Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 41: Kebab
Q
ua đêm thì tuyết tan. Astrid Monsen vừa ra khỏi tòa nhà và băng qua mặt đường nhựa đen, ướt át tới phố Bogstadveien thì thấy anh chàng cảnh sát tới vàng vỉa hè đối diện. Mạch đập của chị ta, cũng giống như tốc độ chân bước, tăng vọt. Chị ta cắm cúi nhìn về phía trước, hy vọng anh cảnh sát không phát hiện thấy mình. Những tấm ảnh Alf Gunnerud đăng trên báo và cánh điều tra viên cứ lên lên xuống xuống cầu thang suýt nhiều ngày phá rối lịch làm việc lặng lẽ hằng ngày của chị ta. Nhưng giờ thì xong rồi, chị ta đã tự nhủ.
Chị ta hấp tấp đi về phía vạch sang đường dành cho người đi bộ. Tới tiệm bánh Hansen. Tới đó là thoát. Uống tách trà và ăn cái bánh rán tại cái bàn sau quầy thu ngân, nằm thẳng góc cuối quán cà phê dài và hẹp đó. Ngày nào cũng vậy, đúng 10 rưỡi.
“Trà và bánh rán ạ?”
“Vâng, làm ơn.”
“Hết 38 krone.”
“Của bà đây.”
“Cảm ơn cô.”
Đó hầu như là cuộc trò chuyện dài nhất trong ngày của chị ta với một người khác.
Mấy tuần qua, mỗi khi tới chị ta lại thấy một người đàn ông lớn tuổi ngồi tại bàn đó, và mặc dù vẫn có mấy bàn trống, đó là cái bàn duy nhất chị ta ngồi được bởi vì… không, lúc này dù ta không muốn nghĩ về những chuyện như thế. Tuy vậy, dù ta buộc lòng phải tới sớm hơn mười lăm phút để chiếm cái bàn đó trước. Hôm nay, việc đó đúng là vừa khéo vì nếu không, lúc anh ta bấm chuông chắc chị ta vẫn còn đang nhà. Và chị ta sẽ phải ra mở cửa. Chị ta đã hứa với mẹ. Kể từ cái lần chị ta không chịu nghe điện thoại hoặc ra mở cửa khi có chuông suốt hai tháng trời, rồi cuối cùng thì cảnh sát tới và bà mẹ đã dọa bắt chị ta trở lạ bệnh viện tâm thần.
Chị ta không nói dối mẹ.
Còn với những người khác thì có. Chị ta nói dối họ suốt. Khi nói chuyện điện thoại với các nhà xuất bản, khi đi mua hàng và chát qua mạng. Nhất là trên mạng. Chị ta có thể giả vờ là bất cứ ai, một nhân vật nào đó trong những cuốn sách mà chị ta từng dịch, hay là Ramona, người đàn bà lang chạ, suy đồi nhưng can đảm vốn chính là con người chị ta hồi trẻ. Astrid phát hiện ra Ramona từ hồi còn nhỏ. Cô ta là một vũ công, có mái tóc đen dài và cặp mắt nâu hình quả hạnh. Astrid thường vẽ Ramona, nhất là đôi mắt, nhưng phải lén lút vì mẹ sẽ xé tan những bức vẽ ấy và bảo rằng bà không muốn thấy cái ngữ mất nết đó trong nhà bà. Ramona đã biến mất nhiều năm, rồi lại trở về, và Astrid nhận ra rằng Ramona đã bắt đầu thế chỗ như thế nào khi chị ta viết thư cho những nhà văn nam mình dịch. Sau những lời đầu hỏi han về ngôn ngữ và văn hóa, chị ta thích viết những email thân mật hơn, và sau vài email như vậy thì các chàng văn nhân Pháp sẽ nài nỉ được gặp chị ta. Khi họ tới Oslo để ra mắt sách. Vả lại, chỉ riêng chị ta cũng đủ là lý do để họ sang Na Uy. Nhưng chị ta sẽ luôn từ chối, dù có vẻ như điều đó chẳng khiến kẻ theo đuổi nhụt chí, mà ngược lại thì hơn. Giờ đó được coi là hoạt động văn học của chị ta; sau khi giấc mộng xuất bản những cuốn sách do chính mình viết đã sụp đổ từ vài năm trước Một người tư vấn xuất bản cuối cùng đã xả một tràng trên điện thoại, rít lên rằng anh ta không chịu nổi “cái kiểu nhặng xị phát rồ” của chị ta thêm một phút nào nữa; chẳng độc giả nào thèm trả tiền để chia sẻ những suy nghĩ của chị ta đâu, ngoại trừ một bác sĩ tâm lý, nhưng thế thì chị ta phải mất phí.
