Nếu mặt biển mãi mãi bình lặng, chắc chắn những thủy thủ tài ba sẽ chẳng bao giờ có mặt trên đời.

Ngạn ngữ Anh

 
 
 
 
 
Tác giả: Selma Lagerlöf
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Nils Holgerssons Underbara Resa Genom Sverige
Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 43
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 174 / 13
Cập nhật: 2020-07-08 19:35:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chú Thích
[1] Skåne là tỉnh ở cực nam đất nước Thụy Điển, trên eo biển thông sang Đan Mạch.
[2] Trong truyện cổ Bắc Âu, tumtê là một thứ thần rất bé, hay giúp người trong các gia đình thần ở, nên đây tạm dịch là gia thần.
[3] Ở châu Âu, người nghèo ở nông thôn không có giày da, phải đẽo giày bằng gỗ để đi.
[4] Cao nguyên băng tích là những cao nguyên ở miền bắc Thụy Điển, xưa kia khí hậu lạnh, băng phủ dày hàng chục vạn năm, ngày nay băng tan rồi nhưng mặt đất còn mang đầy dấu vết xâm thực của các sông băng cũ. Tiếng Thụy Điển gọi các cao nguyên ấy là Fjell.
[5] Lõa mạch là loại lúa mì thân cao, trồng ở những chỗ đất xấu.
[6] Kebnekaise là ngọn núi cao nhất nước Thụy Điển, 2135 mét ở tận cùng đất Thụy Điển về phía bắc, quê hương của Akka.
[7] Lapland là tỉnh ở cực bắc nước Thụy Điển, khí hậu rất lạnh và là quê hương của những người Lapps.
[8] Cây trăn cùng họ với cây hạt dẻ, mọc ở những nơi ẩm ướt xứ ôn đới, gỗ xốp.
[9] Nhan đề nhiều chương trong nguyên tác thường dùng tên các tỉnh, các địa phương ở Thụy Điển, mang nặng tình cảm dân tộc, nhưng có phần xa lạ với bạn đọc nước ngoài. Gặp những trường hợp như thế, bản dịch này thay bằng nhan đề khác, nhưng gần với nội dung của chương sách.
[10] Trong nguyên tác là lâu đài Glimminge.
[11] Malmư là thương cảng lớn của Thụy Điển ở phía nam, trên eo biển trông sang Đan Mạch; Lübeck là thương cảng của Đức đã nổi tiếng từ giữa thế kỉ XIII.
[12] Lund là thành phố lớn ở tỉnh Skåne, nổi tiếng vì có trường đại học lâu đời.
[13] Trong nguyên tác là “Hội múa chim hạc ở Kullaberg”.
[14] “Nồi của khổng lồ” là những cái hốc hình vại mà nước xói, đào vào đá các lòng khe, theo cách gọi có tính cách hình tượng trong ngôn ngữ dân gian của nhiều nước ở châu Âu.
[15] Ưresund là một trong các eo biển hẹp giữa đất Thụy Điển với các đảo của Đan Mạch.
[16] Blekinge là một tỉnh ở miền nam Thụy Điển, bên phía đông tỉnh Skåne và phía nam tỉnh Småland.
[17] Trong nguyên tác là “Thung lũng sông Ronneby”.
[18] Karlskrona là quân cảng của Thụy Điển, nằm ở phía nam trên bờ biển Baltic.
[19] Truyện dân gian của các dân tộc ở Bắc Âu hay nói đến những nhân vật hình người bé nhỏ gọi là troll, ở các chốn núi rừng, thường đùa nghịch, chứ không hại người.
[20] Kark XI là một trong những quốc vương Thụy Điển nổi tiếng trị vì từ năm 1660 đến 1697, trong thời kì hùng cường nhất của lịch sử nước này; bấy giờ uy quyền của Thụy Điển lan ra khắp chung quanh biển Baltic, mà ngày ấy người ta gọi là “hồ Thụy Điển”. Thành phố này tên Karlskrona, nghĩa là “Thành phố của Karl”.
