữ gìn bí mật thì chắc chắn vẫn có hiệu lực.”
“Thề ư? Giữ bí mật ư? Thế ra chuyện ấy là có thật?”
“Dĩ nhiên. Thề giữ bí mật và phục tùng tuyệt đối.”
“Lại cả phục tùng nữa. Thưa giáo sư, thế này thì tôi thấy ông ta không có quyền gì mà phê phán sự cuồng tín và cưỡng chế trong nghề binh của anh họ tôi. Giữ bí mật và phục tùng tuyệt đối! Tôi thật không thể ngờ rằng, một người có tư tưởng tự do như Settembrini lại chịu khép mình vào trong những quy định và lời thề rất Tây Ban Nha như thế. Tôi có cảm tưởng hội Tam Điểm cũng quân phiệt và khắc nghiệt như dòng Tên...”
“Cảm giác của ông đúng đấy”, Naphta đáp. “Cái ăng ten ngoại cảm của ông bắt đầu rung động. Tư tưởng của hội Tam Điểm bắt rễ và gắn liền với ý tưởng chuyên chế. Bởi vậy nên mới có chủ trương cưỡng chế, nói cách khác là chủ trương phản tự do. Nó giải thoát lương tâm cá nhân và nhân danh mục đích tối hậu để biện minh cho mọi phương tiện, kể cả đổ máu, kể cả phạm pháp. Có những dấu hiệu chứng tỏ trong các hội quán Tam Điểm ngày xưa người ta cũng cắt máu ăn thề. Một hiệp hội không bao giờ đơn giản, mà tùy bản chất nó luôn có ít nhiều tính chuyên chế trong tổ chức. Ông chắc không biết người sáng lập hội Illuminati[354], tổ chức có một dạo gần như hòa nhập vào với hội Tam Điểm, là cựu thành viên của dòng tu Tên Thánh?”
“Không, làm sao tôi biết được!”
“Adam Weishaupt tổ chức hội kín của ông ta rập khuôn theo mẫu mực của dòng tu Tên Thánh. Bản thân ông ta là người của Tam Điểm, và những nhân vật danh giá nhất của các hội quán Tam Điểm thời ấy đều là thành viên Illuminati. Tôi đang nói về nửa sau thế kỷ mười tám, thời kỳ mà Settembrini sẽ không ngần ngại miêu tả với ông là giai đoạn đen tối nhất của tổ chức ông ta. Nhưng trên thực tế đó là thời kỳ nở rộ nhất của họ, cũng như tất cả các hội kín khác bấy giờ, Tam Điểm đã thực sự đạt tới đời sống tinh thần thăng hoa, một thành quả sau này bị những người như ông bạn nhân văn của chúng ta tẩy rửa sạch trơn. Nếu sống vào thời đại ấy chắc hẳn ông ta đã không ngần ngại vào hùa với những kẻ ra sức phỉ nhổ tư tưởng của dòng Tên và chính sách ngu dân.”
“Họ có lý do để làm điều đó?”
“Phải - nếu ông muốn. Tư tưởng tự do thông tục có lý do để làm điều đó. Đấy là thời thế hệ tiền bối còn đang cố gắng du nhập hình thức tổ chức của nhà thờ Công giáo vào hiệp hội của mình, trong thời kỳ ấy bên Pháp đã có một hội quán Tam Điểm của dòng Tên rất thành công ở Clermont. Và đó cũng là thời kỳ phái Rosenkreuzer[355] thâm nhập vào các hội quán Tam Điểm, họ là một tổ chức rất bí hiểm, ông chớ có quên rằng, họ là những người kết hợp mục đích cải tạo và hoàn thiện hệ thống chính trị - xã hội một cách thuần lý trí với thần bí học phương Đông, với kho tàng kiến thức của người Ấn Độ và A Rập cũng như với việc nghiên cứu những hiện tượng huyền hoặc trong thiên nhiên. Thời ấy trong rất nhiều hội quán Tam Điểm đã diễn ra một quá trình cải cách và hiệu chỉnh theo tinh thần Strict Observance[356] - một trào lưu đặc biệt duy tâm và đầy bí mật, nhuốm màu sắc giả kim thuật, là cha đẻ của Hệ thống đẳng cấp cao Scotland, kết quả là ngoài ba đẳng cấp chính tồn tại từ trước theo hình mẫu cấp bậc trong quân đội gồm đệ tử, sư huynh và sư phụ người ta đã đưa thêm vào các chức đại giáo chủ mang nhiều màu sắc tôn giáo theo tinh thần huyền bí của Rosenkreuz. Ở đó có sự tiếp nối truyền thống của một số hiệp hội tôn giáo thời Trung cổ, đặc biệt là dòng tu Đền Thánh, ông biết đấy, các thành viên của dòng tu này phải khấn nguyện trước vị Trưởng lão ở Jerusalem lời thề sống một cuộc đời nghèo khổ, trong sạch và phục tùng tuyệt đối. Cho tới ngày nay vẫn còn một chức trong hàng đẳng cấp cao của Tam Điểm gọi là ‘Đại công tước Jerusalem’.”
“Tất cả những điều ấy thật vô cùng mới lạ đối với tôi, thưa ông Naphta. Bây giờ tôi mới nắm được tông tích ông bạn Settembrini của chúng ta... ‘Đại công tước Jerusalem’ nghe kêu lắm, lần sau ông nhớ lừa lúc thích hợp tặng cho ông ta danh hiệu ấy nhé. Mới đây ông ta gọi ông là ‘Tiến sĩ thiên thần’[357], ông phải trả thù mới được.”
“Ôi, họ còn vô khối danh hiệu kêu như thế trong hệ thống đẳng cấp cao của họ, theo truyền thống của các hiệp sĩ Đền Thánh. Ở đó có một ‘Trưởng lão hoàn mỹ’, một ‘Hiệp sĩ Đông phương’, một ‘Đại giáo chủ cao cấp’, và chức thứ ba mươi mốt thậm chí còn có tên gọi là ‘Đại công tước của các bí mật vương giả’. Hẳn ông cũng nhận thấy rằng tất cả những cái tên này đều dính dáng đến thần bí học phương Đông. Sự xuất hiện trở lại của tư tưởng dòng tu Đền Thánh trên thực tế không ngoài sự kế thừa và tiếp thu những mối quan hệ với thần bí học, là sự thâm nhập của chất men duy tâm vào thế giới tư tưởng để cải tạo xã hội một cách hợp lý và hữu ích. Nó mang lại cho hội Tam Điểm sức thu hút và ánh hào quang mới, điều đó giải thích sự tăng vọt số lượng hội viên của hội thời bấy giờ. Nó thu hút tất cả các thành phần xã hội đã chán ghét sự thông thái rởm của thế kỷ với ý tưởng khai sáng đã cũ xì và sự trưởng thành về mặt nhân văn của nó, và khao khát hướng tới những nguồn sinh lực dồi dào hơn. Thành công của hội Tam Điểm hồi ấy lớn đến nỗi những kẻ tầm thường hủ lậu lên tiếng kêu ca rằng, nó lôi kéo người đàn ông xa rời hạnh phúc gia đình và vòng tay nữ giới.”
“Chà, thưa giáo sư, thế thì không có gì là lạ khi ông Settembrini chẳng muốn nhớ lại thời kỳ hoàng kim ấy.”
“Không đâu, chắc chắn ông ta chẳng muốn nhớ rằng đã có thời hội của ông ta phải hứng chịu ác cảm từ mọi phía, từ phái tự do tư tưởng, phái vô thần, phái học giả, để hướng về hệ thống phức hợp Giáo hội, nhà thờ, tu sĩ thời Trung cổ. Ông biết không, người ta đã từng buộc tội hội Tam Điểm là theo đuổi chính sách ngu dân...”
“Tại sao? Tôi muốn được biết rõ hơn.”
“Tôi sẽ nói để ông rõ. Strict Observance không gì khác hơn là ý tưởng đào sâu và mở rộng những truyền thống của hiệp hội và đưa xuất xứ lịch sử của hội trở về thế giới đầy bí ẩn của thời kỳ được mệnh danh là đêm đen Trung cổ. Các vị giáo chủ đẳng cấp cao của hội quán là những nhân vật được tiết lộ bí mật về vật chất trong vũ trụ, nắm vững các kiến thức khoa học thần bí của thiên nhiên, về cơ bản họ đều là những nhà giả kim thuật lớn...”
“Giờ thì tôi phải cố vận dụng tất cả năng lực tư duy để luận xem về cơ bản thuật giả kim là cái gì. Đó có phải là phương pháp luyện vàng bằng đá thần[358] và kim dịch...”
“Phải, nhưng đó là nói theo ngôn ngữ thông thường. Nói một cách khoa học thì phải định nghĩa giả kim thuật là nghệ thuật tinh luyện, biến hóa và làm tăng phẩm chất, chuyển hóa vật chất lên một cấp bậc cao hơn, một sự nâng cấp về chất. Lapis philosophorum[359], sản phẩm do lưu huỳnh và thủy ngân kết hợp thành, âm dương điều hòa, res bina[360], prima materia[361] lưỡng tính, thực ra đó chỉ là nguyên tắc nâng cấp không hơn không kém, một sự làm giàu vật chất nhờ các tác động bên ngoài - có thể gọi là môn khoa học ma thuật cũng được.”
Hans Castorp lặng thinh. Chàng hấp háy mắt ngước nhìn xéo lên trên.
“Một biểu tượng của sự biến hóa trong giả kim thuật”, Naphta tiếp tục, “là ngôi mộ.”
“Ngôi mộ?”
“Đúng thế. Đó là nơi vật chất phân rã. Đó là nơi đóng kín bằng dấu niêm phong của thần Hermes[362], không khác gì cái chai hay cái bình pha lê cổ cong trong phòng thí nghiệm, nơi vật chất bị đẩy vào quá trình biến đổi và tinh luyện cuối cùng.”
“‘Niêm phong’ là một từ rất hay, thưa ông Naphta. Hồi nào tới giờ tôi vẫn rất thích nghe cái từ này. Nó như một câu thần chú với những liên tưởng rộng rãi. Xin ông thứ lỗi, nhưng mỗi khi nghe cái từ đặc biệt ấy tôi lại nghĩ đến những cái bình thủy tinh nắp kín mà bà quản gia nhà chúng tôi ở Hamburg - bà ấy tên là Schalleen, chỉ đơn giản là Schalleen, không kèm theo ‘bà’ hay ‘cô’ gì hết - xếp lủ khủ thành dãy trên giá để thức ăn dự trữ dưới hầm. Những cái bình ấy được đóng kín, kín như hũ nút, có thể bảo là bị niêm phong cũng được, để bảo quản trái cây thịt thà và trăm thứ bà rằn khác nữa. Chúng cứ đứng đấy hết ngày này sang tháng khác, và một khi cái nắp được mở ra thì người ta thấy món đồ cất giữ bên trong vẫn còn tươi nguyên, không hề suy suyển sau bao nhiêu ngày tháng, và người ta có thể thưởng thức như mới vừa mua về vậy. Tất nhiên đấy không phải là thuật giả kim và quá trình nâng cấp, đấy chỉ là cái bình kín để bảo quản thực phẩm, một dạng đồ hộp. Nhưng phép màu ở đây là, những gì chứa trong lòng nó không chịu ảnh hưởng của thời gian, nó được niêm phong lại khiến thời gian trôi tuột qua mà không làm gì được nó, nó không có thời gian, nó đứng ngoài thời gian trên những cái giá ở dưới hầm nhà. Chà, tôi lại sa đà nói nhiều quá về những cái bình thủy tinh đựng đồ ăn rồi. Nó chẳng liên quan mấy tí đến đề tài của chúng ta. Xin ông thứ lỗi. Chắc ông còn muốn tiếp tục chỉ giáo thêm cho tôi nữa.”
“Trừ phi ông không muốn tiếp tục nghe. Kẻ đệ tử phải có lòng ham hiểu biết và đủ can đảm để nói theo phong cách đề tài tranh luận. Hầm mộ, nấm mồ luôn luôn là biểu tượng chính của nghi lễ gia nhập hội. Ai muốn nhập môn trở thành đệ tử để thỏa mãn lòng hiếu học thì phải chứng tỏ lòng dũng cảm của mình khi vượt qua những thử thách đáng sợ dưới đó, theo điều lệ của hội gã bị dẫn xuống hầm và phải ở dưới đó cho tới lúc được bàn tay huynh đệ của một người giấu mặt dắt trở lên. Thế nên mới có những lời đồn đại về những đường hầm lắt léo và những ngôi mộ vòm cuốn tối om om mà người bị thử thách phải đi qua, mới có tấm màn đen căng trong phòng khánh tiết của những hội quán Strict Observance, mới có tục sùng bái chiếc quan tài, tục lệ đóng một vai trò tối quan trọng trong nghi lễ kết nạp và hội họp. Con đường huyền bí và tinh luyện đầy rẫy hiểm nguy rình rập chạy qua nỗi khiếp sợ cái chết, qua vương quốc của sự thối rữa, và gã đệ tử, kẻ được làm lễ nhập môn, là tuổi trẻ khát khao những điều kỳ diệu của cuộc sống, có tham vọng đánh thức năng lực tâm linh để trải nghiệm những điều ma quái, được dẫn dắt bởi những hình hài che kín mặt như những cái bóng bí hiểm.”
“Rất cảm ơn ông, thưa giáo sư Naphta. Tuyệt lắm. Té ra khoa học thần bí là như vậy. Tôi thiết nghĩ được nghe đôi điều về nó chắc chẳng có hại gì.”
“Sao lại có hại, đó là chỉ dẫn đưa ta đến chỗ tối hậu, đến niềm tin tuyệt đối vào sự siêu nghiệm, cũng có nghĩa là đến đích. Vào những thập kỷ sau thuật giả kim trong các hội quán đẳng cấp cao đã đưa nhiều trí tuệ xuất sắc ham tìm tòi tới đích - chắc tôi không cần phải nêu tên, vì ông hẳn đã nhận thấy rằng những cấp bậc của Hệ thống đẳng cấp cao Scotland chỉ là sự bắt chước tôn ti trật tự của Strict Observance, rằng sự thông hiểu giả kim thuật của các bậc trưởng lão Tam Điểm đã đạt tới mức biến hóa huyền diệu, và rằng sự dẫn dắt bí mật mà hội quán ban cho đệ tử của mình có thể thấy rõ ràng trong các bí tích, cũng như những nghi lễ đầy hình ảnh ẩn dụ của hội là sự lặp lại các biểu tượng kiến trúc và cách cử hành thánh lễ của nhà thờ Công giáo.”
“Té ra là thế!”
“Xin lỗi ông, đấy chưa phải là tất cả. Tôi tự tiện lưu ý ông rằng, những biểu tượng của hội Tam Điểm bắt nguồn từ truyền thống phường thợ xây - một nghiệp đoàn khả kính - hoàn toàn mang tính chất lịch sử mà thôi. Chỉ có Strict Observance đem lại được cho hội một nền tảng sâu rộng và nhân đạo. Bí mật của hội cùng với những giáo lý huyền bí của nhà thờ có một mối liên quan không thể chối cãi với tập tục giữ bí mật và nghi lễ giao hoan của người nguyên thủy... Về phía nhà thờ tôi muốn nói đến nghi lễ nhận Thánh Thể và tiệc tình thương[363], bí tích tiếp nhận thân thể và huyết Chúa, còn về phía hội Tam Điểm...”
“Gượm đã. Xin ông gượm lại một phút cho tôi có một nhận xét bên lề. Trong nếp sinh hoạt của cái nghề cực đoan mà anh họ tôi theo đuổi cũng có hình thức tiệc tình thương. Anh ấy đã có lần viết thư kể cho tôi về những bữa tiệc ấy. Tất nhiên ngoài chuyện say sưa chút đỉnh thì những bữa tiệc ấy không có gì là tệ hại cả, mà họ cũng không đến nỗi say bí tỉ như thường thấy trong các quán rượu của hội sinh viên...”