“Chị Astrid Monsen!”
Chị ta cảm thấy cổ họng mình thắt lại và thấy hoảng hốt trong giây lát. Chị ta không muốn gặp vấn đề về hô hấp ngay ngoài đường thế này. Thấy đèn đỏ, chị ta định sang đường. Lẽ ra chị ta đã có thể thoát, nhưng chị ta sẽ chẳng bao giờ sang đường khi đèn đỏ.
“Chào chị, tôi đang đến gặp chị đây,” Harry Hole đã đuổi kịp chị ta. Anh vẫn có cái vẻ mặt bị săn đuổi và cặp mắt vần đỏ ấy. “Tôi xin nói trước là tôi đã đọc báo cáo của thanh tra Waaler về cuộc nói chuyện của anh ta với chị. Tôi hiểu là chị đã nói dối tôi vì quá sợ hãi.”
Chị ta có thể cảm thấy mình sẽ sớm bị thở gấp.
“Quả là cực kỳ thiếu chuyên nghiệp khi tôi đã không nói ngay với chị về vai trò của tôi trong toàn bộ câu chuyện đó,” anh chàng cảnh sát nói.
Chị ta nhìn anh, sửng sốt. Nghe giọng anh có vẻ hối lỗi thật.
“Còn tôi đã đọc thấy báo viết rằng kẻ phạm tội đã bị tóm,” chị ta nghe thấy mình nói vậy.
Họ đứng đó, nhìn nhau trân trân.
“Ý tôi là đã chết,” chị ta nói thêm, giọng khẽ khàng.
“Ừm,” anh nói, mỉm cười ngập ngừng. “Có lẽ chị sẽ không thấy phiền nếu trả lời giúp tôi vài câu hỏi chứ?”
Đó là lần đầu tiên chị ta không ngồi một mình ở cái bàn trong quán bánh Hansen. Cô gái đứng sau quầy tươi cười với chị ta kiểu “biết rồi nhá” giữa những cô bạn gái, như thể người đàn ông cao lớn đi với chị ta là một người tháp tùng vậy. Vì trông anh đúng như vừa bước từ giường ra, có lẽ cô gái đó thậm chí còn nghĩ rằng… không, lúc này chị ta không muốn ấp ủ cái ý tưởng đó.
Họ ngồi xuống và anh đưa cho chị ta một xấp giấy in một vài email mà anh muốn chị ta đọc. Liệu chị ta, với tư cách là một nhà văn, có thể giải mã xem chúng được viết bởi đàn ông hay là phụ nữ không? Chị ta xem. Với con mắt của một nhà văn, như anh bảo. Liệu chị ta có nên nói với anh sự thật? Chị ta nâng tách trà lên để anh không thể thấy mình đang mỉm cười trước ý nghĩ đó. Đương nhiên là không rồi. Chị ta sẽ nói dối.
“Khó nói lắm,” chị ta nói. “Đây có phải là truyện hư cấu không?”
“Vừa có lại vừa không,” Harry nói. “Chúng tôi nghĩ rằng kẻ giết Anna Bethsen đã viết.”
“Vậy thì phải là đàn ông.”