[21] Ưland là hòn đảo của Thụy Điển ở trong biển Baltic, ven bờ đông nam nước này.
[22] Rugen là đảo của nước Đức, nằm sát bờ nam biển Baltic mà đất nước Thụy Điển là bờ bắc.
[23] Xem bản đồ Thụy Điển để thấy rõ hình dáng của đảo Ưland.
[24] Eo biển Kalmar ở giữa đất Thụy Điển trên lục địa với đảo Ưland.
[25] Trong nguyeân taùc laø “Ñaûo Karl Nhoû”.
[26] Gottland là hòn đảo dài trong biển Baltic, ở phía đông bán đảo Thụy Điển, phía đông bắc đảo Ưland.
[27] Đất hứa là miền Canaan mà Chúa Trời đã hứa cho dân Do Thái, và dù phiêu bạt đến đâu họ cũng cố trở về; thường dùng theo nghĩa là một miền đất rất phì nhiêu, giàu có.
[28] Sải tay là đơn vị đo chiều dài cũ ở châu Âu, bằng 1,949m.
[29] Cảnh đảo Karl Nhỏ tả đây rất đúng với thực tế, “raukar” là những núi đá vôi bị nước biển xâm thực thành những hình thù quái dị mà trí tưởng tượng của nhân dân cũng đem biến thành ma quỷ. Còn chim biển như tả ở đoạn trên thì ở đây hằng hà sa số.
[30] Theo một truyền thuyết rất cổ của người Thụy Điển thì đêm hôm trước lễ Phục sinh hàng năm, tất cả các mụ phù thủy khắp nước đều đến khai hội ở Blåkulla.
[31] Cỏ thuộc họ hòa thảo giống như lúa mì, mọc ở các cồn cát và giữ không cho cát bay.
[32] Sứ đồ là mười hai đồ đệ mà chúa Giê-su Cơ Đốc phái đi truyền kinh Phúc âm.
[33] Lụa dệt hoa ở Đama, thủ đô nước Syria ngày nay, đã nổi tiếng đẹp từ nhiều thế kỉ, nên tiếng nhiều nước gọi hẳn lụa ấy là “Đama”.
[34] Đạo quân Cứu thế là tổ chức theo kiểu quân đội của đạo Tin lành, hoạt động ở bảy mươi nước trên thế giới, đàn ông đàn bà mặc đồng phục để truyền đạo ngoài trời, thu nghĩa quyên để lập nhà đón nhận và nuôi ăn những người nghèo khổ, tìm cách hoàn lương gái giang hồ.
[35] Thành viên của một hội chống việc uống rượu.
[36] Màu đỏ thắm là màu riêng dành cho hàng vua chúa ở châu Âu ngày xưa.
[37] Visby là thủ phủ của Gottland, hòn đảo buôn bán lớn ở châu Âu từ thế kỉ XII đến XV, được gọi là “vương hậu các biển phương Bắc”, Visby được xây dựng từ thế kỉ XIII, tập trung những kho của cải rất lớn, ngày nay còn tìm được một phần; trong thời thịnh vượng có nhiều công trình xây dựng cực kì tráng lệ, nhất là những nhà thờ; đến thế kỉ XV thì bị chiến tranh và giặc cướp tàn phá, nay còn nhiều phế tích như đã tả ở đây, khiến cho Visby được gọi là “thành phố của phế tích và hoa hồng”. Nổi tiếng ở Visby là bức thành đồ sộ bao quanh đô thị, dài hơn ba ki-lô-mét, cao tới mười mét, có bốn mươi tư cổng xây cao thành những ngọn tháp như được tả trong đoạn trước Thành phố dưới đáy biển, đó là bức thành cổ còn nguyên vẹn nhất ở Bắc Âu. Đoạn đó là bức tranh miêu tả Visby ngày xưa khi chưa bị tàn phá.
[38] Fyord là những lạch biển ở Bắc Âu, sâu, hẹp và dài. Từ bờ biển ăn vào nội địa hàng chục kilômét; nguyên là những thung lũng do sông băng ngày trước đào ra, và sau đó bị biển ngập vào vì bờ biển lún xuống.