“... Về phía hội Tam Điểm thì đó là sự sùng bái hầm mộ và quan tài mà tôi đã lưu ý ông lúc trước. Trong cả hai trường hợp điều này đều là biểu tượng của một cái gì đó tối hậu và cực đoan, là yếu tố cơ bản của tín ngưỡng nguyên thủy và hoang dại, là nghi lễ hiến dâng phóng đãng trong đêm đen để thờ phụng quá trình sinh và diệt trong thiên nhiên, cái chết, sự biến hóa và phục sinh... Hẳn ông còn nhớ, những huyền thoại về Isis[364] và Eleusis[365] đều tả những sự kiện diễn ra trong bóng tối dày đặc dưới hang động. Chà, có rất nhiều yếu tố Ai Cập cổ trong tinh thần hội Tam Điểm, và có kẻ, giữa các thành viên hội kín với nhau, tự xưng là người Eleusis. Có những hội quán Tam Điểm tổ chức các buổi lễ đặc biệt vinh danh huyền thoại Eleusis và các bí mật của ái tình, trong đó rốt cuộc người phụ nữ cũng được đóng một vai trò nhất định. Đó là lễ hội hoa hồng - ám chỉ ba bông hồng màu lam thêu trên cái yếm thợ nề - và nghe đâu những đêm hội ấy thường quá trớn trở thành những buổi tiệc tùng hoang dâm vô độ...”
“Ô kìa, tôi nghe có nhầm không đây, thưa giáo sư Naphta? Tất cả những cái ấy mà là Tam Điểm ư? Chẳng lẽ tôi phải điều chỉnh lại tất cả những hình dung của mình về ông bạn Settembrini trí tuệ minh mẫn...”
“Ông nghi oan cho ông ta rồi! Không, Settembrini rõ ràng chẳng biết gì về tất cả những điều đó. Tôi đã nói với ông ngay từ đầu rằng hội Tam Điểm đã bị những kẻ như ông ta tẩy rửa sạch trơn mọi yếu tố của đời sống tinh thần cao đấy thôi. Chúa ơi, họ đã văn minh hóa, hiện đại hóa hội của họ. Họ đã dẫn dắt nó ra khỏi con đường thần bí để biến nó thành một công cụ hữu ích, phục vụ trí tuệ và tiến bộ, chống lại vua chúa và giáo hội, tóm lại là hội Tam Điểm đã thoái hóa thành một tổ chức xã hội không hơn không kém. Giờ đây trong những phiên hội họp họ hăng say bàn luận về thiên nhiên, về đạo đức, về sự điều độ và về Tổ quốc. Tôi ngờ rằng cả về kinh doanh nữa. Nói ngắn gọn, nó chỉ còn là một trò hề tiểu tư sản dưới hình thức câu lạc bộ mà thôi.”
“Tiếc quá! Thật rất đáng tiếc vì ngày nay không còn những lễ hội hoa hồng nữa! Tôi nhất định phải hỏi ông Settembrini xem ông ta có biết tí gì về những nghi lễ này không.”
“Người hiệp sĩ chân chính với biểu tượng thước thợ!” Naphta nhạo báng. “Ông chớ nên quên rằng ông ta đã phải khó nhọc lắm mới len lỏi được vào hàng ngũ những kẻ xây dựng đền thờ nhân loại ấy. Ông ta nghèo rớt mùng tơi, trong khi những người gia nhập hội không phải chỉ cần có trình độ học vấn cao - một nền giáo dục nhân văn, theo cách nói của ông ta - mà còn phải thuộc về tầng lớp có của nữa, để có thể đóng góp những khoản lệ phí không nhỏ khi gia nhập hội hay trả tiền hội phí hằng năm. Học vấn và tài sản - không phải tiểu tư sản thì còn là gì nữa! Ông đã thấy chân móng cái thế giới cộng hòa tự do của họ chưa!”
“Rõ rồi”, Hans Castorp bật cười, “tôi thấy nó lù lù ngay trước mắt.”
“Tuy nhiên”, Naphta tiếp tục sau một lúc im lặng, “tôi muốn khuyên ông chớ nên coi nhẹ người đàn ông ấy và những việc làm của ông ta; nhân tiện chúng ta đang đề cập đến vấn đề này tôi khẩn khoản xin ông hãy hết sức thận trọng trong quan hệ với ông ta. Ngờ nghệch không đồng nghĩa với vô tư. Ngu ngốc chưa chắc đã là vô hại. Những người này đã pha thêm nhiều nước lã vào thứ rượu đã có thời bốc lửa của họ, nhưng nó vẫn còn mạnh lắm, đủ để chịu đựng thêm nhiều lần pha loãng nữa. Hội Tam Điểm giữ gìn di sản của một bí mật lớn, khó có thể nghi ngờ chuyện họ nhúng tay vào chính trường thế giới, cho nên khi tiếp xúc với ông Settembrini dễ mến ta phải thấy không chỉ cá nhân ông ta mà cả cái thế lực đứng đằng sau lưng ông ta, mà ông ta là đại diện và mật phái viên của họ...”
“Mật phái viên?”
“Vâng, một người dụ dỗ thành viên mới, một kẻ đi săn linh hồn.”
“Thế thì ngươi là mật phái viên của ai đây?” Hans Castorp nghĩ bụng. Ngoài miệng chàng chỉ nói:
“Cảm ơn ông, giáo sư Naphta. Tôi rất biết ơn ông vì lời khuyên nhủ và cảnh cáo vừa rồi. Ông biết sao không, giờ tôi muốn leo lên tầng trên - nếu như ta có thể gọi cái gác xép ấy là một tầng nhà - và thử nắn gân vị sư huynh Tam Điểm giấu mặt kia một chút. Một đệ tử phải ham hiểu biết và can đảm... Tất nhiên cả thận trọng nữa. Dây dưa với các mật phái viên dĩ nhiên phải rất cẩn thận đề phòng.”
Chàng có thể thoải mái hỏi han ông Settembrini để biết thêm về hội Tam Điểm mà không sợ ông ta trách móc ông Naphta về tội bép xép, vì thực tình ông ta chưa bao giờ tìm cách che giấu chuyện mình là thành viên cái hội kín hòa hảo này. Cuốn Rivista della Massoneria Italiana[366] công khai nằm chình ình trên bàn viết của ông ta, chỉ tại Hans Castorp chưa bao giờ để ý đến mà thôi. Sau khi được Naphta mở mắt cho chàng mới làm bộ tình cờ hỏi đến phường thợ vương giả[367] này, cứ như thể từ trước tới nay chàng vẫn biết tỏng sự gắn bó của ông Settembrini với họ, và cũng không gặp phải một chút ngần ngại nào từ phía ông kia. Đương nhiên cũng có những điểm, như bí mật về hình thức hoạt động bên ngoài của hội và vị trí cá nhân ông ta trong cái tổ chức bí mật này, ông văn sĩ không chịu tiết lộ, khi đụng chạm tới ông ta chỉ mím môi trưng ra một vẻ mặt kín như bưng, chắc hẳn bị ràng buộc bởi lời thề giữ im lặng mà Naphta đã đề cập tới. Ngoài những điều ấy ra thì ông ta rất sẵn sàng kể lể và phác ra trước mắt vị thính giả hiếu kỳ một bức tranh khá là gây ấn tượng về mạng lưới tổ chức rộng khắp của hiệp hội ông ta, với gần hai chục ngàn hội quán và một trăm năm chục đại hội quán trên toàn thế giới, vươn tới tận những nơi nền văn minh còn mới mẻ như Haiti hay nước cộng hòa da đen Liberia. Ông ta cũng không hà tiện với những tên tuổi lớn đã hoặc đang là hội viên Tam Điểm và kể ra nào là Voltaire, Lafayette và Napoleon, Franklin và Washington, Mazzini và Garibaldi, trong số những người còn tại thế thậm chí có cả vua nước Anh, ngoài ra là vô số nhân vật tai to mặt lớn nắm trong tay toàn bộ nền kinh tế Âu châu cũng như ngồi trong nội các và nghị viện của nhiều nước.
Hans Castorp ngỏ ý khâm phục nhưng không hề kinh ngạc. Ở hội cựu sinh viên cũng thế, chàng bảo. Họ duy trì một mối quan hệ gắn bó suốt cả đời và biết cách cài người của mình vào mọi vị trí then chốt, khiến cho một viên chức chính quyền nếu không phải thành viên của họ thì cũng khó lòng làm nên trò trống gì. Bởi vậy có lẽ nhận định này không trúng ý ông Setembrini, người muốn mượn tên những nhân vật nổi tiếng kia để quảng cáo cho hội của mình; mặt khác có thể suy luận ngược lại rằng, việc thành viên của hội chiếm được bấy nhiêu vị trí quan trọng chỉ chứng tỏ thế lực hùng mạnh của hội, và rằng hội chắc chắn có nhúng tay vào các hoạt động chính trị khắp thế giới, có lẽ sâu hơn là ông Settembrini muốn thú nhận cũng nên.
Settembrini mỉm cười. Ông ta thậm chí còn đưa cuốn tạp chí “Tam Điểm” trên tay lên phe phẩy quạt. Ông kỹ sư định đặt bẫy ông ta chăng? Ông người Ý hỏi. Có phải Hans Castorp muốn dụ ông ta đưa ra những phát biểu thiếu thận trọng về bản chất chính trị, chủ trương tinh thần cốt yếu của hội ông ta? “Ông đặt bẫy uổng công vô ích, ông kỹ sư! Chúng tôi hoạt động chính trị một cách công khai, tuyệt đối không có gì phải giấu giếm. Chúng tôi không đếm xỉa đến thái độ thù địch của một vài kẻ ngu xuẩn - đại đa số bọn họ ngồi ở đất nước ông đấy, ông kỹ sư, chứ không phải ở bất kỳ nơi nào khác. Người bác ái không công nhận sự khác biệt giữa chính trị và phi chính trị. Không có cái gì là phi chính trị. Tất cả đều là chính trị.”
“Tất cả?”
“Tôi biết có những người ưa lý luận rằng hội Tam Điểm khi thành lập có chủ trương phi chính trị. Nhưng những kẻ ấy chỉ tìm cách chơi chữ và đặt ra những ranh giới ảo tưởng và phi lý mà lẽ ra người ta phải nhận thấy từ lâu rồi mới đúng. Thứ nhất, những hội quán Tây Ban Nha ngay từ đầu đã nhuốm màu chính trị...”
“Tôi hoàn toàn có thể hiểu được điều đó.”
“Ông hiểu ít lắm, ông kỹ sư. Xin ông chớ có tưởng mình tư duy sâu sắc lắm, tốt hơn hết ông hãy cố gắng tiếp thu và ghi nhớ - tôi nói thế là vì lợi ích của bản thân ông, cũng như lợi ích của đất nước ông và của cả châu Âu, đó cũng là điều thứ hai mà tôi đang định bày tỏ với ông. Bởi vì, ý tưởng của hội Tam Điểm đúng ra chưa bao giờ phi chính trị cả, không một giây một phút nào, nó không thể phi chính trị được, và nếu như nó có lúc tin rằng mình phi chính trị thì đó là nó đã tự lừa dối chính mình. Chúng tôi là ai? Thợ xây và phụ hồ của một công trình xây dựng lớn. Tất cả chỉ có chung một mục tiêu, một điều tốt đẹp nhất trong tất cả, đó là xây đắp nền móng của tình hữu nghị. Vậy thì cái điều tốt đẹp đó là gì, công trình xây dựng ấy là gì? Tổ chức xã hội ưu việt, sự hoàn thiện nhân loại, Jerusalem mới. Vậy thì nó là chính trị hay phi chính trị đây? Vấn đề cộng đồng, vấn đề của sự cùng tồn tại của nhiều cá thể bản thân nó đã là chính trị, chính trị từ đầu tới chân, không gì khác ngoài chính trị. Người nào xả thân vì mục tiêu này - và ai lẩn tránh trách nhiệm thì không đáng mang danh con người - người ấy thuộc về chính trị, nội vụ cũng như ngoại vụ, người ấy hiểu rằng, nghệ thuật của hội Tam Điểm là nghệ thuật cai trị...”
“Cai trị...”
“... và rằng, Tam Điểm - Illuminati rất có trình độ cầm quyền...”
“Tuyệt lắm, ông Settembrini. Nghệ thuật cai trị, trình độ cầm quyền, những cái ấy rất thú vị đối với tôi. Chỉ xin ông cho tôi biết một điều: các ông có phải là người Thiên Chúa giáo không, các hội viên Tam Điểm ấy?”
“Perchè!”[368]
“Xin lỗi ông, tôi sẽ đặt câu hỏi khác đi một chút, tổng quát hơn và dễ hiểu hơn. Các ông có tin vào Chúa không?”
“Tôi sẽ trả lời ông. Nhưng tại sao ông lại hỏi thế?”
“Không phải tôi muốn thử ông, nhưng mà trong Kinh Thánh có chuyện người ta thử Chúa bằng một đồng tiền La Mã và nhận được câu trả lời, cái gì của Hoàng đế phải trả cho Hoàng đế và cái gì của Chúa phải trả cho Chúa[369]. Tôi có cảm tưởng, cách phân biệt ấy là sự phân biệt giữa chính trị và phi chính trị. Nếu có Chúa thì phải có sự phân biệt này. Những người Tam Điểm các ông có tin vào Chúa không?”
“Tôi tự đặt ra cho mình nghĩa vụ giải đáp thắc mắc cho ông. Ông nói về một tổ chức thống nhất trên phạm vi toàn thế giới vẫn còn đang ở trong giai đoạn hình thành, rất tiếc tổ chức ấy chưa tồn tại. Chưa có hiệp hội Tam Điểm quốc tế. Nhưng đến lúc nó thành hình - tôi xin nhắc lại, công trình vĩ đại này đang được âm thầm xây dựng bằng những bàn tay hăng hái cần cù - thì không còn nghi ngờ gì nữa, nó sẽ có một tín ngưỡng thống nhất, đó là: ‘Écrasez l’infâme’[370].”
“Thế có cực đoan quá không? Theo tôi như vậy là thiếu ôn hòa.”
“Tôi sợ rằng ông chưa đủ sức để bàn về vấn đề ôn hòa, ông kỹ sư. Ông hãy ghi nhớ điều này, ôn hòa với cái ác sẽ thành có tội.”
“Chúa là cái ác hay sao?”
“Siêu hình là cái ác. Vì nó không có ích lợi gì cả, ngoài việc ru ngủ sự cần cù chăm chỉ vô cùng cần thiết cho công cuộc xây dựng ngôi đền xã hội. Trước đây một thế hệ đại hội quán Tam Điểm ở Pháp đã nêu một tấm gương sáng bằng cách gạch bỏ tên Chúa khỏi toàn bộ giấy tờ văn bản của mình. Người Ý chúng tôi noi theo gương ấy...”
“Ngoan đạo thế!”
“Ông nói sao...”
“Tôi muốn nói rằng xóa bỏ tên Chúa thì thật là ngoan đạo quá!”
“Ý ông muốn ám chỉ...”
“Không có gì đáng nghe đâu, thưa ông Settembrini. Xin ông đừng để tâm đến những lời nói hồ đồ của tôi! Chỉ có điều lúc này tôi bỗng có cảm giác rằng, vô thần là một cái gì đó rất Công giáo và người ta chỉ cần chối bỏ Chúa là có thể trở thành người Công giáo ngoan đạo.”