Harry nhìn chằm chằm xuống mặt bàn, và chị ta liếc trộm anh một cái. Anh không đẹp trai, nhưng có gì đó cuốn hút. Nói nghe có vẻ khó tin, nhưng chị ta nhận thấy điều đó ngay từ lúc nhìn thấy anh nằm trên đầu cầu thang ngoài cửa nhà mình. Có khi vì chị ta đã uống nhiều hơn mọi khi một ly Cointreau, nhưng lúc đó đúng là chị ta nghĩ trong anh thật thanh thản, gần như là đẹp trai, khi anh nằm đó như một chàng hoàng tử đang say ngủ mê người nào đã đặt trước cửa nhà chị ta. Những món đồ trong túi quần túi áo anh đã văng ra khắp cầu thang, và chị ta đã nhặt từng thứ một. Chị ta thậm chí còn xem trộm ví của anh để tìm tên và địa chỉ.
Harry ngước mắt lên khiến chị ta vội nhìn lảng đi chỗ khác. Liệu có thể nào chị ta đã thích anh không? Đương nhiên rồi. Vấn đề là ở chỗ anh sẽ không thích chị ta. Cái tính thích nhặng xị. Những nỗi sợ vô căn cứ. Những tiếng nức nở. Anh sẽ không thích những thứ ấy. Anh muốn những người đàn bà như Anna Bethsen. Như Ramona.
“Chị chắc là không nhận ra cô ta chứ?” anh hỏi chậm rãi.
Chị ta nhìn anh với vẻ kinh hoàng. Chỉ tới lúc đó chị ta mới nhận ra là anh đang giơ một tấm ảnh lên. Anh đã từng cho chị ta xem tấm ảnh này. Một người đàn bà và hai đứa trẻ con trên bãi biển.
“Ví dụ như, vào cái đêm xảy ra án mạng chẳng hạn.”
“Tôi chưa từng thấy cô ta bao giờ,” Astrid Monsen nói quả quyết.
○○○
Tuyết lại bắt đầu rơi. Những bông tuyết to, ướt át, chưa rơi xuống khoảng đất nâu giữa Sở Cảnh sát và nhà từ Botsen thì đã xám xỉn và bẩn thỉu. Weber để lại lời nhắn trong văn phòng của anh. Nó khẳng định những nghi ngờ của Harry là đúng, chính những nỗi nghi ngờ đã khiến anh nhìn mấy cái email đó theo cách mới. Tuy nhiên, lời nhắn ngắn gọn của Weber vẫn khiến anh thấy sốt. Một cơn sốc đã được lường trước.
Harry đã gọi điện suốt khoảng thời gian còn lại của ngày hôm đó, thỉnh thoảng chạy qua chạy lại cái máy fax. Trong giờ nghỉ, anh ngồi nghiền ngẫm, xếp viên gạch này lên viên gạch khác và cố gắng không nghĩ về điều mà anh đang tìm kiếm. Nhưng nó đã quá rõ ràng. Cái tàu lượn siêu tốc này có thể lao lên, đổ xuống, rồi lượn vòng vèo bao nhiêu tùy thích, nhưng nó cũng giống như những cái tàu lượn siêu tốc khác - nó sẽ dừng lại tại chính điểm khởi hành.
Khi Harry ngừng nghĩ ngợi và gần như toàn bộ bức tranh đã hiện rõ, anh ngả lưng ra ghế. Anh không hề có chút cảm giác chiến thắng nào, mà chỉ thấy trống rỗng.
Rakel không hỏi gì khi anh gọi điện báo cô đừng chờ anh. Sau đó, anh đi lên cầu thang tới căng tin rồi lên sân thượng trên nóc nhà, nơi có vài người đang đứng run rẩy hút thuốc. Những ngọn đèn của thành phố đang nhấp nháy bên dưới họ trong ánh sáng ảm đạm đầu buổi chiều. Harry châm một điếu thuốc, vuốt một bàn tay dọc theo bức tường rồi nắm một nắm tuyết. Vo lại. Nén thật chặt, rồi ép nó giữa lòng bàn tay, siết đến khi chỗ băng tan chảy qua kẽ ngón tay anh. Rồi anh ném nó xuống thành phố. Anh nhìn theo quả bóng tuyết lấp lánh trong lúc nó rơi xuống, mỗi lúc một nhanh, đến khi nó biến mất vào khoảng không xám và trắng.