[39] Thánh Phêrô là người đứng đầu mười hai đồ đệ của Chúa Giêsu, người thực sự lập ra giáo hội La Mã và làm giáo hoàng đầu tiên, sinh năm 10 trước Công nguyên, tử vì đạo năm 67.
[40] Đây là Chúa Trời sáng lập ra thế giới; còn Chúa Giêsu là con Chúa Trời.
[41] Mats trêu tức Nils vì nó là dân tỉnh Småland, còn Nils là dân tỉnh Skåne.
[42] Tiếng Thụy Điển fumla-drumla có nghĩa là làm cái gì vụng về, hành động như kẻ thô kệch.
[43] Ưstergưtland là một tỉnh ở miền đông nam Thụy Điển, trên bờ biển Baltic, đối diện đảo Gottland.
[44] Phòng đầu tiên trước khi bước vào các phòng khác ở ngoài, người ta cởi bỏ mũ và áo khoác, áo mưa... tại đây.
[45] Vì bà không hiểu tiếng nói của loài vật.
[46] Tập Thánh thi là sưu tập những bài thơ ở trong Kinh thánh của đạo Cơ đốc, thường đọc trong các lễ tạ của nhà thờ.
[47] Trong nguyên tác là “Từ núi Taberg đến Huskvarna”.
[48] Núi Taberg, cao 342 mét, ở phía nam hồ Vettern, trong vùng tây bắc tỉnh Småland, có mỏ.
[49] Đấng Sáng Thế là Đức Chúa Trời, đã sáng tạo ra thế gian và muôn loài.
[50] Hồ Vettern là hồ lớn thứ nhì của Thụy Điển, ở phía tây bắc tỉnh Småland.
[51] Jưnkưping là một thành phố công nghiệp nhẹ nổi tiếng, có những nhà máy giấy và máy diêm, những ngành sản xuất rất tiêu biểu của Thụy Điển. Thành phố ở phía nam Huskvarna và trên bờ nam hồ Vettern.
[52] Linkưping là thành phố luyện kim ở địa phận tỉnh Ưstergưtland.
[53] Motala là một thành phố luyện kim và Norrkưping là một cảng trên biển Baltic và là thành phố dệt nổi tiếng, đều thuộc địa phận tỉnh Ưstergưtland.
[54] Sưrmland là một tỉnh ở miền trung Thụy Điển, phía bắc tỉnh Ưstergưtland, trên bờ biển Baltic.
[55] Ở ôn đới, những miền lạnh ít thì rừng gồm những loài cây lá rộng bản như sồi, dẻ, phong, du... những miền lạnh lắm thì rừng gồm những loài cây mà lá thu lại hình mũi kim như thông, tùng, bách. Những vùng tiếp giáp giữa hai miền thì rừng hai loại xen kẽ nhau gọi là rừng hỗn hợp.
[56] Bài thuyết giáo của mục sư sáng chúa nhật hôm đó ở nhà thờ.
[57] Vì Kolmården là tên một dãy núi ở mạn nam tỉnh Sưrmland.
[58] Hai arpent, đơn vị đo đồng ruộng ở châu Âu xưa; mỗi arpent rộng từ 4200 đến 5100 mét vuông, tùy theo mỗi nước: hai arpent xấp xỉ một héc-ta.
[59] Phúc bồn là loại cây nhỏ ở ôn đới, có quả nhỏ đỏ hay trắng, ra từng chùm, vị chua dễ chịu, người ta ăn tươi hay ướp đường, thường làm mứt hay ngâm rượu.
[60] Hublông là một loại cây leo ở ôn đới mà hoa dùng trong việc cất bia để lấy hương thơm.
[61] Bức tranh bằng gỗ gồm ba tấm có thể gấp lại.
[62] Bộ là đơn vị đo lường cổ ở châu Âu, dài hơn 32cm một tí.