Nếu như sau đó ông Settembrini lặng đi một lúc không nói năng gì thì rõ ràng chỉ vì lý do sư phạm. Sau một quãng ngừng vừa đủ độ ông ta trả lời:
“Ông kỹ sư, tôi không bao giờ muốn xúc phạm niềm tin Kháng Cách trong ông hay làm ông phật ý. Chúng ta vừa nói đến vấn đề ôn hòa... Tôi sợ sẽ rườm lời nếu một lần nữa nhấn mạnh rằng, đối với tôi đạo Tin Lành còn hơn cả hiện thân của tinh thần ôn hòa, tôi thành thật ngưỡng mộ vai trò lịch sử của nó, thành phần đối lập chống lại sự áp bức đè nén lương tâm. Phát minh công nghệ in sách và cuộc cải cách tôn giáo là hai thành tựu vĩ đại nhất Trung Âu hiến dâng cho nhân loại. Không ai có thể nghi ngờ điều đó. Căn cứ vào những lời phát biểu của ông tôi tin rằng ông sẽ hiểu đúng tôi, nếu tôi nói với ông rằng, những công trạng ấy mới chỉ là một mặt của vấn đề thôi, và rằng còn một mặt trái nữa. Phong trào Kháng Cách ẩn chứa những yếu tố nhất định... Trong chính nhân cách con người đề xướng ra phong trào cải cách tôn giáo ẩn chứa những yếu tố nhất định. Tôi nghĩ đến những yếu tố tĩnh lặng về tinh thần, sự chìm đắm thôi miên không có chút gì tính cách Âu châu, những yếu tố xa lạ và thù địch với quy luật sống trên lục địa hành động của chúng ta. Ông hãy nhìn kỹ cái ông Luther[371] ấy mà xem! Hãy quan sát đường nét trên những bức chân dung khi ông ta còn trẻ và lúc về già! Hình dáng đầu, hai bên gò má cao, và cả vị trí lạ lùng của đôi mắt nữa! Bạn ơi, đấy là những nét Á châu! Tôi sẽ đi đầu xuống đất nếu trong đó không mang những yếu tố của các chủng tộc Wends-Slavs-Sarmatians[372]. Và nếu như dung mạo hùng hổ - ai dám chối cãi điều này - của người đàn ông ấy không gây ra sự quá tải tai hại ở một trong hai bên cái cán cân tinh thần đang trong trạng thái thăng bằng hết sức bấp bênh ở nước ông khi ấy, một sức nặng khủng khiếp đè xuống đĩa cân phương Đông khiến đĩa cân phương Tây cho tới ngày nay vẫn còn chổng ngược lên trời...”
Ông Settembrini sải bước từ chỗ cái bục viết văn bên ô cửa sổ tí xíu nơi ông ta đang đứng về phía cái bàn tròn với chai nước để trên, lại gần tên đệ tử ngồi trên chiếc đi văng kê sát tường, cùi chỏ chống lên đầu gối, một tay đỡ lấy cằm.
“Caro!” Ông Settembrini bảo. “Caro amico[373]! Cần đi đến quyết định, những quyết định có tầm quan trọng không thể coi thường đối với hạnh phúc và tương lai của châu Âu, và đất nước ông sẽ được trao cho trách nhiệm trọng đại ấy, các quyết định sẽ phải chín muồi trong linh hồn xứ sở ông. Nằm ở vị trí giữa Đông và Tây, đất nước ông sẽ phải lựa chọn, sẽ phải quyết định một cách dứt khoát và có ý thức để theo hẳn một trong hai bên đang ra sức ve vãn nó. Ông còn trẻ, ông sẽ được tham dự vào quyết định này, sứ mệnh của ông là phải tác động đến quá trình ấy. Vậy nên chúng ta hãy cảm ơn số phận đã đưa đẩy ông đến vùng đất chết tiệt này, đồng thời cho tôi cơ hội sử dụng miệng lưỡi không phải là không điêu luyện, không đến nỗi hoàn toàn bất lực của mình để tác động vào tâm hồn trẻ trung hiếu học của ông và giúp ông nhận thức được trách nhiệm nặng nề đất nước ông phải gánh vác vì nền văn minh nhân loại...”
Hans Castorp ngồi tựa cằm vào nắm tay. Chàng ngước nhìn qua ô cửa sổ sát mái ra khoảng không gian bên ngoài, trong đôi mắt xanh chân phương lóe lên một tia chống đối. Chàng im lặng.
“Ông không nói gì”, giọng ông Settembrini chùng xuống tha thiết. “Ông và đất nước ông giữ thái độ im lặng tuyệt đối, kín như bưng, không cho phép người ta dò xét nông sâu. Ông ác cảm với lời nói hay ông không làm chủ ngôn từ hay ông đứng từ xa tôn thờ chúng - thế giới hữu âm không biết và không thể dò được ý ông. Bạn ơi, thái độ ấy nguy hiểm lắm. Ngôn ngữ chính là văn minh. Lời nói, thậm chí lời phản kháng gay gắt nhất cũng vẫn cứ là liên hệ. Còn im lặng là cô lập. Có thể đoán rằng ông sẽ tìm cách phá vỡ sự cô lập của mình bằng hành động. Ông để cho ông anh họ Giacomo”, ông Settembrini hay thuận miệng dịch tên Joachim ra tiếng Ý là ‘Giacomo’, “ông để cho ông anh họ Giacomo đi trước sự im lặng khó lường của mình, ‘và một đòn tiêu diệt hai tên, chàng ra tay, những tên khác xa chạy cao bay’[374]...”
Hans Castorp bật cười, và ông Settembrini cũng mủm mỉm, dừng lời giây lát để thưởng thức hiệu quả ngôn từ giàu hình tượng của mình.
“Phải đấy, chúng ta cứ cười đi!” Ông ta bảo. “Ông sẽ thấy tôi lúc nào cũng yêu đời. ‘Nụ cười là ánh sáng của linh hồn’, người xưa bảo thế. Nhưng chúng ta đi lạc đề mất rồi, nếu tôi không nhầm thì chúng ta đang bàn về các khó khăn sẽ gặp phải trong công cuộc chuẩn bị mở mang hội Tam Điểm ra phạm vi toàn thế giới, cụ thể là những khó khăn khi phải đối đầu với châu Âu theo Kháng Cách giáo...” Và ông Settembrini tăng tăng nói tiếp, cảm thấy thực sự ấm lòng với ý tưởng về một hiệp hội thống nhất toàn cầu, được khai sinh ở Hungary, nhắm tới mục tiêu mong đợi là đạt được một sức mạnh chính trị có tính chất quyết định trên trường quốc tế. Nhân đó ông ta cho chàng xem những thư từ trao đổi của mình với các nhân vật quan trọng của các hội quán nước ngoài, trong đó có một lá thư do chính tay vị đại giáo chủ Thụy Sĩ viết, sư huynh Quartier la Tente[375] đứng hàng thứ ba mươi ba; và trình bày kế hoạch biến ngôn ngữ quy ước Esperanto[376] thành ngôn ngữ giao tiếp quốc tế chính của hội. Sự hăng hái gia tăng đẩy ông ta lên những tầm cao chính trị mới, ông ta hướng cái nhìn phân tích nhắm vào chỗ này chỗ kia và đưa ra những đánh giá về triển vọng ý tưởng cách mạng-cộng hòa của hội ở quê hương ông ta, ở Tây Ban Nha, ở Bồ Đào Nha. Có vẻ như ông ta có liên lạc thư từ với cả những người đứng đầu các đại hội quán ở vương quốc Bồ Đào Nha. Không còn nghi ngờ gì nữa, ở đó các quyết định đang chín muồi. Hans Castorp hãy nghĩ tới ông ta khi mà, không lâu la gì nữa đâu, ở dưới kia các sự kiện dồn dập xảy ra. Hans Castorp hứa sẽ làm thế.
Ở đây phải mở ngoặc để nhận xét rằng, những cuộc luận bàn về chủ đề Tam Điểm giữa tên đệ tử lần lượt với từng vị sư phụ đã diễn ra từ trước khi Joachim về lại cố hương. Còn trận đấu khẩu mà chúng ta sẽ theo dõi dưới đây xảy ra với sự có mặt của chàng trong thời gian tái lưu trú ở trên này, chín tuần sau khi chàng quay trở lại, vào đầu tháng mười. Hans Castorp còn nhớ như in cuộc gặp gỡ trong ánh nắng thu ấy, bên ly nước giải khát ở khu giải trí dưới ‘Phố’, bởi đấy là lần đầu tiên trong chàng dấy lên một mối lo thầm kín về Joachim - lý do là những biểu hiện đúng ra không có gì đáng lo ngại ở người anh, chỉ là đau họng và khản tiếng, tức là những triệu chứng cảm cúm vặt vãnh có vẻ như vô hại, nhưng đối với con mắt non trẻ của Hans Castorp, không hiểu sao những triệu chứng ấy lại như hiện ra trong một ánh sáng khác lạ - có thể bảo rằng, đó cũng chính là ánh sáng chàng cảm nhận được dưới đáy sâu đôi mắt Joachim, đôi mắt hiền hậu thường ngày đã to nhưng hôm nay, chính xác là từ ngày hôm nay, bỗng dường như to hơn và sâu hơn, mang một ấn tượng đầy suy tư và có thể bảo là hăm dọa, cùng với cái ánh sáng lạ lùng nói trên âm thầm tỏa ra từ bên trong. Sẽ không đúng nếu bảo rằng Hans Castorp không ưa ánh sáng ấy - ngược lại là đằng khác, chàng thậm chí rất thích nó, chỉ có điều không hiểu vì sao nó làm chàng lo lắng. Nói tóm lại, ấn tượng của chàng nếu tả đúng tính chất của nó thì không gì khác hơn một nỗi hoang mang mơ hồ.
Cuộc đàm thoại và tranh luận - tất nhiên là tranh luận giữa Naphta và Settembrini - mà chúng tôi sắp đề cập ở đây lại là chuyện khác và chẳng mấy liên quan tới những điều vừa nói về hội Tam Điểm. Ngoài hai anh em họ ra còn cả Ferge và Wehsal cũng có mặt, và tất cả đều bị cuốn hút vào cuộc tranh cãi mặc dù không phải ai cũng hiểu đối tượng họ lôi ra tranh cãi - ông Ferge thậm chí còn thẳng thắn công khai thú nhận điều này. Một cuộc tranh cãi kịch liệt cứ như về cái sống hay cái chết, nhưng lại thông minh dí dỏm như thể không phải chuyện sống chết mà chỉ là một cuộc đua tài ngoạn mục - thực ra tất cả các cuộc tranh luận giữa Settembrini và Naphta đều diễn ra như thế - một cuộc tranh cãi kiểu ấy dĩ nhiên là có sức hấp dẫn rất cao, cả đối với những người chẳng hiểu mấy tí nội dung và chỉ mường tượng một cách mơ hồ ý nghĩa của nó. Thậm chí cả những người lạ ngồi quanh đấy cũng tò mò nhướng mày theo dõi cuộc đấu khẩu, hoàn toàn bị cuốn hút bởi niềm say mê và vẻ tao nhã của hai đối thủ.
Như đã nói, họ ngồi ở mặt trước khu giải trí, sau bữa trà chiều. Bốn người khách ‘Sơn trang’ gặp Settembrini ở đó, và Naphta chẳng mấy chốc cũng tới nhập bọn. Họ ngồi quây quần quanh một chiếc bàn kim loại nhỏ với những ly nước giải khát pha sô đa có vị hồi hay vị ngải cứu. Naphta, người thường xuyên ăn bữa lót dạ buổi chiều ở đây, gọi rượu và bánh ngọt, rõ ràng với mục đích làm sống lại ký ức thời còn là chủng sinh nội trú; Joachim thấm ướt cuống họng rát bỏng của mình bằng nước chanh tươi, chua lè pha rất ít nước, nó giúp cổ họng chàng thít lại đỡ đau; còn Settembrini uống nước đường qua một cái ống hút, và duyên dáng nhấm nháp thứ đồ uống đơn bạc ấy với vẻ ngon miệng như thể đang thưởng thức rượu tiên. Ông ta cất giọng bông đùa:
“Ông kỹ sư, tôi mới nghe được gì đây? Tin nhạn nào mới vừa bay tới tai tôi? Nàng Beatrice của ông sắp trở về! Người dẫn đường đưa ông qua chín tầng trời về lại chốn này! Tôi hy vọng ông sẽ không vì thế mà quay lưng lại với bàn tay bè bạn của Virgil[377]! Linh mục của chúng ta đây hẳn sẽ ra sức thuyết phục ông rằng, thế giới thời medio evo[378] sẽ không trọn vẹn nếu thần bí học của dòng tu Franciscan[379] thiếu mất đối cực là tư tưởng của Thomas Aquinas.”
Mọi người phá lên cười trước bấy nhiêu thông thái và hóm hỉnh, và đổ dồn mắt sang nhìn Hans Castorp. Chàng cũng cười và nâng ly nước ngải cứu lên chúc tụng “Virgil” của mình. Không ai có thể ngờ rằng những lời bóng gió rất vô hại của ông Settembrini lại thổi bùng lên một cuộc khẩu chiến khốc liệt kéo dài tới mấy giờ đồng hồ. Bởi Naphta, cảm thấy bị chạm nọc, lập tức ra đòn tấn công bằng cách chê bai dè bỉu Virgil. Ở đây ai cũng biết Settembrini tôn thờ thi sĩ cổ La Mã này hơn cả Homer, còn Naphta đã hơn một lần ra mặt khinh bỉ ông ta và cả nghệ thuật thơ phú Latinh nói chung - và ông “linh mục” chộp ngay lấy cơ hội này để bày tỏ quan điểm của mình một cách cay độc nhất. Đại thi hào Dante, ông ta bảo, đã quá hào phóng khi sử dụng thời gian của mình vào việc ca tụng tác giả mấy vần thơ con cóc kia và dành cho ông ta một vai trò cao cả nhường ấy trong trường ca của mình, dù rằng ông Lodovico có vẻ muốn gán ghép cho vai trò này ý nghĩa Tam Điểm. Thử hỏi y mang lại được cái gì, những vần thơ bợ đỡ và liếm gót nhà Julius[380], thứ văn chương phố chợ, nghệ thuật hùng biện sáo rỗng không có lấy một đốm sáng tạo của một linh hồn hạng hai - đấy là nếu y có một linh hồn - và nói chung y chẳng phải thi sĩ gì ráo mà chỉ là một thằng cha người Pháp đội tóc giả Augustus[381] xoăn tít mà thôi!
Ông Settembrini không hề nghi ngờ rằng người vừa phát biểu rất biết cách dung hòa sự khinh miệt nền văn minh cổ La Mã với địa vị giảng viên tiếng Latinh của mình. Tuy nhiên ông ta cảm thấy cần lưu ý ông giáo sư trung học về mâu thuẫn trầm trọng mà ông ta mắc phải khi đưa ra những đánh giá kiểu ấy về giai đoạn lịch sử ưa thích của ông ta, thời đại chẳng những không hề khinh thị Virgil mà còn ngây thơ đề cao vai trò của thi hào này bằng cách biến ông ta thành một thuật sĩ hùng mạnh và thông thái.
Ông Settembrini chỉ uổng công viện dẫn sự ngây ngô của thời đại hoang sơ ấy, Naphta đập lại, nó là người chiến thắng, vì nó chứng tỏ sức mạnh sáng tạo của mình ngay khi bóng đêm ma quỷ còn ngự trị. Phải biết rằng những người sáng lập nhà thờ còn non trẻ thời ấy đã không mệt mỏi cảnh báo mọi người chớ để tai nghe những lời dối trá của các triết gia và thi sĩ, đặc biệt nên dè chừng tài hùng biện ghê gớm của Virgil; và ngày nay, khi một thời đại lại sắp sửa xuống mồ, khi bình minh vô sản đang rạng lên ở chân trời, thì đây chính là thời điểm thuận lợi nhất để bày tỏ đồng tình với họ! Vậy cho nên, để trả lời tất cả những lời buộc tội kia, xin ông Lodovico cứ tin tưởng rằng người nói đây hành cái nghề mọn ngoài đời - được ông có lòng tốt nhắc tới - với tinh thần reservatio mentalis[382] và tâm trạng không phải không vương chút mỉa mai khi khép mình vào hệ thống giáo dục theo trường phái cổ điển mà sự tồn tại của nó một người lạc quan cũng chỉ có thể ước chừng trong khoảng vài chục năm nữa mà thôi.