“Trong lớp tôi có một đứa tên là Lugwig Alexander,” Harry nói to.
Những người đứng hút thuốc giẫm chân xuống đất rồi nhìn anh chàng thanh tra.
“Nó có khiếu ngôn ngữ và được đặt biệt danh là Kebab. Vì, có lần trong giờ tiếng Anh, nó ngớ ngẩn tới độ bảo giáo viên là nó thích từ ‘barbecue’ viết là ‘BBQ’ vì viết ngược lại sẽ là kebab. Khi tuyết rơi, cứ đến giờ nghỉ giải lao là các lớp lại bốc tuyết vo lại ném nhau. Kebab không muốn tham gia, nhưng bọn tôi ép nó. Đó là trò duy nhất bọn tôi cho nó tham gia. Làm bia đỡ đạn. Nó ném tệ đến mức cố lắm chỉ được vài cú lốp yếu ớt. Lớp kia có thằng Gầm, một thằng béo ị chơi bóng ném cho đội tuyển của Oppsal. Nó thường đánh bạt những quả cầu tuyết của Kebab đi và lấy làm khoái chí, ném lại thằng bạn túi bụi đến thâm tím cả người bằng những cú ném dưới tầm vai. Một hôm, Kebab nhồi một hòn đá to bên trong một quả cầu tuyết và ném cao hết sức có thể. Gầm mỉm cười nhảy lên và giơ đầu ra đỡ. Âm thanh đó nghe như tiếng đá va vào đá trong một vũng nước nông, vừa cứng lại vừa mềm. Đó là lần duy nhất tôi thấy một cái xe cấp cứu trong sân trong.”
Harry rít một hơi thuốc thật sâu.
“Trong phòng giáo viên, người ta tranh luận suốt mấy ngày về việc liệu có nên phạt Kebab hay không. Suy cho cùng, nó có ném quả cầu tuyết đó vào ai đâu, vì vậy câu hỏi đặt ra là: liệu người ta có đáng bị trừng phạt vì đã không nghĩ cho một thằng ngu cư xử như một thằng ngu?”
Harry dụi tắt điếu thuốc rồi đi vào trong.
Đã hơn bốn rưỡi. Gió lạnh đã thổi mạnh hơn trong khoảng không trống trải kéo dài từ sông Akerselva tới ga tàu điện ngầm ở quảng trường Gronlands. Đám học trò và những người về hưu đã vãn, nhường chỗ cho những người phụ nữ và đàn ông mặt kín bưng và cà vạt thắt chặt đang vội vã về nhà sau giờ làm. Harry va vào một người trong lúc chạy xuống cầu thang để vào ga tàu điện ngầm khiến tiếng chửi thề vang vọng giữa các bức tường và đuổi theo anh. Anh dừng lại trước cái cửa sổ giữa hai nhà vệ sinh. Vẫn là cái bà lớn tuổi đã ngồi ở đó lần trước.
“Tôi phải nói chuyện với Simon ngay lập tức.”
Đôi mắt nâu thản nhiên của bà ta nhìn anh chằm chằm.
“Anh ta không còn ở Toyen nữa,” Harry nói.
“Mọi người đi hết rồi.” Người phụ nữ nhún vai, lúng túng.
“Bảo là Harry cần gặp.”
Bà ta lắc đầu và xua anh đi.
Harry cúi xuống ghé sát vào tấm kính ngăn cách giữa họ. “Bảo là spiuni gjerman muốn gặp.”
Simon lái xe vào phố Ennebakkveien thay vì đi qua đường hầm Ekeberg dài ngoằng.
“Anh biết không, tôi chẳng thích đi đường hầm chút nào,” anh ta giải thích lúc họ bò lên con đường ven núi với tốc độ chậm hơn rùa đúng vào giờ tan tầm của buổi chiều.
“Vậy là hai anh em đã cùng nhau bỏ trốn tới Na Uy và lớn lên trong cái nhà lưu động đó để rồi tan vỡ vì cùng yêu một cô gái?” Harry hỏi.