[63] Ở những miền lạnh của ôn đới, ngoài loài nai thường, còn có nai xứ lạnh, cổ ngắn và gạc thì nhiều chạc dính liền nhau, làm cho gạc rộng bản và tỏa ngang ra hai bên, chứ các chạc không thanh dài và vút cao lên như nai thường; các ngôn ngữ châu Âu đều gọi nai xứ lạnh theo tiếng Litva là etnis. Ở Thụy Điển rất nhiều nai này, có con nặng tới 450 kilô và sinh sôi nảy nở rất nhanh, nên được xem là chúa các loài vật trong rừng của đất nước này.
[64] Nước Thụy Điển hơn một nửa diện tích là rừng, và vì vậy rừng là phong cảnh phổ biến của đất nước Thụy Điển.
[65] Tỉnh Närke ở phía tây tỉnh Sưrmland, cách một cái hồ lớn là hồ Hjälmar.
[66] Dặm là đơn vị cổ ở châu Âu bằng 4,444 mét.
[67] Norrland là xứ Bắc, gồm mấy tỉnh ở phía bắc miền đồng bằng Thụy Điển; còn miền đồng bằng là nam phần của đất nước ấy, thì gồm những tỉnh mà Nils đã bay qua, cùng với tỉnh Västmanland đang đến và mấy tỉnh sắp bay đến nữa.
[68] Phá là một vùng nước lớn có lối thông ra biển.
[69] Mälar là cái phá nổi tiếng từ thủ đô Stockholm, ăn xa vào nội địa; Dalarna là tỉnh nổi tiếng đẹp ở phía tây bắc tỉnh Västmanland.
[70] Sắt là nguồn lợi lớn nhất của Thụy Điển xưa nay, nổi tiếng khắp thế giới.
[71] Uppland trên bờ biển Baltic là tỉnh nằm bên phía đông miền trung Thụy Điển.
[72] Bergslagerna là một trong ba vùng mỏ sắt lớn của Thụy Điển. Từ thế kỉ XII Thụy Điển đã khai mỏ ở đấy và cung cấp phần lớn sắt cho thế giới đến giữa thế kỉ XVIII.
[73] Sông Dalälv là một trong những sông dài của Thụy Điển, chảy ra biển Baltic qua suốt tỉnh Dalarna, đào ra những thung lũng rất đẹp làm cho tỉnh này có thiên nhiên ngoạn mục nhất Thụy Điển. Tên Dalarna có nghĩa là “những thung lũng”.
[74] Xem lại chương XIII.
[75] Ở Thụy Điển có phong tục rất lâu đời: người ta tin là đêm thứ bảy của tuần lễ thánh, tức là đêm hôm trước lễ Phục sinh, tất cả mọi mụ phù thủy đều đến khai hội ở Blåkulla, bởi vậy khắp nơi đều đốt lửa lên để làm cho các phù thủy khiếp sợ.
[76] Dalarna là tỉnh nổi tiếng có nhiều nhà thờ đẹp; nhà thờ ở Rättvik được đặt tên là “cô dâu quỳ gối”, nhà thờ ở Leksand tường toàn lát gỗ sơn màu thanh thiên được coi là xinh đẹp nhất thế giới.
[77] Bãi rạn là bãi đá nổi ngoài biển, sàn sàn với mặt biển.
[78] Trong nguyên tác là “Lông Tơ Mịn”. Các tiểu đề trong chương này cũng do người dịch đặt.
[79] Sương khói là sương nhẹ và mỏng hơn sương mù nhiều, sinh ra những buổi sáng hay buổi chiều mà trời ẩm, do hơi nước bốc lên từ các mặt sông hồ, đồng ruộng, rừng cây.
[80] Stockholm, vẫn được người Thụy Điển gọi là “Thành Phố Bơi Trên Nước”.
[81] Vườn Skansen hiện còn là một trong những kì quan của Stockholm.
[82] Bài nhạc để cho người ta nắm tay nhau mà nhảy thành vòng tròn.
[83] Cơ-rao là đơn vị tiền tệ Thụy Điển.
[84] Tôn trưởng là người bề trên già cả đáng tôn kính.
[85] Ônđin là những thần nam, thần nữ ở dưới nước, trong thần thoại Đức và Bắc Âu.