“Nhưng các người đã đổ mồ hôi miệt mài học hỏi những thi sĩ và triết gia cổ đại ấy”, ông Settembrini phẫn nộ kêu lên, “các người đã ra sức chiếm hữu di sản tinh thần quý báu của họ, đã dỡ gạch ngói từ những công trình kiến trúc cổ để xây lên nhà cầu nguyện của các người. Bởi các người cảm nhận được rằng, nếu chỉ bằng sức lực từ linh hồn vô sản của mình, các người chẳng thể cho ra đời một hình thức nghệ thuật nào, và hy vọng bằng cách ấy các người có thể hủy diệt văn hóa cổ đại bằng chính sức mạnh của nó. Sự thể là như thế, và lịch sử sẽ còn lặp lại! Buổi bình minh ấu trĩ của các người sẽ còn phải mài đũng quần trên ghế nhà trường với những gì mà các người buông lời miệt thị; bởi không có học vấn các người sẽ chẳng đứng vững được trước nhân loại, và trên đời này chỉ có một nền học vấn mà thôi: đó là cái mà các người gọi là tiểu tư sản, nhưng trên thực tế đó là nhân văn!” Nguyên tắc giáo dục theo chủ nghĩa nhân văn mà là chuyện vài chục năm nữa thôi? Chỉ vì lịch sự mà ông Settembrini không lăn ra cười một cách vô tư và châm biếm. Một châu Âu biết bảo tồn giá trị vĩnh cửu của mình sẽ thừa khả năng vượt qua mọi ngày tận thế trong mơ của một số người nào đó để bình tâm trở về với trật tự ngày thường theo tư tưởng cổ điển.
Có vẻ như ông Settembrini không được học đến nơi đến chốn về trật tự ngày thường, Naphta cay độc. Chính trong trật tự ngày thường lại nổi bật lên câu hỏi mà ông văn sĩ rất thích bận tâm: đó là, liệu cái huyền thoại Địa Trung Hải-cổ điển-nhân đạo của ông ta có phải là một vấn đề của nhân loại và do đó có mang tính nhân văn-vĩnh cửu không, hay nó chỉ là sản phẩm tinh thần và là món phụ tùng của một thời đại, thời đại tiểu tư sản-tự do, và sẽ chết đi cùng với thời đại ấy. Lịch sử sẽ quyết định điều này, chỉ xin ông Settembrini chớ có yên trí rằng quyết định ấy sẽ đi theo chiều hướng tinh thần La Mã bảo thủ của ông ta.
Ông Naphta bé nhỏ tỏ ra đặc biệt tráo trở khi gọi ông Settembrini, một tín đồ công khai và trung thành của tiến bộ, là bảo thủ. Tất cả đều cảm thấy bất mãn, nhưng tất nhiên căm tức nhất vẫn là đương sự, ông ta thẳng tay vân vê bộ ria cong vút và cố công moi óc tìm lời đập lại cho xứng đáng, trong lúc ấy kẻ thù của ông vẫn không ngừng công kích lý tưởng sư phạm cổ điển, hệ thống giáo dục và đào tạo theo tinh thần văn học-hùng biện ở châu Âu cũng như cái tật giáo điều-hình thức chủ nghĩa của nó, một kiểu phô trương quyền lợi của tầng lớp thống trị chỉ đáng làm trò cười cho quần chúng nhân dân. Phải, họ đâu có biết dân chúng sáng tác ra bao nhiêu chuyện tiếu lâm về danh hiệu tiến sĩ và kính thưa các loại bằng cấp lằng nhằng khác của chúng ta, về hệ thống trường phổ thông, công cụ trong tay giai cấp tư sản thống trị với mục tiêu hoang tưởng coi giáo dục phổ thông là hình thức dung tục hóa của khoa học kinh điển. Những kiến thức cần thiết cho cuộc đấu tranh chống lại thế giới tư bản dân chúng đã biết thu lượm ở nơi khác từ lâu chứ không phải đợi các cơ sở giáo dục cưỡng bức của chính quyền cung cấp, và ai cũng biết tỏng ra rằng hệ thống trường phổ thông của chúng ta, vốn có tiền thân là các trường dòng thời Trung cổ, chỉ giảng dạy những điều hủ lậu lỗi thời, đến nỗi trên đời này chẳng còn ai học hỏi được cái gì hữu ích ở trường, và rằng phương pháp giảng dạy tự do không bài bản thông qua các hình thức thuyết trình công cộng, triển lãm, chiếu phim vân vân sẽ mang lại hiệu quả cao hơn giáo dục học đường rất nhiều.
Trong cái món giáo dục hổ lốn gồm cách mạng và ngu dân mà ông Naphta dọn ra đãi các thính giả, ông Settembrini trả đũa, thành phần ngu dân chiếm một tỉ lệ áp đảo đến không thể tiêu hóa được. Thiện chí được khơi dậy bởi mối lo cho dân trí của ông Naphta chưa tồn tại bao lâu đã bị hao hụt đi đáng kể vì nghi vấn, động cơ đích thực của ông ta có lẽ là nguyện vọng bản năng muốn đẩy con người và cả thế giới vào tình trạng mù chữ tối tăm.
Naphta cười khẩy. Mù chữ! Ông Settembrini cứ tưởng phun ra một từ kinh hoàng lắm, như cái đầu mụ phù thủy Gorgo[383], chắc mẩm rằng ai nghe thấy cũng phải tái mặt đi. Ông ta, Naphta, rất tiếc phải làm người đối thoại với mình thất vọng, nhưng nỗi khiếp đảm của ông văn sĩ trước nạn mù chữ chỉ làm ông ta thấy tức cười. Phải là một văn sĩ thời Phục hưng, một précieux[384], một seicentist[385], một Marinist[386], một kẻ khờ khạo của trường phái estilo culto[387] mới có thể gán cho kỹ năng đọc và viết một ý nghĩa giáo dục hàng đầu như thế, đến nỗi người ta tưởng đâu nếu thiếu hai thứ ấy thì chỉ có đêm đen tinh thần ngự trị. Không biết ông Settembrini có nhớ rằng, thi hào lớn nhất thời Trung cổ, Wolfram von Eschenbach[388], thuở sinh thời cũng mù chữ? Hồi đó ở Đức cho một thằng bé đến trường học vẫn bị coi là điều nhục nhã, trừ khi đứa trẻ ấy dự định trở thành linh mục; và sự khinh thường phổ biến cả trong giới quý tộc lẫn giới bình dân đối với nghệ thuật văn chương vẫn luôn là biểu hiện của bản chất cao quý - còn các nhà văn, con đẻ của chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần tiểu tư sản, mặc dù đọc thông viết thạo (những kỹ năng này quý tộc, chiến binh và dân đen không biết hoặc chỉ biết rất ít), nhưng ngoài hai điều ấy ra họ tuyệt nhiên không làm được trò trống gì khác ở đời, cả ngày họ chỉ lo chém gió bằng tiếng Latinh và lo nói còn việc làm thì để cho những người khác lo. Hậu quả là chính trị cũng bị họ biến thành trò chém gió, tức là chỉ có nói chứ không có làm, mặc dù cũng chia thành phe hùng biện và văn vẻ, mà giữa các đảng phái với nhau họ gọi là cực đoan và dân chủ - vân vân và vân vân.
Ông Settembrini cũng không chịu kém! Đối thủ của ông, ông ta kêu lên, đã để lộ ra bộ mặt thật khi bày tỏ cảm tình với thói man rợ của một thời đại nhất định và nhạo báng tình yêu văn học nghệ thuật mà thiếu nó thì không thể có và không thể nghĩ đến nhân tính, không và một ngàn lần không! Cao quý ư? Chỉ những ai thù địch với nhân loại mới có thể tặng danh hiệu này cho sự im lặng vô ngôn, cho vật chất câm nín và thô lậu. Cao quý phải là một giá trị cao cả xa hoa, là generosità[389] tự bộc lộ mình trong sự vật và mang lại cho hình thức một giá trị nhân bản không phụ thuộc vào nội dung, là sự đề cao hùng biện như một nghệ thuật vị nghệ thuật, là di sản của nền văn minh Hy-La mà con người nhân văn, uomini letterati[390] đóng góp qua từng thời đại, chí ít là các dân tộc gốc Latinh, và là nguồn gốc của mọi tư tưởng có ý nghĩa sau này, kể cả chính trị. “Đúng thế, thưa ông! Cái mà ông định vu khống là sự chia rẽ giữa hùng biện và cuộc sống kỳ thực không gì khác hơn sự thống nhất viên mãn của cái đẹp, và tôi không việc gì phải lo lắng về chuyện tuổi trẻ tài cao sẽ chọn bên nào trong cuộc tranh cãi giữa văn hóa và man rợ này.”
Hans Castorp chỉ dành nửa tai nghe họ tranh luận, vì còn mải bận tâm với hiện thân của người chiến binh và bản chất cao quý bằng xương bằng thịt bên cạnh chàng, hay nói đúng hơn là bận tâm với ánh sáng lạ lùng mới xuất hiện trong mắt anh ấy, chàng giật mình khi nghe mấy lời cuối ông Settembrini hướng về phía mình, nhưng chàng chỉ làm mặt giống như hồi ấy, khi Settembrini trịnh trọng ép chàng phải có một quyết định giữa “Đông và Tây”: một bộ mặt bướng bỉnh kín như bưng, và im lặng. Cái gì họ cũng bẻ bai bẻ họe ra được, hai người đàn ông bất trị này, như lẽ thường phải thế khi người ta muốn tranh luận, và cay đắng ăn miếng trả miếng nhau đến cùng, trong khi Hans Castorp cảm thấy ở đâu đó giữa các quan điểm cực đoan của hai đối thủ, giữa chủ nghĩa nhân văn hùng biện và tình trạng mù chữ man rợ, thế nào cũng phải có điều gì được người ta cảm nhận tự đáy lòng là nhân bản và phù hợp với bản thân mình chứ. Nhưng chàng ngậm miệng làm thinh, tránh không chọc vào hai cái tổ kiến lửa kia và, náu mình trong sự im lặng kín đáo, chàng nhìn họ tiếp tục sa đà vào chi tiết và vô tình tiếp tay cho nhau trong sự thù địch, đi từ phần trăm đến phần nghìn, tất cả chỉ vì câu đùa vô hại của Settembrini về thi sĩ La Mã Virgil.
Ông ta không chịu từ bỏ ngôn từ, ông ta vung cao nó, biến nó thành người chiến thắng. Ông ta lăn xả vào vòng đấu bảo vệ cho vị thần văn học, ca ngợi lịch sử hình thành chữ viết từ thuở sơ khai, khi người đầu tiên nhất nảy ra ý định vạch dấu vào đá để lưu lại kiến thức và cảm xúc của mình. Ông ta nói về thần Thoth của người Ai Cập, đồng nhất với thần Hermes ba lần vĩ đại[391] của người Hy Lạp, được tôn thờ là vị thần sáng tạo ra chữ viết, bảo trợ cho thư viện và khuyến khích mọi nỗ lực trí tuệ. Ông ta quỳ gối trong tư tưởng trước vị thần ba lần vĩ đại này, Hermes, vị thần nhân văn, người thầy cai quản Palaestra[392], người tặng cho nhân loại món quà cao quý văn chương, cha đẻ của các cuộc thi tài hùng biện - chi tiết này khiến Hans Castorp vọt miệng nhận xét: thế thì nhân vật gốc gác Ai Cập đó chắc phải là một chính trị gia và về cơ bản cũng giữ một vai trò giống như ông Brunetto Latini, người dạy dân chúng xứ Florence cách cư xử thanh lịch, cách nói năng đúng mực và nghệ thuật lèo lái xứ cộng hòa của họ theo các nguyên tắc chính trị - và được Naphta dạy khôn rằng, ông Settembrini đã hơi gian lận khi vẽ ra cho chàng một bức tranh quá sáng sủa về Thoth-Trismegistos. Bởi nhân vật này đúng ra là vị thần của loài khỉ, của mặt trăng và linh hồn người chết, một con khỉ độc với vầng trăng lưỡi liềm trên đầu, khi đổi tên thành Hermes thì chủ yếu chịu trách nhiệm về cái chết và người chết, trở thành kẻ cưỡng đoạt linh hồn và dẫn dắt linh hồn xuống âm phủ, đến cuối thời cổ đại trở thành một đại pháp sư và sang đến thời Trung cổ huyền bí thì được coi là cha đẻ của giả kim thuật.
Cái gì, cái gì? Trong suy nghĩ và trí tưởng tượng ngổn ngang của Hans Castorp tất cả bị đảo lộn tùng phèo. Này đây thần chết trong tấm áo choàng xanh như một nhà hùng biện nhân văn; nhưng khi người ta nhìn kỹ lại vị thần văn học và bạn tốt của con người thì bỗng thấy một con khỉ mang trên trán dấu hiệu đêm tối và ma thuật ngồi chồm chỗm... Chàng xua tay chống lại hình ảnh hãi hùng ấy và che lấy mắt. Nhưng trong bóng tối mà chàng tìm vào để trốn tránh sự hỗn loạn vang lên tiếng nói của Settembrini, người tiếp tục biểu dương văn học. Không chỉ trong huyền thoại, ông ta kêu lên, mà cả những vĩ nhân ngoài đời ở mọi thời đại đều có mối liên hệ với văn học; và ông ta kể ra Alexander[393], Caesar, Napoleon[394], gộp cả vào đó vua Phổ Friedrich[395] và những anh hùng khác, thậm chí cả Lassalle[396] và Moltke[397]. Ông ta chẳng hề bối rối khi Naphta muốn đẩy ông ta sang tận Trung Hoa, nơi có sự tôn thờ kỳ quái nhất trần đời dành cho chữ cái, ai vẽ được tất cả bốn chục ngàn ký tự là đã có thể trở thành nguyên soái, một luật lệ đúng ra rất vừa ý kẻ nhân văn mới phải. Ây dà, Naphta thừa biết đây không chỉ đơn thuần là chuyện vẽ chữ, mà là văn chương, nguồn động lực của nhân loại, là tinh thần, mà bản thân nó là sự màu nhiệm của kết hợp giữa phân tích và hình thức, thưa danh hài giễu dở! Tinh thần cũng chính là yếu tố thức tỉnh sự cảm thông với tất cả những gì mang tính người, giảm nhẹ và xóa bỏ các thành kiến dốt nát, củng cố niềm tin, trau dồi đạo đức, giúp loài người ngày càng cao đẹp và hoàn thiện hơn. Đồng thời với việc nâng cao sự tinh tế và nhạy cảm về mặt tinh thần, tuyệt nhiên không có chút gì là cuồng tín, con người được giáo dục cách hoài nghi, tính công bằng, lòng độ lượng. Văn học có tác dụng tẩy rửa, chữa trị, hủy diệt ham muốn thông qua nhận thức và ngôn ngữ, văn học là con đường dẫn tới hiểu biết, tha thứ và yêu thương, sức mạnh giải thoát của tiếng nói, tinh thần văn học là thành quả giá trị nhất của trí tuệ nhân loại, nhà văn là những con người toàn thiện toàn mỹ, chẳng khác gì những vị thánh: bài thánh ca của ông Settembrini cứ tràng giang đại hải trôi đi theo chiều hướng ấy. Nhưng địch thủ của ông cũng không ngọng nghịu gì, ông ta rất biết cách đưa ra những lý lẽ sắc bén và cay độc làm bài ca phấn chấn trở nên lạc điệu, ông ta nhảy hẳn sang phe bảo tồn sự sống để chống lại tư tưởng hủy diệt náu mình sau giọng điệu ngọt ngào thánh thiện kia. Mối liên kết màu nhiệm mà ông Settembrini không tiếc lời ca ngợi thực ra chỉ là ảo ảnh và trò lừa bịp, Naphta khẳng định, bởi hình thức trong tinh thần văn học được tâng bốc là nguyên tắc kết hợp giữa nghiên cứu và phân tích chỉ là một sự giả dối đánh lừa mắt, không phải hình thức thật, cân đối, tự nhiên của sự sống. Cái gọi là sự hoàn thiện và cao đẹp hóa con người lớn tiếng khoe khoang sự trong sáng thiêng liêng của mình, kỳ thực nó chỉ nhằm mục đích làm cho cuộc sống mất máu, trở nên yếu ớt, nhợt nhạt và giả tạo; đúng thế, lý thuyết và tinh thần hành động của nó đích thị là một sự lăng nhục cuộc sống, ai muốn hủy diệt ham muốn để không còn say mê điều gì nữa, người đó nhắm tới cõi hư vô, một sự trống không thuần túy - dĩ nhiên thuần túy được dùng ở đây chỉ vì nó là tính từ duy nhất có thể đi đôi với trống không. Và như thế ông văn sĩ Settembrini đã lộ rõ chân tướng của mình: một tín đồ của tiến bộ, tự do và tư tưởng cách mạng bình dân. Tiến bộ theo ý ông ta đơn giản là vô chính phủ và người công dân tự do là người theo chủ nghĩa hư vô, tôn thờ ma quỷ, đúng thế, vì anh ta đã chối bỏ Chúa, Đấng tuyệt đối hiện hữu và quyền năng, khi ngả theo cái tư tưởng của quỷ dữ kia, vậy mà vẫn tưởng quan điểm hòa bình chết người của mình là sùng đạo lắm. Trên thực tế anh ta không sùng đạo một chút nào, trái lại anh ta là một kẻ tội phạm đối với sự sống, đáng bị lôi ra xét xử và trừng phạt trước tòa án khắc nghiệt của tự nhiên - vân vân và vân vân.