“Maria sinh ra trong một gia đình đáng kính thuộc tộc Lovari. Họ sống ở Thụy Điển và cha cô ta là vua của các tộc người Di gan ở đó. Cô ta đã lấy Stefan và chuyển tới Oslo sống khi mới mười ba tuổi còn anh ta mười tám. Stefan yêu vợ đến mức sẵn sàng chết vì cô ta. Anh biết đấy, lúc đó Raskol đang trốn bên Nga. Không phải trốn cảnh sát, mà là trốn một nhóm người Anbani gốc Kosovo ở Đức nghĩ rằng anh ta đã lừa họ trong một vụ làm ăn nào đó.”
“Làm ăn ư?”
“Họ tìm thấy một cái xe móc trống không vứt bên lề một xa lộ ở gần Hamburg.” Simon mỉm cười.
“Nhưng Raskol đã trở về?”
“Một ngày nắng đẹp tháng Năm, anh ta trở về Toyen. Đó là lần đầu tiên Raskol và Maria trông thấy nhau.” Simon bật cười. “Lạy Chúa, cái cách họ nhìn nhau. Tôi phải ngó lên trời xem có phải sấm sét sắp nổ ra không, vì không khí lúc đó căng như dây đàn.”
“Vậy là họ đã phải lòng nhau?”
“Ngay tức khắc. Trước mặt bao nhiêu người. Đám phụ nữ còn cảm thấy ngượng.”
“Nhưng nếu như chuyện đó rõ ràng đến vậy thì họ hàng phải phản ứng chứ, phải không?”
“Họ không nghĩ chuyện đó nguy hiểm đến thế. Đừng quên là chúng tôi kết hôn sớm hơn các anh. Chúng tôi không thể ngăn cản đám trẻ được. Họ si mê nhau. Mười ba, anh có thể tưởng tượng được đấy…”
“Tôi có thể.” Harry xoa gáy.
“Nhưng anh cũng thấy đấy, trường hợp này khá nghiêm trọng. Cô ta đã lấy Stefan nhưng lại yêu Raskol ngay từ ngày đầu gặp mặt. Và dù sống cùng Stefan trong nhà lưu động của họ, nhưng cô ta vẫn thường xuyên giáp mặt Raskol, vốn ở lì đó suốt. Rồi lửa gần rơm. Khi Anna chào đời, chỉ có Stefan và Raskol không biết Raskol chính là cha đẻ của con bé.”
“Tội nghiệp cô ấy.”
“Và tội nghiệp cả Raskol nữa. Người duy nhất hạnh phúc là Stefan. Anh biết không, mặt anh ta vênh lên đến ba mét ấy. Anh ta bảo Anna xinh đẹp y như bố nó.” Simon cười buồn. “Lẽ ra mọi chuyện đã có thể tiếp diễn như vậy. Nếu như Stefan và Raskol không quyết định đi cướp ngân hàng.”
“Và vụ đó đổ bể?”
Dòng xe dịch chuyển về phía ngã tư Ryen.
“Có ba người thực hiện vụ cướp đó. Stefan là người lớn tuổi nhất, vì vậy anh ta là người đầu tiên đi vào và là người cuối cùng chạy ra. Trong lúc hai người kia ôm tiền chạy đi lấy xe tẩu thoát thì Stefan ở lại bên trong ngân hàng, giương súng lên để người ta không bấm chuông báo động. Nhưng họ là dân nghiệp dư, thậm chí không hề biết rằng ngân hàng đó có báo động câm. Khi hai người kia lái xe đến đón Stefan thì anh ta đã nằm bẹp trên chốc mui một chiếc xe cảnh sát. Một viên sĩ quan đã còng tay anh ta lại. Raskol lái xe. Anh ta mới mười bảy và thậm chí còn chưa có bằng lái. Anh ta hạ cửa kính xe xuống. Với ba nghìn krone vứt băng ghế sau, anh ta đã lái rất chậm qua chỗ chiếc xe cảnh sát nơi anh trai đang giãy giụa trên mui xe. Rồi Raskol và viên sĩ quan đó nhìn vào mắt nhau. Chúa ơi, không khí lúc đó đặc quánh như lúc anh ta và Maria gặp nhau vậy. Cái nhìn của họ cứ như thể kéo dài mãi mãi. Tôi đã sợ là Raskol sẽ hét lên, nhưng anh ta không hề nói một lời nào mà cứ thế lái đi. Đó là lần đầu tiên họ trông thấy nhau.”