[86] Dòng tu sĩ Cơ đốc giáo sống thanh bần, được gọi là dòng “hành khất”, do thánh Đôminicô, người Tây Ban Nha, lập năm 1215 để truyền đạo, chống lại các phái ngụy giáo.
[87] Dòng “hành khất” khác do thánh Fransexcô, người Ý, lập năm 1209.
[88] Nữ thánh Clara (1193-1253), người Ý, lập ra dòng nữ tu cũng thuộc dòng thánh Fransexcô.
[89] Thánh George là vương chủ ở Tiểu Á, tuẫn đạo năm 303, dưới thời thống trị của đế quốc La Mã; giáo đường này dựng lên hiện cho thánh George để cầu sự bảo hộ của thánh.
[90] Xaga là những truyện cổ khuyết danh bằng văn xuôi truyền tụng trong dân gian ở Bắc Âu từ trước thế kỉ XII đến ngày nay, thuật lại sự nghiệp của các anh hùng dân tộc Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch.
[91] Vị tôn trưởng tả đây chính là Oscar II, quốc vương Thụy Điển từ 1872 đến 1907; năm mà S. Lagerlưf tả trong sách này, thì vua còn trị vì, và đã bảy mươi bảy tuổi, năm sau mới băng hà.
[92] Miên liễu là một giống liễu ở xứ lạnh, mà cành non dùng để đan sọt và bện dây.
[93] Gà ở núi cao và lạnh thường có tuyết, nên chân cũng mọc đầy lông để chống rét, thịt rất ngon.
[94] Lemming là một con thú gặm nhấm ở xứ lạnh, rất nhiều ở Bắc Âu, gần giống con chuột đồng.
[95] Cá hương mình dài có lấm chấm, ở các sông hồ và vùng nước mặn của châu Âu được xem là một món ăn quý.
[96] Đại bàng chúa là dòng giống đại bàng to lớn nhất trong tất cả các loài đại bàng.
[97] Trong nguyên tác là “Qua tỉnh Gästrikland”.
[98] Tỉnh Gästrikland ở giữa hai tỉnh Uppland và Hälsingland.
[99] Quốc kỳ Thụy Điển, nền xanh có hai băng ngang, dọc màu vàng.
[100] Thạch thảo và nham lê là những loài cây mọc thành bụi thấp ở những nơi đất hoang, trông giống rành rành, đào kim nhưỡng thì cùng họ với các loài sim, mua.
[101] Địa y là những thực vật gồm một loài tảo và một loài nấm cộng sinh với nhau, thường mọc trên đá, ở xứ lạnh gần Bắc cực. Đó là thức ăn của các loài nai phương Bắc, mà người Lapps nuôi để kéo xe trượt, vắt sữa, ăn thịt, uống máu và lấy da, lấy gạc.
[102] Quả phúc bồn tương tự quả mâm xôi bên ta; việt quất là một loài cây tương tự cây sim, quả chua mà ngon, ăn rất mát.
[103] Trong nguyên tác là “Một ngày ở tỉnh Hälsingland.”
[104] Trong nguyên tác: “Ở tỉnh Medelpad”.
[105] Từ tỉnh Hälsingland lên phía bắc thì phải qua các tỉnh Medelpad, rồi Ångermanland, sau cùng mới đến tỉnh Västerbotten.
[106] Ngày trước gỗ rừng Thụy Điển khai thác được đều thả trôi trên các dòng sông về nhà máy hay bến tàu để xuất khẩu. Ngày nay hoàn toàn chở bằng ôtô và xe lửa.
[107] Vịnh Bothnia là phần phía bắc của biển Baltic, nằm giữa lãnh thổ hai nước Thụy Điển và Phần Lan.
[108] Rừng là nguồn lợi rất lớn của Thụy Điển, phủ khoảng 78% diện tích toàn quốc, cho người nước này xuất khẩu một phần tư bột giấy, một phần bảy giấy và một phần tám gỗ xẻ của toàn thế giới.
[109] Trong nguyên tác: “Tỉnh Västerbotten và xứ Lapland”.