Tóm lại Naphta rất biết cách biến bài hát ca ngợi thành điệu nhạc ma quỷ và tự thể hiện mình như là người bảo vệ sự khắc kỷ trong tình cảm, khiến cho việc phân biệt giữa Chúa và quỷ, giữa cái chết và sự sống lại một lần nữa thuần túy bất khả thi. Xin độc giả cứ tin rằng đối thủ của ông ta không đời nào chịu lép vế mà lập tức trả đũa ngay một cách ngoạn mục, để liền sau đó phải lãnh một đòn phản công cũng ngoạn mục không kém, và họ cứ thế lời qua tiếng lại hồi lâu, đẩy cuộc tranh luận càng lúc càng ra xa bờ. Hans Castorp không để tai nghe tiếp nữa, vì Joachim ngập ngừng lên tiếng bảo rằng chàng thấy người gây gây sốt, có thể là cảm lạnh, và rằng chàng không biết phải làm sao vì ở đây không tồn tại khái niệm “cảm lạnh”. Hai đối thủ của cuộc khẩu chiến chẳng đếm xỉa gì đến chuyện vặt này, nhưng Hans Castorp, như chúng tôi đã nói ở trên, nãy giờ vẫn ngầm để mắt đến anh họ, liền giục anh ra về giữa lúc cuộc đấu khẩu còn chưa ngã ngũ, sau khi ngỏ ý tin rằng phần còn lại của khán giả, gồm có Ferge và Wehsal, chắc chắn đủ hứng thú sư phạm cần thiết để tiếp tục theo dõi cuộc tranh luận.
Trên đường về chàng thỏa thuận với Joachim rằng họ sẽ giải quyết vấn đề cảm lạnh và đau cổ của anh chàng bằng hình thức liên lạc đúng tuyến, tức là báo cho ông thợ tẩm quất để ông ta truyền đạt lên bà y tá trưởng, qua đó người ta sẽ có biện pháp chiếu cố đến kẻ nhọc mình. Đã nói là làm. Ngay tối hôm ấy, sau khi ở phòng ăn lên họ đã thấy bà Adriatica gõ cửa phòng Joachim. Lúc đó Hans Castorp cũng có mặt và được chứng kiến cảnh bà ta cất giọng the thé lục vấn về nguyện vọng hay yêu sách của chàng sĩ quan trẻ. “Đau cổ? Khản tiếng?” Bà ta lặp lại lời khai của bệnh nhân. “Xời ơi, ông lại giở quẻ gì ra nữa thế này?” Và bà ta nghiêm khắc nhìn xoáy vào mắt chàng. Cố gắng tập trung ánh mắt vào một chỗ của bà ta thất bại thảm hại, lỗi không phải ở Joachim, mà là ở bà y tá trưởng: hai con mắt bà ta ngoan cố nhìn ra hai phía. Sao bà ta cứ mất công làm gì thế nhỉ, mặc dù theo kinh nghiệm bà ta phải thừa biết việc làm ấy vô ích thế nào rồi! Với sự trợ giúp của một vật trông như cái xỏ giày bằng kim loại rút ra từ cái túi đeo ở thắt lưng bà ta tìm cách nhìn sâu vào cổ họng người bệnh, trong lúc Hans Castorp đóng vai trợ lý cầm cây đèn bàn rọi sáng. Vừa kiễng chân lên nhòm bà ta vừa hỏi:
“Xời ơi, ông bệnh nhân quý hóa, ông nuốt có bị nghẹn không?”
Biết trả lời câu hỏi ấy thế nào! Trong lúc bà ta còn săm soi nhòm ngó dĩ nhiên Joachim chẳng thể nói năng gì; nhưng cả sau đó, khi đã được bà ta buông tha, chàng vẫn không tìm ra câu trả lời. Tất nhiên trong đời chàng đã có lúc này lúc khác bị nghẹn khi ăn hay uống, nhưng có người nào không thế, và đó chắc chắn không phải điều bà ta muốn biết. Chàng hỏi lại: Tại sao? Chàng chẳng nhớ lần sau cùng bị nghẹn là khi nào nữa.
Không sao, bà ta chỉ hỏi thế thôi. Ông bệnh nhân bị cảm lạnh rồi, bà ta bảo trong sự kinh ngạc vô bờ bến của hai anh em, vì ai cũng biết cảm lạnh là một từ cấm kỵ ở đây. Muốn biết rõ hơn có thể phải cần đến dụng cụ soi thanh quản của ông cố vấn cung đình. Trước khi bỏ đi bà ta đưa cho chàng Formamint[398] và cao Guttapercha[399] để dán lên cổ buổi tối khi đi ngủ. Joachim sử dụng cả hai và thấy có tác dụng tốt, thế nên chàng tiếp tục dùng mặc dù cổ chàng mãi vẫn không hết khản, thậm chí càng về sau càng có vẻ tệ hơn, chỉ có cảm giác đau rát trong họng là đã dịu đi.
Nhưng kết quả đo đạc khách quan cho thấy cơn sốt cảm lạnh của chàng chỉ là bệnh tưởng. Thân nhiệt chàng vẫn như thường lệ, tức là nhỉnh hơn mức độ cho phép, kết hợp với những chẩn đoán của ông cố vấn cung đình làm thành lý do không thể bác bỏ buộc chàng Joachim trung hậu ở lại thực hiện một khóa điều trị bổ sung nho nhỏ trước khi có thể trở về làm người lính dưới cờ. Cái mốc tháng mười trôi qua không kèn không trống. Chẳng ai buông một lời nào đả động đến nó, ông cố vấn cung đình lơ đi đã đành, nhưng giữa hai anh em với nhau họ cũng tránh không nhắc đến, họ cụp mắt nhìn xuống để mặc cho nó trôi đi trong im lặng. Cứ theo những điều Behrens đọc cho viên trợ lý thông thạo phần hồn chép trong buổi khám sức khỏe mỗi tháng và theo kết quả hiện lên trên tấm phim chụp thì rõ ràng xuống núi trái phép bây giờ là chuyện quá liều mạng, không nói ra nhưng ai cũng biết lần này Joachim phải giữ vững kỷ luật sắt mà làm nhiệm vụ ở trên này cho đến khi đủ miễn dịch với thời tiết để có thể xuống đồng bằng thực hiện lời thề và làm nhiệm vụ dưới đó.
Đấy là một quyết định hai người ngấm ngầm thống nhất với nhau, một thỏa thuận không lời. Nhưng sự thực có vẻ như người này vẫn không dám chắc rằng người kia, thẳm sâu trong trái tim mình, có hết lòng tin tưởng vào quyết định ấy hay không, nếu như trước mặt nhau họ cụp mắt nhìn xuống thì cũng chỉ vì muốn giấu mối hoài nghi trước đó họ ngờ rằng thoáng thấy trong mắt người kia, khi ánh mắt họ giao nhau. Chuyện ấy xảy ra khá thường xuyên kể từ ngày có cuộc tranh luận về văn học kể trên, khi Hans Castorp lần đầu nhận ra tia sáng mới lạ xuất hiện trong đáy mắt Joachim cũng như cái ánh ‘đe dọa’ đáng sợ trong đó[400]. Thậm chí có một lần nó xảy ra trong gian phòng ăn với bảy dãy bàn. Joachim thình lình bị nghẹn nặng đến mức gần như ngạt thở. Trong lúc Joachim ho sặc sụa sau tấm khăn ăn và bà Magnus, người ngồi kế bên chàng, theo kinh nghiệm cổ truyền đập thật mạnh vào lưng người bị sặc, thì mắt họ tình cờ gặp nhau theo một lối làm Hans Castorp thấy sợ hơn cả bản thân cái tai nạn trong lúc ăn mà xét cho cùng ai cũng có thể gặp phải. Rồi Joachim cụp mắt xuống và rời khỏi bàn, tấm khăn ăn che mặt, chàng ra ngoài ho cho thả cửa.
Khoảng mươi phút sau chàng quay trở lại, tươi cười, mặc dù mặt còn hơi tái, một lời xin lỗi trên môi về sự bất nhã của mình, và tiếp tục bữa ăn thịnh soạn. Sau đó người ta quên bẵng chuyện ấy, không ai nhắc nhở nửa lời đến sự cố nhỏ nhặt vừa rồi. Nhưng một vài ngày sau đó, lần này không phải trong bữa tối mà là bữa điểm tâm thứ hai, sự cố ấy lại diễn ra, tuy nhiên lần này không có sự trao đổi ánh mắt, ít nhất là ánh mắt hai anh em họ, vì Hans Castorp cúi gằm mặt trên đĩa làm bộ ăn tiếp. Sau bữa ăn họ không thể im lặng như lần trước mà cảm thấy phải có vài lời thanh minh, và Joachim càu nhàu rủa mụ Mylendonk chết tiệt đã nhét vào đầu chàng chuyện nghẹn với sặc bằng câu hỏi dớ dẩn chẳng đâu vào đâu của mụ, làm chàng cứ như bị bỏ bùa, quỷ tha ma bắt mụ đi. Ừ, chắc đấy cũng là một dạng tự kỷ ám thị, Hans Castorp đồng tình - nửa đùa nửa thật, mặc dù khía cạnh nghiêm trọng của vấn đề. Và Joachim, sau khi tìm được một cái tên cho hiện tượng ấy, đã có cách chống lại sự phù phép kia một cách khá hiệu quả: chàng đặc biệt cẩn thận khi ăn uống, và không mắc nghẹn nhiều hơn những người chẳng bị phù phép. Khoảng chín hay mười ngày sau chàng mới lại bị nghẹn thêm lần nữa, lần này không ai nói năng gì.
Thế nhưng chàng bị gọi xuống trình diện Rhadamanthys đột xuất, ngoài lịch khám định kỳ. Bà y tá trưởng là người sắp đặt chuyện ấy, và đó quả là một sáng kiến hay; bởi một khi ông cố vấn cung đình có dụng cụ soi thanh quản thì đây đúng là lúc nên lôi đồ vật thông thái này ra khỏi tủ để dò tìm nguyên nhân chứng khản cổ dai dẳng của Joachim, dạo này tệ hại đến nỗi có lúc chàng mất tiếng hàng giờ liền, và cả chứng đau họng không chịu biến hẳn mà vẫn xuất hiện trở lại mỗi khi chàng quên uống thuốc tăng tiết dịch bôi trơn niêm mạc - đấy là chưa kể, mặc dù Joachim không mắc nghẹn nhiều hơn người khác, nhưng đó hoàn toàn nhờ ở sự cẩn thận giữ gìn của chàng khi nhai nuốt, điều đó kéo theo hậu quả là chàng ăn rất chậm và thường xuyên xong bữa muộn.
Vậy là ông cố vấn cung đình soi, rọi và nhìn ngó thật lâu và thật sâu vào trong cổ họng Joachim, sau đó người bệnh - thể theo nguyện vọng đặc biệt của Hans Castorp - lên ngay ban công phòng em họ để báo cáo kết quả. Khám bệnh kiểu ấy rất nhột và khó chịu, chàng thầm thì kể, vì lúc ấy đang cữ nằm nghỉ chính và ai nấy phải giữ trật tự, cuối cùng Behrens lải nhải cái gì đó về trạng thái viêm tấy trong họng và bảo là phải dùng chổi lông quét thuốc mỗi ngày, bắt đầu ngay ngày mai, khi thuốc được chuẩn bị xong. Ra thế, viêm tấy trong họng và phải quét thuốc. Hans Castorp, đầu óc ngổn ngang ý nghĩ và những liên tưởng xa xôi dính líu tới những nhân vật chẳng ăn nhập gì như lão gác cổng khập khiễng hay người đàn bà ôm tai kêu đau suốt một tuần rồi cuối cùng cũng yên, vẫn đầy thắc mắc trên môi nhưng không hé răng mà quyết định để hỏi riêng ông cố vấn cung đình. Với Joachim chàng chỉ tỏ ý vui mừng rằng giờ đây đã biết bệnh của anh chàng để có biện pháp đối phó và rằng ông cố vấn cung đình đích thân ra tay giải quyết vấn đề. Ông ta là một tay lão luyện và sẽ trị tiệt nọc các chứng kia. Joachim chỉ gật đầu, mắt tránh không nhìn em họ, và quay lưng đi sang ban công phòng mình.
Có chuyện gì xảy ra với Joachim trung hậu thế nhỉ? Trong những ngày vừa qua ánh mắt chàng bỗng trở nên hoang mang và nhút nhát. Mới gần đây bà y tá trưởng Mylendonk còn thất bại khi thử nhìn thấu đôi mắt đen dịu dàng của chàng, nhưng nếu bây giờ bà ta thử lại lần nữa thì quả thật không ai dám chắc kết cục sẽ ra sao. Có một điều chắc chắn là chàng cố tình lảng tránh những cuộc đọ mắt như thế, và nếu như chuyện ấy vẫn xảy ra (vì Hans Castorp cố tình tìm kiếm ánh mắt chàng) thì cậu em họ cũng không cảm thấy dễ chịu gì hơn. Hans Castorp còn lại một mình bên ban công phòng chàng, lòng đầy lo lắng, chỉ muốn vùng dậy đi tìm ông bác sĩ viện trưởng ngay lập tức. Nhưng không được, vì Joachim nghe tiếng sẽ biết, thế nên chàng đành dằn lòng đợi cơ hội đón đường Behrens vào cuối buổi chiều.