“Raskol và Jorgen Lønn phải không?”
Simon gật đầu. Họ rời khỏi cái bùng binh và ngoặt vào Ryen. Simon xi nhan rồi phanh xe lái bên một trạm xăng. Họ đi tới trước một tòa nhà mười hai tầng. Logo của ngân hàng Den norske nhấp nháy trên tấm bảng hiệu nê ông màu xanh nước biển bên trên lối vào gần đó.
“Stefan lĩnh án bốn năm vì đã bắn súng lên trời,” Simon nói. “Nhưng anh biết không, sau phiên tòa, một chuyện lạ lùng đã xảy ra. Raskol tới thăm Stefan nhà tù ở Botsen, và ngày hôm sau, một người lính gác bảo rằng anh ta nghĩ tù nhân mới đã thay đổi diện mạo. Cấp trên của anh ta bảo rằng chuyện đó là bình thường đối với những kẻ lần đầu vào tù. Ông này kể với cấp dưới rằng nhiều bà vợ không nhận ra chồng mình trong chuyến thăm đầu tiên nữa kia. Người lính kia cảm thấy yên tâm, nhưng vài ngày sau, có một người phụ nữ đã gọi đến nhà tù. Cô ta nói rằng họ đã giữ nhầm tù nhân. Em trai của Stefan Baxhet đã thế chỗ anh mình và họ phải thả người tù đó ra ngay.”
“Chuyện đó có thật ư?” Harry hỏi, lôi cái bật lửa ra và đưa lên đầu điếu thuốc. “Phải, thật,” Simon đáp. “Trong các tộc người Di gan ở Nam Âu, khá bình thường khi em, hay là con trai, thụ án thay cho người bị kết án, nếu những người này phải gánh vác gia đình. Giống như Stefan. Anh biết đấy, với chúng tôi, đó là vấn đề danh dự.”
“Nhưng nhà cầm quyền sẽ sớm phát hiện ra là họ đã nhầm, phải không?”
“Ha!” Simon vung cả hai tay ra. “Với các anh, dân Di gan nào cũng như nhau mà thôi. Nếu anh ta vào tù vì việc gì đó không phải do anh ta làm thì chắc chắn cũng phạm tội gì khác.”
“Ai đã gọi tới?”
“Người ta chẳng bao giờ phát hiện ra, nhưng cũng chính trong đêm đó, Maria đã biến mất. Người ta chẳng bao giờ thấy cô ấy nữa. Cảnh sát giải Raskol về Toyen lúc nửa đêm và Stefan bị lôi ra khỏi nhà lưu động, quẫy đạp và chửi thề. Anna lúc đó mới hai tuổi và đang nằm trên giường, gào thét đòi mẹ mà lại chẳng có ai, không một người đàn ông hay phụ nữ nào, có thể dỗ được con bé nín. Cho tới khi Raskol bước vào và bế con bé lên.”
Họ nhìn chằm chằm vào cửa ngân hàng. Harry liếc nhìn đồng hồ. Chỉ còn vài phút nữa là đóng cửa. “Rồi chuyện gì xảy ra sau đó?”
“Khi thụ án xong, Stefan bỏ ra nước ngoài ngay lập tức. Thỉnh thoảng tôi vẫn nói chuyện với anh ta qua điện thoại. Anh ta đi khắp nơi.”
“Thế còn Anna?”