[110] Trong nguyên tác: “Một buổi sáng ở tỉnh Ångermanland”
[111] Linh miêu là vật ăn thịt thuộc họ mèo, mà người ta cho là có đôi mắt rất tinh, cái nhìn rất sắc.
[112] Hồ đào là những cây cao to ở các rừng ôn đối, gỗ cứng và bóng đẹp, quả nhỏ ăn ngon; phơi khô ép dầu cũng ngon.
[113] Bánh ngọt làm bằng bột mì thật mịn với bơ và trứng.
[114] Cây trăn cùng họ với cây hạt dẻ, mọc những nơi ẩm ướt ở ôn đới, gỗ xốp. Cây bạch dương mọc ở nơi khí hậu lạnh, gỗ trắng, nhựa có thể dùng nấu đường.
[115] Mê diệt là loài cây bụi, thường mọc ở các rừng thưa ôn đới, lá thơm, hoa nhỏ có tính kích thích.
[116] Thanh lương trà là một loài cây xứ lạnh, họ hoa hồng, gỗ cứng và trái nhỏ, mọc từng chùm, dùng để ngâm rượu.
[117] Cây hương mộc thân có bấc và hoa thơm, dùng làm thuốc tẩy rất mạnh; cây kim tước thuộc loài hoa bướm, có hoa mọc từng chùm màu vàng rất đẹp, trồng làm cảnh; cây anh đào hoang có quả giống quả sơri, gỗ nhẹ có thể đóng bàn ghế nhỏ; cây đinh hương có hoa thơm, đủ các màu: trắng, xanh nhạt, đỏ nhạt, tía, nở vào mùa xuân.
[118] Sông Daläl là một trong những sông dài ở miền trung Thụy Điển.
[119] Bố mẹ của Nils và Vemmenhưg là quê của họ.
[120] Nils đã lên phía bắc, quá vòng Bắc cực ở vĩ tuyến 66038 rồi, và bắt đầu thấy mặt trời không lặn trong các đêm mùa hè.
[121] Sồi là loài cây phổ biến ở các rừng ôn đới có khí hậu ẩm, cao từ hai mươi đến ba mươi mét, gỗ cứng, rất tốt, dùng làm nhà cửa, vỏ để thuộc da. Cây dẻ gai cùng họ với cây sồi, nhưng cao hơn.
[122] Tiểu mạch là loại lúa mì ngon nhất.
[123] Svealand là miền trung Thụy Điển, khí hậu đã bắt đầu lạnh rồi.
[124] Norrland là miền bắc Thụy Điển, trời đã rét lắm.
[125] Kiều mạch là loại lúa mì trồng chủ yếu để nuôi ngựa.
[126] Lapland là miền cực bắc Thụy Điển, hết sức rét, quê hương của những người Lapps chuyên nuôi hươu phương Bắc.
[127] Đại mạch là loài lúa mì chịu rét giỏi nhất, có thể trồng xa nhất lên phía bắc.
[128] Hươu phương Bắc là vật sống trên đồng rêu gần Bắc cực, người Lapps nuôi để kéo xe, ăn thịt, lấy sữa, lấy da, lấy gạc làm đồ dùng.
[129] Tùng bách đều thuộc họ cây lá nhọn hay lá kim mọc thành rừng lớn ở khí hậu thật lạnh.
[130] Sương mù gặp lúc lạnh dưới độ không, đông lại thành tuyết.
[131] Quỷ lùn trong thần thoại Bắc Âu gọi là troll, chuyên ở những khe núi sâu, giữ những kho tàng hầm mỏ dưới đất, không làm hại ai.
[132] Giấc mơ của Nils cùng cây cỏ và thú vật đi theo mặt trời lên Lapland, là một bài học địa lí về phân bố các sinh vật trên đất nước Thụy Điển theo khí hậu từ Nam lên Bắc.
[133] Digan là những người dân lưu vong, sống lang thang không nguyên quán, trú quán, ở khắp các nước Âu châu, thường làm nghề hát rong và bói toán.
[134] Xem lại chương XV.