Ý đồ tưởng đơn giản mà không thể thực hiện được. Kỳ quá! Chàng không có cách nào kiếm ra ông cố vấn cung đình, cả tối hôm ấy lẫn ròng rã hai ngày sau đó. Tất nhiên chàng phải kín đáo để Joachim khỏi đoán ra, nhưng đó quyết không phải lý do chính yếu giải thích tại sao chàng không thể tóm được ông ta để hỏi chuyện. Hans Castorp lùng kiếm hỏi thăm khắp viện, được người ta chỉ đến chỗ này chỗ kia, nơi chàng chắc chắn sẽ gặp ông ta, nhưng lần nào cũng thấy ông ta không còn ở đó nữa. Một bữa Behrens có mặt trong phòng ăn nhưng lại ngồi quá xa chàng, ở tận bàn Nga hạ lưu, và biến mất trước khi món tráng miệng được đưa lên. Đôi ba lần Hans Castorp đã tưởng tóm được ông ta, chàng bắt gặp ông ta ngoài cầu thang hay hành lang, đứng trao đổi gì đó với Krokowski, với bà y tá trưởng hay một bệnh nhân, và hí hửng dừng lại chờ. Nhưng chàng chỉ vừa nhãng mắt đi một cái là Behrens đã biến mất.
Sang tới ngày thứ tư chàng mới đạt được mục tiêu săn đuổi của mình. Từ trên ban công chàng nhìn thấy kẻ bị truy nã đang đứng trong vườn ra chỉ thị cho gã thợ làm vườn, nhanh như cắt chàng chui ra khỏi chăn chạy như bay xuống dưới. Ông cố vấn cung đình đã quay lưng bươn bả chèo thuyền về phía căn hộ của ông ta. Hans Castorp quày quả chạy theo và còn đánh liều lên tiếng gọi, nhưng người kia giả điếc làm lơ. Cuối cùng, mệt đứt hơi, chàng cũng đuổi kịp con mồi và giữ ông ta đứng lại.
“Ông làm cái quái gì ở đây thế này!” Ông cố vấn cung đình quắc đôi mắt ốc nhồi lên mắng chàng. “Tôi còn phải đặc biệt in ra một bản nội quy của viện và đưa tận tay ông nữa hay sao? Theo như tôi biết thì giờ này là giờ nằm nghỉ. Biểu đồ nhiệt độ và tấm phim chụp điện không cho ông cái quyền tự do đi lại ở đây đâu nhé. Đến phải dựng lên ở đây một hệ thống thiết bị chống trộm, một hình nhân dọa phóng lao xuyên thủng người những kẻ trăng hoa lảng vảng trong vườn từ hai đến bốn giờ mất thôi! Ông muốn gì?”
“Ông cố vấn cung đình, tôi nhất thiết phải quấy rầy ông một lát!”
“Tôi biết tỏng từ mấy ngày nay rồi. Ông rình rập tôi cứ như thể tôi là một cô ả lẳng lơ, đối tượng tương tư của ông không bằng. Ông muốn gì ở tôi?”
“Tôi muốn hỏi chuyện của anh họ tôi, thưa ông cố vấn cung đình, xin ông thứ lỗi! Anh ấy phải quét thuốc vào trong cổ... Tôi tin rằng điều trị như vậy là mọi sự sẽ ổn cả. Tôi chỉ xin phép hỏi một câu này, anh ấy bị cái gì đó vô hại thôi phải không ạ?”
“Ông thì lúc nào cũng chỉ muốn mọi thứ vô hại, Castorp, con người ông là thế đấy. Ông chẳng ngại ngần nhúng tay vào những việc không mấy vô hại, nhưng lại làm bộ coi đó là chuyện vô hại nhất trần đời, và tưởng rằng thế là được lòng cả Chúa lẫn loài người. Như thế là hèn nhát và không dám đương đầu với sự thật, biết chửa, và anh họ ông đã khéo nói cho đẹp chuyện khi đặt cho ông cái tên mỹ miều là con người dân sự.”
“Rất có thể là như thế, thưa ông cố vấn cung đình. Tất nhiên con người tôi cũng có nhược điểm, đó là điều không thể chối cãi. Nhưng nó đã thế thì cứ để thêm một lúc nữa cũng chẳng sao, điều tôi muốn thỉnh cầu ông từ ba ngày nay là...”
“Là tôi phải nói cho vừa ý ông, phải rót mật vào tai ông! Ông muốn lải nhải đến lúc tôi chán ngấy đi và nhắm mắt vào hùa với ông, thế là ông cứ bình tâm vô sự mà ăn ngon ngủ kỹ trong khi người khác thức đêm thức hôm đứng mũi chịu sào.”
“Nhưng mà, thưa ông cố vấn cung đình, ông quá nghiêm khắc với tôi rồi. Thực ra tôi chỉ muốn...”
“Phải, nghiêm khắc, cái ấy không hợp ý ông phỏng. Anh họ ông là con người khác hẳn, khác xa một trời một vực. Ông ấy biết. Ông ấy biết mà vẫn im lặng, ông có hiểu ý tôi không? Ông ấy không bám váy người khác để đợi nghe những lời an ủi rằng mọi sự ổn cả! Ông ấy là người dám làm dám chịu, một đấng nam nhi thực thụ, biết giữ tự chủ và giữ mồm giữ miệng, một nghệ thuật của đàn ông, nhưng tiếc thay không phải thế mạnh của giống động vật hai chân ưa thích sự vô hại như ông. Tôi nói để ông biết, Castorp, nếu ông định diễn bi kịch ở đây, kêu la thảm thiết hay buông mình theo những cảm xúc dân sự của ông thì tôi sẽ tống cổ ông ra khỏi viện ngay lập tức. Vì bây giờ là lúc cần phải xử sự như một người đàn ông, ông hiểu chưa?”
Hans Castorp lặng người đi. Mặt chàng biến sắc, và trở thành loang lổ. Chàng đã rám nắng tới mức mặt không tái đi được nữa. Cuối cùng chàng lên tiếng, môi giật giật:
“Cảm ơn ông, thưa ông cố vấn cung đình. Giờ thì tôi hiểu rồi, và tôi tin rằng ông sẽ không nói với tôi bằng giọng - biết nói thế nào nhỉ - bằng giọng trang trọng như thế, nếu tình trạng Joachim không thực sự nghiêm trọng. Tôi không phải là người ưa bi kịch hay thích kêu la thảm thiết, về điểm này ông cố vấn đã đánh giá sai về tôi. Lúc đụng chuyện tôi cũng biết cư xử như một người đàn ông, tôi có thể đảm bảo với ông điều đó.”
“Ông quý anh họ ông lắm hả, Hans Castorp?” Ông cố vấn cung đình hỏi, đột nhiên nắm lấy tay chàng trai trẻ và đưa cặp mắt lồi xanh lơ tròng trắng vằn tia máu dưới hàng lông mi bạc phếch nhìn thẳng vào mặt chàng.
“Biết nói gì đây, thưa ông cố vấn cung đình? Anh ấy là người thân thiết nhất của tôi, một người bạn tốt và đồng đội của tôi ở trên này.” Hans Castorp nấc lên một tiếng nghẹn ngào, chàng xoay xoay mũi một bàn chân, gót hướng ra ngoài.
Ông cố vấn cung đình vội buông tay chàng.
“Chà, vậy thì ông hãy đối xử tử tế với ông ấy trong sáu hay tám tuần tới”, ông ta bảo. “Ông hãy cứ làm theo cái bản năng vô hại của ông, đối với ông ấy có lẽ như thế là dễ chịu nhất. Tôi cũng còn đó để giải quyết mọi việc một cách đẹp mắt và chu đáo.”
“Thanh quản, phải không ạ?” Hans Castorp nói và gật đầu nhìn ông cố vấn cung đình.
“Laryngea[401]”, Behrens xác nhận. “Tốc độ phá hủy đặc biệt nhanh. Và niêm mạc phế quản nhìn cũng tệ lắm rồi. Rất có thể cái trò hô mệnh lệnh quân sự dưới kia đã tạo ra một locus minoris resistentiae[402]. Nhưng chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng đối phó với những ổ phá hoại kiểu này. Rất ít hy vọng, ông bạn trẻ; nói đúng ra là không có tí hy vọng nào cả. Đương nhiên còn nước còn tát, ở đây không có chuyện ngại tốn công tốn của.”
“Bà mẹ...” Hans Castorp bảo.
“Từ từ đã, từ từ đã. Không vội. Ông hãy vận dụng hết khả năng trí tuệ và tế nhị để thông báo dần từng bước cho bà ấy khỏi sốc. Nhưng bây giờ đã đến lúc ông phải về lại vị trí. Nếu không ông ấy sẽ nhận ra. Và ông ấy chắc sẽ không khoái chí nếu biết người ta nói lén sau lưng mình.”
Ngày nào Joachim cũng phải đi quét thuốc vào cổ họng và thường đi ăn muộn. Trời mùa thu ấm áp, chàng bước vào phòng ăn trong trang phục quần trắng áo khoác xanh lam, bảnh bao tề chỉnh đúng tư thế quân nhân, cất tiếng chào mọi người một cách thân thiện và tự chủ, xin lỗi vì sự chậm trễ của mình, và bởi giờ đây không thể ăn những thức thông thường dễ gây nghẹn nên chàng ngồi xuống bên suất ăn người ta chuẩn bị riêng cho mình: xúp, thịt xay, và cháo bột. Những người ngồi cùng bàn hiểu ra rất nhanh. Họ đáp lại lời chào của chàng bằng thái độ đặc biệt ấm áp và tôn trọng, ai cũng gọi chàng là “ông thiếu úy”. Khi vắng mặt chàng họ xúm vào gạn hỏi Hans Castorp, thậm chí cả thực khách ở các bàn khác cũng chạy sang hỏi. Bà Stöhr vặn vẹo hai bàn tay và lảm nhảm toàn những lời than thở ngu ngốc. Hans Castorp chỉ trả lời gióng một, xác nhận tính nghiêm trọng của vấn đề đến một mức độ nhất định, nhưng chối bay tất cả những dự đoán xa hơn. Chàng làm thế với tất cả lòng tôn trọng dành cho anh họ, cảm thấy không được phép để lộ bí mật của Joachim quá sớm.
Họ cùng nhau đi dạo, ba lần một ngày, trên đoạn đường ngắn ông cố vấn cung đình quy định riêng cho Joachim để tránh lãng phí sức một cách không cần thiết. Hans Castorp đi bên trái anh họ - trước kia chẳng ai để ý đến chuyện người nào đi bên nào, nhưng giờ đây Hans Castorp chủ động chọn bên trái. Họ không nói năng gì nhiều, chỉ là những chuyện thường ngày ở “Sơn trang”, ngoài ra không còn gì khác. Về đề tài lơ lửng giữa họ không có lời nào để nói, nhất là phong tục xứ họ lại tránh biểu lộ tình cảm thân mật, rất hiếm khi gọi nhau bằng tên riêng. Mặc dù vậy trong lồng ngực dân sự của Hans Castorp thi thoảng vẫn dâng lên một cơn đau đớn nghẹn ngào chỉ chực trào ra. Nhưng không thể được. Nỗi đau như dông bão cuộn lên rồi nén xuống, và chàng cắn răng câm nín.
Joachim đi cạnh chàng, đầu cúi gằm. Chàng nhìn xuống dưới chân, như thể muốn ngắm mặt đất. Thật kỳ cục: chàng đi ở đây, tươm tất và tề chỉnh, lịch thiệp chào hỏi người qua kẻ lại với vẻ hào hoa phong nhã cố hữu của mình, giữ gìn tư thế và tư cách không thể chê vào đâu được - và đã thuộc về dưới đất. Dĩ nhiên tất cả chúng ta sớm hay muộn gì rồi cũng thuộc về dưới đó. Nhưng còn trẻ như chàng với bấy nhiêu thiện chí và hoài bão trong binh nghiệp mà chẳng còn bao lâu nữa đã phải về với đất thì cay đắng quá. Đối với Hans Castorp, biết chuyện mà phải câm nín đi bên cạnh, còn cay đắng và khó chấp nhận hơn cả với bản thân con người sắp về với đất, bởi điều bí mật được trân trọng giữ kín của anh ta là một vấn đề khoa học, đối với anh ta không mấy thực tiễn và xét cho cùng không phải việc của anh ta mà là việc của người kia. Sự thực là, cái chết đúng ra là việc của những người còn sống hơn là việc của người đã chết; bởi bất kể chúng ta có biết để mà trích dẫn hay không, một nhà thông thái cổ đã nói trúng bản chất vấn đề khi phát biểu rằng, chừng nào chúng ta tồn tại thì cái chết không tồn tại, và nếu cái chết hiện hữu thì chúng ta không còn tồn tại nữa. Thế tức là giữa chúng ta và cái chết không hề có một mối quan hệ thực tế, và cái chết hoàn toàn chẳng dính líu gì đến chúng ta mà cùng lắm chỉ liên quan đến thế giới và thiên nhiên - cho nên mọi sinh vật đều đón nhận nó với thái độ điềm tĩnh, thản nhiên, vô trách nhiệm và vô tội một cách đầy ích kỷ. Hans Castorp nhận thấy khá nhiều biểu hiện vô tội và vô trách nhiệm ấy nơi Joachim trong những tuần này, chàng hiểu rằng Joachim mặc dù đã biết, nhưng vẫn thản nhiên quan sát thái độ im lặng đầy trân trọng của chàng, vì các mối quan hệ nội tâm của anh ấy đối với điều này rất lỏng lẻo và hoàn toàn lý thuyết, hoặc giả các mối quan hệ ấy có được xét đến dưới góc độ thực tế thì chúng cũng phải tuân theo các quy tắc xã giao thông thường, không cho phép người ta để lộ ra rằng mình đã biết, cũng như người ta tránh nhắc đến nhiều chức năng không mấy tế nhị khác của cơ thể nhưng lại là điều kiện tất yếu làm nên sự sống và không hề ngăn cản người ta giữ gìn tư cách.
Vậy là họ lặng thinh đi bên nhau, không một lời đả động đến những vấn đề thiếu tế nhị của sự sống trong thiên nhiên. Cả những lời than phiền đầy phẫn nộ và thất vọng của Joachim lúc ban đầu, về chuyện chàng bị cầm chân tại đây bỏ lỡ cuộc tập trận quan trọng dưới đồng bằng hay thậm chí bỏ lỡ cả cuộc đời quân ngũ, cũng đã tắt ngấm. Nhưng tại sao, bất kể mọi hồn nhiên vô tội, trong đôi mắt dịu dàng của chàng cái ánh sợ sệt u ám kia cứ quay trở lại - sự hoang mang có thể mang lại sự đắc thắng cho bà y tá trưởng, nếu bà ta thử khuất phục ánh mắt chàng lần nữa? Có phải vì chàng ý thức được mắt mình đã trở nên quá to và má đã quá trũng sâu? Vì trong những tuần này chàng gầy đi rất nhanh, nhanh hơn nhiều so với thời gian chàng ở dưới đồng bằng và mới quay trở lại, và gương mặt nâu rám của chàng càng ngày càng vàng vọt hơn. Như thể chàng cảm thấy hổ thẹn và tự khinh bỉ bản thân mình trong cái hoàn cảnh mà ông Albin tranh thủ tận dụng những lợi thế vô cùng tận của người đã mất danh dự. Ánh mắt trung thực thẳng thắn ngày nào của chàng giờ đây lẩn tránh ai, lẩn tránh điều gì? Thật kỳ lạ, nỗi hổ thẹn của sinh linh chui rúc vào một xó để chờ chết - tin chắc rằng những đau đớn lâm chung của mình chẳng mong gì nhận được sự thông cảm và tôn trọng từ thế giới bên ngoài. Điều đó chẳng hề sai, bởi đàn chim vỗ cánh bay lượn chẳng những không trân trọng kẻ đồng loại đau yếu mà còn xông vào mổ. Nhưng đó là sự dã man của tự nhiên. Hans Castorp lại khác, trong lồng ngực chàng cuộn lên tình nhân ái, khi chàng nhìn thấy tia sáng hổ thẹn bản năng trong mắt Joachim tội nghiệp. Chàng đi bên trái người anh, đặc biệt chọn bên này, và vì Joachim nhiều lúc bước đi không được vững, chàng đưa tay đỡ anh khi lên dốc, vượt qua mọi ngần ngại của phong tục người miền Bắc chàng choàng hẳn tay quanh người anh, và sau đó một lúc lâu quên lấy tay xuống khỏi vai anh cho đến lúc người kia đẩy ra, bực mình bảo:
“Nào, thôi đi cậu. Nhìn chúng mình đi thế này chẳng khác gì hai gã say.”