“Con bé lớn lên trong cái nhà lưu động đó, anh biết không. Raskol đã cho nó đi học. Nó kết bạn với dân gadjo. Nhiễm những thói quen gadjo. Nó không muốn sống như chúng tôi; nó muốn làm những việc giống như bạn bè của mình - tự quyết định chuyện của mình, tự kiếm tiền và có một chỗ ở riêng. Từ lúc con bé được thừa hưởng lại căn hộ của bà ngoại và chuyển tới Sorgenfrigata, chúng tôi không còn liên hệ gì với nó nữa. Nó… ừm, đã chọn bỏ đi. Người duy nhất mà nó có bất cứ liên hệ gì là Raskol.”
“Anh có nghĩ là cô ấy biết Raskol là cha đẻ của mình không?”
Simon nhún vai. “Theo tôi được biết thì không ai hé một lời nào. Nhưng tôi chắc là con bé biết.”
Họ ngồi im lặng.
“Đây là nơi chuyện xảy ra,” Simon nói.
“Ngay trước giờ đóng cửa,” Harry nó. “Như lúc này.”
“Hẳn là anh ta đã không bắn Lønn nếu không bị buộc phải làm vậy,” Simon nói. “Nhưng anh ta phải làm việc cần làm thôi. Anh biết đấy, anh ta là chiến binh mà.”
“Không có các cung nữ cười rúc rích.”
“Gì cơ?”
“Không có gì. Stefan đang ở đâu, Simon?”
“Tôi không biết.”
Harry đợi. Họ nhìn một nhân viên ngân hàng khóa cánh cửa từ bên trong.
Harry tiếp tục đợi.
“Lần gần đây nói chuyện với tôi, anh ta gọi từ một thành phố ở Thụy Điển,” Simon nói. “Gothenburg. Tôi chỉ có thể giúp anh đến thế.”
“Tôi không phải là người anh đang giúp.”
“Tôi biết,” Simon thở dài. “Tôi biết.”
○○○
Harry tìm thấy ngôi nhà màu vàng ở phố Vetlandsveien. Đèn cả hai tầng đều bật. Anh đỗ lại, ra khỏi xe rồi đứng đó nhìn ga tàu điện ngầm. Đó là nơi cả lũ gặp nhau vào tối đầu thu để đi ăn trộm táo. Sigge, Tore, Kristian, Torkild, Øystein và Harry. Đó là một đội hình cố định. Họ đạp xe tới Nordstrand vì táo ở đó to hơn và dân nơi đó ít có khả năng quen bố mẹ họ. Sigge là đứa đầu tiên trèo qua rào còn Øystein đứng ngoài canh. Harry là đứa cao nhất nên có thể với tới những quả táo to nhất. Thế nhưng, một tối nọ, họ không thích đạp xe đi xa thế nữa bèn đi ăn trộm táo ngay trong khu nhà mình. Harry đứng bên này đường nhìn sang khu vườn đó. Cả lũ đã ních đầy túi thì anh bỗng phát hiện thấy một khuôn mặt đang nhìn chằm chằm xuống họ từ một ô cửa sổ sáng đèn ở tầng một. Không nói một lời. Đó là Kebab.
Harry mở cổng và đi thẳng tới cửa. Dòng chữ JORGEN VÀ KRISTIN LØNN được sơn trên tấm biển bằng sứ phía trên hai cái chuông. Harry bấm cái chuông trên cùng.
Beate không trả lời cho tới khi anh nhấn chuông lần thứ hai.
Cô hỏi anh có muốn uống trà không, nhưng anh lắc đầu, rồi cô đi vào bếp trong lúc anh hất giày ra ở sảnh.
“Tại sao tên cha cô vẫn ở trên tấm biển vậy?” anh hỏi khi cô cầm một cái tách đi vào phòng khách. “Để người lạ nghĩ rằng có một người đàn ông đang sống trong căn nhà này à?”
Cô nhún vai và ngồi xuống một chiếc ghế bành sâu lòng. “Chúng tôi chưa có thời gian để thay đổi nó. Tên cha tôi có lẽ đã đó lâu tới mức chúng tôi chẳng còn thấy nó nữa.”
“Ừm.” Harry áp hai lòng bàn tay vào nhau. “Nói chung đó là chuyện mà tôi đã muốn nói với cô.”
“Về tấm biển ngoài cửa ư?”
“Không. Chứng khiếm khứu. Không gửi thấy mùi xác chết ấy.”
“Ý anh là sao?”
“Hôm qua tôi đang đứng ngoài sảnh nhìn vào cái email đầu tiên nhận được từ kẻ đã giết Anna. Nó cũng giống với tấm biển ngoài cửa nhà cô. Các giác quan của tôi nhận ra nó, nhưng não thì không. Đó chính là chứng khiếm khứu. Bản in đã treo ở đó lâu đến mức tôi không còn nhìn thấy nó nữa, giống như tấm ảnh chụp hai anh em tôi. Khi tấm ảnh bị đánh cắp, tôi chỉ nhận thấy có gì khang khác, nhưng không biết đó là gì. Cô có biết tại sao không?”
Beate lắc đầu.
“Vì chẳng có chuyện gì xảy ra để khiến tôi nhìn mọi chuyện khác đi cả. Tôi chỉ nhìn thấy cái mà tôi cho là ở đó. Nhưng hôm qua, đã có một chuyện xảy ra. Ali bảo rằng anh ta từng nhìn thấy một người phụ nữ đứng quay lưng lại với anh ta bên cánh cửa tầng hầm. Đột nhiên, tôi nghĩ rằng trong suốt thời gian qua tôi đã mặc nhiên cho rằng kẻ giết Anna là đàn ông mà không hề nhận ra. Một khi hình dung nhầm về cái mà cô nghĩ là mình đang tìm kiếm thì cô sẽ không còn nhìn thấy những thứ khác mà cô tìm ra. Chuyện đó đã khiến tôi nhìn cái email bằng một cặp mắt khác.”
Lông mày Beate nhíu lại. “Ý anh là không phải Alf Gunnerud đã giết Anna Bethsen sao?”
“Cô biết trò đảo chữ chứ?” Harry hỏi. “Một trò chơi chữ. Kẻ giết Anna đã để lại một patrin cho tôi. Một dấu hiệu. Tôi đã nhìn thấy nó trong gương. Email đó ký tên một người phụ nữ, nếu đảo ngược lại. Vì vậy tôi đã gửi nó cho Aune. Ông ấy đã liên hệ với một chuyên gia về tâm lý học nhận thức và ngôn ngữ. Chỉ đọc qua một câu trong lá thư đe dọa nặc danh là ông ta có thể xác định được giới tính, lứa tuổi và xuất thân của người viết. Trường hợp này thì ông ta nói những email đó có thể được viết bởi cả nam lẫn nữ, tuổi từ hai mươi đến bảy mươi và ở bất kỳ đâu trên đất nước này. Nói cách khác là chẳng giúp được gì. Ngoại trừ việc ông ta nghĩ có lẽ đó là phụ nữ. Vì một cụm từ duy nhất. Email viết ‘mấy tháng cảnh sát chúng mày’ thay vì ‘cảnh sát chúng mày’ hoặc một danh từ tập hợp không cụ thể nào đó. Ông ta bảo rằng người viết có lẽ đã vô tình dùng từ đó vì nó phân biệt giới tính của người gửi và người nhận.”
Harry ngả người ra ghế.
Beate đặt cái tách xuống. “Khó có thể nói là tôi đã bị thuyết phục, Harry ạ. Người phụ nữ không rõ danh tính trên cầu thang, một mật mã mà đảo ngược các chữ lại thì thành tên của một người đàn bà, và một nhà tâm lý học nghĩ rằng Alf Gunnerud đã chọn lối viết của phụ nữ để diễn đạt ý mình.”
“Ừm,” Harry gật đầu. “Đồng ý. Trước hết, tôi muốn nói với cô cái gì đã khiến tôi lần theo hướng đó. Nhưng trước khi tôi nói với cô kẻ đã giết Anna, tôi muốn nhờ cô giúp tìm một người mất tích.”
“Đương nhiên là được. Nhưng sao lại hỏi tôi. Tên người mất tích đâu phải…”
“Có chứ.” Harry mỉm cười buồn bã. “Tên người mất tích đúng là sở trường của cô.”