[135] Từ tỉnh Småland ở miền nam Thụy Điển lên mỏ Malmberg ở cực bắc nước ấy, đường ngắn nhất cũng gần hai nghìn kilômet.
[136] Nạn dịch hạch xảy ra ở châu Âu từ năm 1348 đến 1350, làm chết có lẽ đến một phần ba dân số; có vùng chết đến một nửa, là nạn dịch khủng khiếp nhất trong lịch sử; người chết thân hình đen lại nên gọi là “dịch đen”.
[137] Lễ Thánh Gioan hàng năm đúng vào ngày 24 tháng sáu là lúc nhiệt độ cao nhất trong năm; đáng lẽ tuyết đã phải tan hết cả rồi, nhưng ở đây vẫn còn lạnh lắm.
[138] Xơ là danh hiệu gọi những phụ nữ tu hành theo đạo Cơ Đốc, phần nhiều họ mở trường dạy học hay làm y tá, hộ lí không lương ở các bệnh viện.
[139] Lulể là một thành phố và hải cảng lớn của cả miền Bắc Thụy Điển ở trên vịnh Bothnia, cách khu mỏ Malmberg gần hai trăm rưỡi kilômet.
[140] Lễ ban thánh thể của đạo Gia Tô là lễ ban cho con chiên được hưởng máu thịt, linh hồn và thánh đức của chúa Giêsu bằng cách cho ăn bánh thánh và uống rượu lễ.
[141] Người Lapps từ châu Á đến ở đất Thụy Điển có lẽ từ trước Công nguyên, họp thành một tộc thiểu số, đến nay còn độ vạn rưỡi dân, chuyên sống về nghề nuôi hươu phương Bắc. Họ ở tỉnh xa nhất trên phía bắc là Lapland, nghĩa là xứ của người Lapps.
[142] Vùng chung quanh núi Kirunavara là vùng mỏ sắt lớn nhất của Thụy Điển, cách Malmberg trên một trăm kilômet.
[143] Thành phố mỏ Kiruna ở tận tuyến 680 Bắc quá vòng cực bắc hơn một trăm rưỡi kilômet, sau lễ Thánh Gioan 24 tháng sáu có nhiều ngày hai mươi bốn giờ liền, mặt trời không lặn.
[144] “Cái chết đen” cũng là cách gọi nạn dịch đen năm 1348-1350.
[145] Tỉnh Jämtland ở phía nam tỉnh Lapland.
[146] Mùa đông từ vòng cực Bắc trở lên, có những đêm dài hai mươi bốn giờ, mặt trời không lên khỏi chân trời; đến mùa hè mặt trời mới hiện ra, và nhiều ngày không lặn nữa.
[147] Đó là tên những ngọn núi cao của Thụy Điển, trên miền bắc, thuộc tỉnh Lapland; núi Särjaktjokko 2090 mét, cao thứ nhì nước này sau núi Kebnekaise. Đàn ngỗng trời sinh ra ở các núi này.
[148] Kebnekaise là ngọn núi cao nhất nước Thụy Điển, 2135 mét, ở tỉnh Lapland, tận cùng nước Thụy Điển về phía bắc, nơi sinh ra Akka. Dòng băng là do tuyết vĩnh viễn ở núi cao xứ lạnh không tan mà rắn lại thành nước đá rồi trôi hết sức chậm xuống các chân núi: đến đâu mà nhiệt độ trên độ không thì tan ra và nước chảy thành suối.
[149] Gấu ở xứ lạnh, ngủ suốt mùa đông để tránh rét.
[150] Trong nguyên tác: “Truyện cổ tỉnh Härjedalen”.
[151] Núi Städjan ở phía tây - bắc tỉnh Dalarna, cao 1131 mét.
[152] Tỉnh Värmland ở phía tây-nam tỉnh Dalarna và phía tây tỉnh Västmanland, là quê hương của tác giả, có sông Klarälv chảy qua và đổ vào hồ Venern.
[153] Người Phần Lan ở Thụy Điển họp thành một tộc thiểu số, cư trú trong các miền rừng núi.