Nhưng rồi đến một thời điểm chàng Hans Castorp trẻ tuổi thấy đôi mắt buồn u uẩn của Joachim thêm một tia sáng khác lạ, đó là khi bác sĩ cấm chàng không được rời khỏi giường nữa, vào đầu tháng mười một. Tuyết đã phủ mặt đất một lớp dày. Lúc bấy giờ Joachim gặp khó khăn cả khi ăn thịt xay và cháo bột, cứ hai miếng chàng nuốt xuống thì một miếng lọt vào khí quản. Chàng phải chuyển sang ăn thức ăn lỏng hoàn toàn, và Behrens chỉ định cho chàng nằm trên giường để giữ sức. Vào buổi tối trước khi Joachim phải nằm liệt giường, buổi tối cuối cùng chàng còn được đi lại, Hans bắt gặp anh mình chuyện trò với Marusia, cô Marusia hay cười vô cớ với chiếc khăn tay thơm lừng mùi nước hoa cam và bộ ngực đầy đặn vun cao. Đó là giờ giao lưu giải trí sau bữa tối, trong đại sảnh. Hans Castorp từ phòng âm nhạc bước ra để xem Joachim sao rồi, và bắt gặp anh mình đứng cạnh ghế Marusia bên lò sưởi - cô gái ngồi trong một chiếc ghế xích đu, Joachim dùng tay trái giữ cho lưng ghế ngả ra sau, khiến Marusia ở tư thế nửa nằm nửa ngồi ngước đôi mắt nâu tròn nhìn thẳng vào mặt chàng, chàng cúi xuống nói gì đó với cô bằng giọng nhẹ nhàng đứt quãng, cô gái lúc lúc lại mỉm cười, thẹn thùng bối rối nhún đôi vai.
Hans Castorp vội lùi bước, vẫn kịp nhận thấy các thực khách khác cũng đang thú vị theo dõi cảnh tượng trên - Joachim không nhìn thấy hay không thèm để ý đến họ. Cảnh Joachim bất chấp phép tắc xã giao say sưa trò chuyện với cô Marusia ngực nở, cô gái đã bao lâu ngồi cùng bàn ăn với chàng mà không hề có một lời trao đổi riêng nào, chàng bao giờ cũng đứng đắn cụp mắt nhìn xuống trước mặt cô, thậm chí tái mặt đi loang lổ khi nghe nhắc đến tên cô - cảnh tượng ấy làm Hans Castorp kinh hoàng còn hơn mọi dấu hiệu suy sụp mà chàng nhận thấy ở người anh họ tội nghiệp trong những tuần này. “Thôi, anh ấy hỏng mất rồi!” Chàng nghĩ và âm thầm ngồi xuống một chiếc ghế trong phòng âm nhạc, dành thời gian cho Joachim thưởng thức nốt những gì chàng còn có thể thưởng thức trong buổi tối cuối cùng này.
Từ ngày ấy Joachim chuyển sang tư thế nằm ngang thường trực, và Hans Castorp viết thư thông báo cho bà Luise Ziemßen. Chàng ngồi trong chiếc ghế tuyệt hảo của mình ngoài ban công, bổ sung thêm vào những báo cáo từ trước tới nay của mình rằng Joachim đã phải nằm một chỗ, và rằng mặc dù anh chàng không nói ra lời nhưng trong ánh mắt anh ấy chàng đọc được nguyện vọng mong gặp mẹ, và rằng ông cố vấn cung đình Behrens cũng ủng hộ điều này. Chàng viết tất cả những điều ấy bằng những lời lẽ tế nhị nhưng không quanh co. Và không có gì là lạ khi bà Ziemßen leo ngay lên chuyến tàu sớm nhất để đến với con trai: chỉ ba ngày sau khi lá thư báo động với những lời lẽ nhân đạo được gửi đi đã thấy bà lên tới nơi, và Hans Castorp đi xe trượt tuyết ra ga “Làng” đón bà trong cơn bão tuyết. Lúc đứng đợi đoàn tàu bé hạt tiêu lăn bánh vào ga chàng ráng nặn ra một bộ mặt nghiêm trang vừa phải để bà mẹ đừng quá kinh hoảng khi nhìn thấy nhưng cũng không hứa hẹn hay khuyến khích một hy vọng giả tạo nào.
Đã có biết bao cuộc gặp gỡ như thế ở chốn này, đã bao nhiêu lần họ hối hả chạy tới trước mặt nhau, người xuống tàu tha thiết và đầy lo sợ tìm kiếm ánh mắt của người ra đón! Nhìn bộ dạng bà Ziemßen người ta có thể tưởng bà đã chạy bộ thẳng từ Hamburg đến đây. Mặt đỏ tưng bừng, bà kéo tay Hans Castorp lên trước ngực mình, mắt rụt rè nhìn quanh, vội vàng đặt ngay cái câu hỏi trọng yếu kia. Hans Castorp lảng tránh bằng cách cảm ơn bà đã đến nhanh như thế - thật không thể tưởng tượng được, chắc chắn Joachim sẽ mừng lắm đấy. Vâng, rất tiếc trước mắt anh ấy không được rời khỏi giường, vì anh ấy chỉ có thể ăn những thức ăn lỏng nên sức khỏe bị ảnh hưởng là chuyện tất nhiên. Trong trường hợp cần thiết người ta cũng có những biện pháp thích hợp, ví dụ truyền thức ăn bằng ống xông chẳng hạn.
Nhưng lát nữa bà sẽ tận mắt nhìn thấy.
Bà mẹ thấy; và Hans Castorp đứng bên cạnh bà cũng thấy. Cho tới thời điểm này chàng hoàn toàn không nhận ra những thay đổi của Joachim trong mấy tuần cuối - người ít tuổi thường không để ý đến những điều này. Nhưng giờ đây, bên cạnh bà mẹ từ xa tới, chàng quan sát anh họ bằng đôi mắt của bà, như thể chàng cũng đã từ lâu không nhìn thấy anh, và đau đớn ý thức được điều bà mẹ chắc chắn cũng nhận ra, nhưng hơn ai hết dĩ nhiên Joachim là người biết rõ nhất, đó là, chàng đã thực sự trở thành một ca moribundus. Joachim nắm lấy tay bà Ziemßen và giữ chặt trong tay mình, bàn tay cũng vàng vọt và gầy guộc như gương mặt chàng, nét hốc hác làm cho đôi tai vểnh - nỗi đau khổ trong những năm sung sướng của cuộc đời chàng - lại càng có vẻ vểnh hơn, gương mặt ấy giờ đây, ngoại trừ nhược điểm nêu trên và những dấu ấn bệnh tật làm cho sắc diện có vẻ âu sầu khắc khổ, toát lên một nét kiêu hãnh mang lại cho chàng một vẻ đẹp riêng rất đàn ông - mặc dù đôi môi chàng dưới hàng ria mép đen có thể hơi quá đầy đặn so với cặp má hóp. Trên làn da vàng vọt chỗ sơn căn hằn sâu hai nếp nhăn thẳng đứng giữa đôi mắt đen, đôi mắt tuy hõm sâu trong hốc mắt nhưng to và đẹp hơn cả trước kia, và Hans Castorp lại thấy thích nhìn vào trong đó. Vì tất cả những hoang mang sầu thảm và sợ sệt đã biến khỏi đôi mắt ấy kể từ khi Joachim nằm liệt giường, chỉ còn tia sáng lạ chàng phát hiện ra trước đó là còn thấp thoáng dưới đáy mắt người anh - và đương nhiên cả cái ánh ‘đe dọa’ của nó. Joachim không cười khi nắm tay và cất giọng thì thầm chào mẹ. Cả khi bà mới bước vào chàng cũng không cười, và nét mặt bất động như hóa đá của chàng đã nói lên tất cả.
Luise Ziemßen là một phụ nữ can đảm. Bà không lăn ra kêu khóc khi nhìn thấy con trai trong tình trạng ấy. Tác phong bình tĩnh - như mái tóc được bọc gọn trong một cái lưới kín đáo gần như không nhìn thấy - điềm đạm và quả quyết như bản chất người dân ở xứ bà, bà xắn tay áo nhận ngay trách nhiệm trông nom săn sóc Joachim, biến hình ảnh tiều tụy của con thành nguồn động lực thúc đẩy mình trong cuộc đấu tranh chống lại bệnh tật, giữ vững niềm tin sắt đá rằng, nếu còn chút hy vọng nào thì chỉ có lòng thương con và sự tỉnh táo của bà mới có thể cứu vãn được tình thế. Vậy cho nên chắc chắn không phải để nhẹ thân mà chủ yếu do muốn giữ thể diện nên mấy ngày sau bà đồng ý để người ta cử một nữ y tá đến chăm sóc riêng cho con mình. Chẳng phải ai khác mà chính cô y tá Berta, tên thật là Alfreda Schildknecht, xuất hiện bên giường Joachim với chiếc xắc đen của mình; nhưng cả ngày lẫn đêm cô hầu như chẳng có việc gì để làm vì sự hăng hái tận tụy đầy tình mẹ của bà Ziemßen, và thế là cô y tá Berta có vô khối thời gian để ra đứng ngoài hành lang, sợi dây đeo kính gài sau tai, tò mò hóng chuyện.
Cô y tá nhà thờ Tin Lành này là một sinh linh thẳng ruột ngựa. Khi còn có một mình trong phòng với Hans Castorp và người bệnh, mặc dù bệnh nhân không hề ngủ mà nằm ngửa mắt mở trao tráo, cô ta tỉnh bơ bảo:
“Tôi không bao giờ ngờ rằng có ngày tôi phải chăm sóc một trong hai ông lúc chờ chết thế này.”
Hans Castorp hoảng hồn nhăn mặt giơ nắm đấm, nhưng cô ta chẳng hiểu chàng muốn gì - có nằm mơ cô ta cũng không nảy ra ý nghĩ phải nương nhẹ tâm lý Joachim, và đầu óc cô ta thì thực tế đến nỗi không đời nào tính đến khả năng ai đó, nhất là một người luôn kề cận bên người bệnh như Hans Castorp, lại còn nuôi ảo tưởng về kết cục của ca bệnh này. “Đây”, cô ta bảo, vừa nói vừa vẩy chút nước hoa ra một tấm khăn tay để xuống dưới mũi Joachim, “ông hãy hít vào cho dễ chịu một tí, ông thiếu úy!” Thực ra đến giờ phút này mà còn tìm cách giấu giếm sự thật trước Joachim trung hậu thì quả là vô lý. Chỉ có bà Ziemßen, để bớt căng thẳng, là còn nói về khả năng bình phục của con trai bằng giọng xúc động nhưng cứng cỏi. Vì có hai điều rõ ràng ai cũng phải nhận ra: thứ nhất là, Joachim chờ đón cái chết một cách hoàn toàn sáng suốt, và thứ hai, chàng chấp nhận điều đó với sự thanh thản, bình yên trong tâm. Chỉ đến tuần cuối cùng, khoảng cuối tháng mười một, khi tim đã suy yếu chàng mới lẫn lộn hàng giờ liền, quên mất tình trạng của mình và phấn khởi bày tỏ hy vọng sớm trở về đơn vị để tham gia cuộc tập trận lớn mà chàng cứ tưởng vẫn còn đang tiếp diễn. Đó cũng là thời điểm ông cố vấn cung đình Behrens cảm thấy không cần thiết phải nuôi hy vọng cho những người thân của chàng nữa, ông ta tuyên bố kết cục chỉ còn là chuyện tính từng giờ.
Đó là một hiện tượng vừa buồn thảm vừa đúng quy luật, sự quên lãng và tự lừa dối bản thân một cách nhẹ dạ nhưng cũng rất nam tính ở vào thời điểm quá trình hủy hoại cơ thể đã thực sự gần tới cái đích tử vong - nó hợp quy luật chung và vượt ra ngoài mọi nhận thức cá nhân, như người chết rét lịm vào giấc ngủ hay như người lạc đường đi loanh quanh theo một vòng tròn. Nỗi đau đớn và buồn khổ không ngăn cản Hans Castorp quan sát hiện tượng ấy bằng con mắt khách quan, và trong một cuộc chuyện trò với Naphta và Settembrini, khi thông báo với họ tình hình nguy ngập của Joachim, chàng đã vụng về, mặc dù với những nhận xét không kém phần sắc sảo, đề cập đến vấn đề này và bị ông người Ý khiển trách vì nhận định, quan niệm chung đã sai lầm khi cho rằng lạc quan thái quá và vững tin ở tương lai là biểu hiện của sức khỏe, còn bi quan yếm thế và bất mãn với cuộc đời là một dấu hiệu của bệnh tật; bởi nếu không thì tại sao tình trạng hấp hối lại có thể tạo ra một sự lạc quan mà so sánh với bức tranh màu hồng bất nhẫn của nó thì tất cả những đau khổ trước đó phải gọi là một lời biểu dương sự sống lành mạnh nhất. Ơn Chúa chàng có thể đồng thời thông báo với hai ông bạn ưa lý sự rằng, Rhadamanthys đã chừa lại một tia hy vọng trong tuyệt vọng khi tiên đoán cho Joachim một kết cục nhẹ nhàng, rằng mặc dù còn trẻ nhưng chàng sẽ ra đi nhanh gọn chứ không phải vật vã đau đớn nhiều.
“Thơ mộng lắm, hoàn toàn là chuyện của trái tim, thưa quý bà thân mến của tôi!” Ông ta bảo, nắm lấy tay Luise Ziemßen trong cả hai bàn tay to như cái xẻng của mình và cúi xuống nhìn bà bằng đôi mắt lồi xanh lơ ầng ậng nước. “Tôi thực sự nhẹ cả người vì sự thể diễn tiến theo chiều hướng đáng mừng này, và ông ấy không phải sang thế giới bên kia với một cái cổ họng phù nề hay những nỗi khốn khổ khác; bà có thể yên tâm là con trai bà sẽ tránh được nhiều tiết mục khó chịu. Trái tim ông ấy không còn làm việc được mấy hồi nữa, may cho ông ấy và cho cả chúng ta; chúng ta có thể theo đúng lương tâm và trách nhiệm bơm cho nó vài mũi tiêm long não, nhưng khả năng xoay chuyển tình thế không được bao nhiêu đâu. Giai đoạn cuối ông ấy sẽ ngủ nhiều và mơ cũng nhiều, những giấc mơ đẹp, tôi có thể hứa với quý bà điều đó, và nếu như đến phút chót ông ấy không ngủ được thì ông ấy cũng sẽ lìa đời một cách dứt điểm và nhẹ nhàng, thực ra chuyện ấy đối với ông ấy chẳng quan trọng gì đâu, xin bà cứ tin lời tôi. Về cơ bản lúc nào cũng thế. Thần chết đối với tôi không xa lạ gì, là người giúp việc lâu năm của y tôi biết, người ta quá thổi phồng y lên đấy thôi, xin bà cứ tin tôi đi! Tôi nói thật, cái chết chẳng có gì ghê gớm đâu. Vì những chuyện kinh khủng xảy ra trong những trường hợp nhất định thực ra khó lòng đổ lỗi cho thần chết, phải hiểu đấy là biểu hiện của sự sống, là dấu hiệu trở về với cuộc đời, là sự hồi sinh. Còn cái chết, chẳng ai chết rồi còn quay trở lại để kể cho quý bà nghe những trải nghiệm của mình, bởi vì người ta không thể trải nghiệm cái chết. Chúng ta đến từ bóng tối và đi vào bóng tối, giữa hai cái mốc ấy là những trải nghiệm của chúng ta về cuộc đời, nhưng khởi đầu và kết thúc, sinh và tử, hai sự kiện ấy không có trong nhận thức của chúng ta, không có tính chủ quan, đó là những quá trình nằm trọn vẹn trong lĩnh vực khách quan, như thế đấy.”
Đó là cái cách ông cố vấn cung đình an ủi người ta. Chúng tôi hy vọng rằng bà Ziemßen vẫn còn đủ khôn ngoan để tiếp nhận lời an ủi này; vả lại những dự đoán của ông ta tỏ ra khá đúng trong thực tế. Joachim kiệt sức ngủ li bì trong những ngày này, chúng tôi tin rằng quả thực chàng có những giấc mơ đẹp về đồng bằng và về quân ngũ và về những điều tươi đẹp khác đối với chàng; mỗi khi chàng tỉnh dậy và được hỏi trong người ra sao thì chàng luôn luôn trả lời rằng chàng cảm thấy dễ chịu và hạnh phúc, mặc dù giọng nói đã hơi ngọng. Mạch chàng đã gần như mất hẳn, và chàng không có phản xạ gì nữa khi bị mũi kim chích vào người - thân thể chàng đã mất hết cảm giác, nếu có bị thiêu đốt kìm kẹp chắc chàng cũng chẳng cảm thấy gì.
Nhưng từ khi có mặt bà mẹ, con người chàng đã có những thay đổi lớn. Vì cạo râu đã trở nên quá phiền hà nên khoảng tám hay mười ngày nay chàng thôi không cạo râu nữa, và râu chàng mọc lên rất nhanh làm thành một cái khung đen nhánh bao lấy khuôn mặt vàng như sáp với đôi mắt đen dịu dàng - một bộ râu chiến trận, như thường thấy ở những người lính ngoài chiến trường, và tất cả mọi người đều công nhận bộ râu ấy rất hợp với chàng và đem lại cho chàng một vẻ đẹp rất đàn ông. Đúng thế, Joachim bỗng từ một thanh niên trở thành một người đàn ông trưởng thành nhờ bộ râu - hay cũng có thể không hẳn chỉ vì thế. Tốc độ sống của chàng tăng lên gấp bội, như chiếc đồng hồ bị vặn nhanh, chàng phi nước đại qua các độ tuổi mà trong đời thực chàng không còn thời gian để trải qua, và trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ cuối cùng chàng trở thành một ông già. Chứng suy tim làm mặt chàng sưng tấy lên nặng trịch, khiến Hans Castorp có cảm tưởng chết vẫn còn là một việc làm rất khó nhọc, mặc dù Joachim nhờ những cơ chế tự vệ giảm thiểu đau đớn và hình thức gây mê nhân đạo của cơ thể có vẻ như không nhận thấy sự nhọc nhằn này. Môi chàng bị phù nề nhiều nhất, và không biết niêm mạc trong miệng bị khô hay thần kinh ở đó đã tê liệt mà Joachim khi nói lưỡi cứ líu lại ngọng nghịu như người già - có vẻ như đó là điều duy nhất làm chàng khó chịu, vì chàng làu bàu bảo rằng, nếu nói năng được bình thường thì mọi việc sẽ ổn cả, và rằng sự cản trở này làm chàng rất bực mình.
Ý chàng muốn nói gì khi bảo rằng “mọi việc sẽ ổn cả” thì không ai rõ, thực thế, xu thế mập mờ hai nghĩa trở nên áp đảo trong tình trạng hiện nay của chàng, nhiều lần chàng nói nghĩa đôi, có vẻ như biết rồi lại như không biết, và thậm chí một lần, rõ ràng tâm thần rung động vì cảm nhận được sự hủy diệt đang đến với mình, chàng lắc đầu ủ rũ bảo rằng, trong đời mình chưa bao giờ ở vào tình cảnh tệ đến thế này.
Rồi tâm trạng chàng chuyển sang tiêu cực, thất thường và khó chịu, thậm chí bất lịch sự; chàng không để tai nghe những lời an ủi hão huyền nữa, khi được hỏi cũng chẳng thèm trả lời, và chỉ nhìn chăm chăm vô định về phía trước. Luise Ziemßen cho mời một mục sư trẻ - Hans Castorp thất vọng tràn trề khi thấy ông ta không mặc áo chùng cổ xếp nếp cao như cái đĩa mà chỉ có hai dải nhỏ trước ngực - và sau khi cầu nguyện với ông ta thái độ Joachim trở nên trang trọng như khi làm nhiệm vụ, chàng bày tỏ nguyện vọng dưới dạng ngắn gọn như ra lệnh.
Sáu giờ chiều chàng bắt đầu có một cử chỉ lạ lùng: bàn tay phải chàng, cườm tay đeo một sợi dây chuyền vàng, bỗng đưa qua đưa lại trên tấm khăn trải giường quãng gần hông, lúc kéo sát lại bên người lúc đưa ra xa, hơi nâng lên hạ xuống trong một cử động cào cào vun vén như thể chàng đang góp nhặt cái gì đó vô hình.
Bảy giờ tối chàng qua đời - Alfreda Schildknecht ra hóng chuyện ngoài hành lang, chỉ có mẹ và em họ chàng có mặt. Chàng nằm lún sâu xuống giường và ra lệnh ngắn gọn đòi được nâng lên cao hơn. Trong lúc bà Ziemßen vòng tay qua vai con trai tính chiều ý con thì chàng hấp tấp bảo rằng, chàng phải viết đơn xin kéo dài thời hạn nghỉ phép và nộp vào ngay cho kịp, đúng lúc ấy sự kiện kia diễn ra “dứt điểm” - trong cái nhìn kính cẩn của Hans Castorp dưới ánh ngọn đèn bàn bọc chao đỏ. Mắt chàng dại đi, gương mặt giãn ra mất dần những nét căng thẳng vô thức, cặp môi sưng tấy xẹp xuống trông thấy, vẻ đẹp tuổi thanh xuân dần dần quay trở lại trên mái đầu bất động của Joachim, và thế là hết.
Luise Ziemßen quay đi khóc nức lên, thế nên Hans Castorp lại là người cúi xuống tấm thân bất động không còn hơi thở, đưa đầu ngón tay đeo nhẫn vuốt mắt cho anh và nhẹ nhàng đặt hai bàn tay người chết chắp lại với nhau trên tấm chăn. Rồi chàng cũng đứng khóc, những giọt nước mắt lăn dài trên má, giống như những giọt nước làm xót cứng gò má ông sĩ quan hải quân Anh ngày nào: vẫn thứ chất lỏng trong suốt, cay đắng chảy tràn khắp thế giới từng giờ từng phút, được người ta thi vị hóa thành tên gọi thung lũng nhân gian[403]; cái sản phẩm muối kiềm của một loại tuyến, được cơ thể ép ra vì cơn đau chấn động tâm can, nỗi đau đớn thể xác cũng như tinh thần. Theo chỗ Hans Castorp được biết trong đó có chứa cả một ít chất nhờn và chất đạm.
Ông cố vấn cung đình tới ngay khi được cô y tá Berta thông báo. Mới nửa tiếng trước ông ta còn ở đó và chích cho người bệnh một mũi long não; nhưng đúng giây phút quyết định nhất của sự kiện dứt điểm thì ông ta bỏ lỡ. “Chà, ông ấy đi rồi”, ông ta nói đơn giản có thế và nhấc ống nghe lên khỏi lồng ngực lặng phắc của Joachim. Và ông ta bắt tay hai người thân, gật đầu với họ. Sau đó ông ta còn đứng một lúc với họ bên giường, ngắm nhìn gương mặt bất động và bộ râu chiến trận của Joachim. “Một cậu bé tốt, một chàng trai tốt”, ông ta nói vọng qua vai, đầu hất nhẹ về phía người yên nghỉ. “Tưởng có thể cưỡng bức được bệnh tật, bà biết đấy - tất nhiên cái nghề ông ta chọn ở dưới kia cũng thế, rặt cưỡng bức và bạo lực. Cứ sôi lên sùng sục muốn làm nhiệm vụ bằng bất cứ giá nào cơ. Chiến trường vẫy gọi, bà hiểu không, và tên lãng tử chuồn khỏi tay chúng tôi để ra trận. Nhưng cái vinh quang chiến trận ấy là bản án tử hình đối với ông ta, và thần chết - bà muốn nói ngược lại cũng được - thần chết chắc hẳn vừa mới nói: ‘Rất hân hạnh!’ Một thằng bé tuyệt vời, một người đàn ông thực thụ.” Và ông ta bỏ đi, dáng người lênh khênh, lưng hơi gù, đầu chúi về phía trước làm cái gáy nổi hẳn lên.
Việc đưa thi hài Joachim về quê đã được quyết định, và “Sơn trang” lo thu xếp mọi thủ tục cần thiết hay không thực sự cần thiết nhưng không thể thiếu đối với địa vị xã hội của chàng - mẹ và em họ chàng không phải động một ngón tay. Ngày hôm sau, mặc chiếc áo lụa gắn măng sét, với bó hoa để trên tấm chăn, nằm trong ánh sáng trắng ngần trông Joachim còn đẹp hơn cả khi vừa mới qua đời. Mọi dấu hiệu khổ nhọc dù là nhỏ nhất đã biến hết khỏi gương mặt chàng, những đường nét trên gương mặt ấy đông cứng lại dưới một hình thức yên tịnh và tinh khiết nhất. Một lọn tóc sẫm hơi quăn rủ xuống vầng trán ngà ngà bất động, vầng trán như được làm từ một chất liệu vừa quý báu vừa dễ hỏng ở khoảng trung gian giữa sáp và đá hoa cương, và trong bộ râu quai nón cũng hơi quăn nổi lên cặp môi đầy đặn kiêu hãnh. Một chiếc mũ giáp sắt thời cổ đại có lẽ sẽ hợp với mái đầu này lắm, nhiều người đến chia tay chàng đã phải thốt lên như vậy.
Bà Stöhr say sưa khóc trước hình hài Joachim quá vãng. “Một người anh hùng! Một anh hùng!” Bà ta luôn miệng kêu và đòi người ta phải chơi bản “giao hợp” của Beethoven trong đám tang chàng.
“Bà có im đi không!” Ông Settembrini đứng cạnh nghiến răng quát khẽ. Ông ta và Naphta có mặt trong phòng cùng một lúc với bà này và tỏ ra rất xúc động. Ông ta đưa cả hai tay về phía Joachim kêu gọi mọi người tập trung về đó và yêu cầu họ cùng bày tỏ lòng thương tiếc với mình. “Un giovanetto tanto simpatico, tanto stimabile![404]” Ông ta nhắc đi nhắc lại.
Naphta ngứa lưỡi chẳng nhịn được một câu châm chọc, mặc dù vẫn giữ tư thế trang nghiêm và mắt không nhìn ông người Ý, lên tiếng khẽ khàng nhưng cay độc:
“Tôi rất mừng thấy ngoài tự do và tiến bộ trong đầu ông vẫn còn chỗ cho những điều nghiêm túc.”
Settembrini nuốt giận làm thinh. Có lẽ ông ta cảm thấy trong hoàn cảnh này Naphta chiếm ưu thế hơn mình; có lẽ ông ta bày tỏ nỗi đau buồn của mình một cách ồn ào như thế chẳng qua cũng chỉ để cân bằng lại ưu thế nhất thời của đối thủ, và giờ đây ông ta lặng im cả khi Leo Naphta lợi dụng ưu thế của mình tiếp tục lên giọng kẻ cả răn dạy:
“Văn sĩ các ông đã sai lầm nghiêm trọng khi tin rằng chỉ có tinh thần làm nên đạo đức. Ngược lại là đằng khác. Ở đâu không có tinh thần, ở đó có đạo đức.”
‘Á à’, Hans Castorp nghĩ bụng, ‘thật là một lời tiên đoán nước đôi! Nếu người nói sau đó lại còn mím chặt môi như lúc này thì thật không khác gì một lời đe dọa...’
Buổi chiều chiếc quan tài bằng kim loại được đưa tới. Việc đặt Joachim vào trong cái hộp dềnh dang trang trí bằng những chiếc vòng và đầu sư tử được coi là chuyên môn của người đàn ông đến cùng với nó: một người bận toàn đồ đen, nhân viên hãng mai táng được giao lo liệu vụ này. Ông ta mặc một chiếc áo khoác ngắn kiểu lễ phục ngày chủ nhật, bàn tay dùi đục đeo một chiếc nhẫn cưới, cái vòng kim loại vàng chóe gần như lặn hẳn vào ngón tay nung núc thịt. Người ta tưởng như ngửi thấy mùi tử thi tỏa ra từ chiếc áo khoác ngắn của ông ta, nhưng tất nhiên đấy chỉ là thành kiến. Người đàn ông với chuyên môn đặc biệt ấy kiêu kỳ tuyên bố, công việc của ông ta diễn ra hoàn toàn trong hậu trường, thân nhân của người quá cố chỉ được nhìn thấy kết quả phù hợp với yêu cầu thẩm mỹ và lòng thành kính của họ mà thôi. Điều đó không hợp ý Hans Castorp một chút nào và đánh thức mối ngờ vực sẵn có ở chàng đối với gã đàn ông kia. Chàng tán thành rằng bà Ziemßen nên về phòng nghỉ, nhưng bản thân bỏ ngoài tai mọi lý lẽ đuổi khéo và khăng khăng đòi ở lại giúp một tay: chàng đỡ dưới nách thi hài người anh khiêng từ giường sang quan tài, ở đó trên lớp vải liệm và gối lót đính tua rua cái vỏ của Joachim nằm trang trọng nhô cao giữa mấy cái giá cắm nến do ban quản trị ‘Sơn trang’ đưa tới.
Tuy nhiên ngày hôm sau xảy ra một hiện tượng khiến Hans Castorp đành lòng từ giã hình hài câm lặng của người anh và bỏ lại trận địa cho vị chuyên gia tang lễ đáng ngờ. Bởi Joachim, cho tới giờ vẫn gây một ấy tượng nghiêm trang đáng kính, bỗng bắt đầu nhe răng cười trong bộ râu chiến trận, và Hans Castorp phải thú nhận với bản thân rằng nụ cười này không hứa hẹn điều gì tốt đẹp - nó bóp nghẹt trái tim chàng trong một cảm giác vội vàng. Ơn Chúa may sao đã tới lúc đóng nắp quan tài và xiết ốc để lên đường vận chuyển về quê. Gạt sang bên bản chất khách sáo của người miền Bắc, Hans Castorp nhẹ nhàng đặt cái hôn từ giã lên vầng trán lạnh như băng của người anh họ, rồi, mặc dù lòng vẫn dấm dứt nghi ngờ người đàn ông quen hành động trong hậu trường, chàng quay gót đi theo Luise Ziemßen ra khỏi phòng.
Tới đây chúng tôi xin được hạ màn, lần áp chót. Nhưng trong lúc tấm màn rơi xuống chúng tôi vẫn muốn cùng Hans Castorp - giờ đây còn lại một mình trên núi - để cho tâm trí bay về cái nghĩa trang ẩm ướt dưới đồng bằng, nơi có một lưỡi gươm vung lên sáng lòa rồi hạ xuống, tiếp theo là một tiếng hô và ba phát súng vang dội, lời chào danh dự trên nấm mộ chằng chịt rễ cây của người lính trẻ Joachim Ziemßen.
Núi Thần Núi Thần - Thomas Mann Núi Thần