[154] Tác giả tả chính cái trại của gia đình mình, nơi mình ra đời và sống trong thời thơ ấu.
[155] Mårbacka là tên cái trại của gia đình Selma Lagerlưf. Kỉ niệm thời thơ ấu ở trại ấy, sau về già tác giả có viết lại thành cuốn hồi kí Mårbacka.
[156] Lễ Phục Sinh của đạo Cơ Đốc kỉ niệm ngày chúa Giêsu sống lại sau khi bị hành hình, hàng năm xê dịch từ ngày 22 tháng ba đến ngày 25 tháng tư. Lễ Thánh Gioan kỉ niệm vị thánh đã rửa tội cho Chúa Giêsu, hàng năm cử hành vào ngày 24 tháng sáu.
[157] Trại Mårbacka của gia đình tác giả, vì nghèo túng, chị của Selma đã bán cho người ta từ năm 1885 lúc em còn đi học, đến khi viết truyện này thì đã ngoài hai mươi năm rồi. Lòng nhớ thương nhà cũ mà Selma tả ở đây là rất chân thực.
[158] Năm viết truyện này Selma Lagerlưf đã bốn mươi tám tuổi.
[159] Lá đỗ tùng thái nhỏ rắc xuống sàn nhà để cho thơm, đuổi mùi ẩm thấp trong những ngày thu ướt át.
[160] Tiết đại thử ở vùng ôn đới là từ 22 tháng bảy đến 23 tháng tám.
[161] Loại xúc xích to có bỏ nhiều gia vị.
[162] Nến là vật tiêu biểu nhất của lễ Giáng Sinh đối với người Thụy Điển, trước ngày lễ độ một tháng người ta đã giết bò lấy mỡ, rồi nấu cho chảy ra để đúc nến ở mỗi nhà.
[163] Nữ Thánh Lucia tuẫn đạo năm 304, là Thánh bảo trợ những người thợ may, lễ vào ngày 13 tháng chạp.
[164] J.L. Runeberg (1804-1877) nhà thơ Phần Lan, và E. Tegner (1788- 1846) nhà thơ Thụy Điển, đều là tác giả của nhiều thơ trữ tình và ái quốc nổi tiếng.
[165] Mạt lê là một thứ hoa rất thơm, như hoa nhài.
[166] Cương cầm là kiểu dương cầm cổ, tiếng nhỏ.
[167] Truyện truyền văn là truyện nghe người ta kể miệng.
[168] Selma Lagerlưf đã tả lại đời sống thật của mình trong thiếu thời, ở trại Mårbacka ngày trước, một cách rất trữ tình.
[169] Bà cầu xin thân phụ có cách gì giúp bà được trở về nhà cũ. Cuốn truyện về Nils bà viết xong năm ấy, thì được giải nhất do chính phủ Thụy Điển tặng; năm sau bà được trường đại học Uppsala, lớn nhất nước Thụy Điển phong học hàm tiến sĩ; hai năm sau được viện Hàn lâm Thụy Điển tặng giải thưởng Nobel văn chương; tiền các giải thưởng ấy cho phép bà thực hiện ước mong nhiệt thành nhất của bà: chuộc lại trại Mårbacka đã bán cho người ta từ một phần tư thế kỉ.
[170] Värmland, Dalsland và Bohuslän là ba tỉnh miền tây nam Thụy Điển.
[171] Rạn là bãi đá ngầm hay sát mặt nước ở ngoài biển.
[172] Skåne là tỉnh cuối cùng của Thụy Điển ở phía nam, trên bờ biển Baltic trông sang Đan Mạch và Đức; đó là quê hương của Nils.
[173] Ưresund giữa tỉnh Skåne và nước Đan Mạch, là lối thông từ biển Baltic ra Bắc Hải.
[174] Thánh Mårten sống trong thế kỉ IV, rất thương người, lễ ngày 11 tháng mười một hàng năm.
[175] Thôn Smyge có mũi Smygahưk là phần đất tận cùng của Thụy Điển ở phía nam.
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils - Selma Lagerlöf Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils