Nguyên tác: Tell No One
Số lần đọc/download: 518 / 32
Cập nhật: 2018-08-18 10:52:53 +0700
Chương 42
N
hư mọi khi, Tyrese và tôi ngồi ở ghế sau. Bầu trời buổi sáng màu xám tro, màu của bia mộ. Tôi chỉ cho Brutus chỗ rẽ sau khi chúng tôi qua cầu George Washington. Đằng sau cặp kính râm, Tyrese chăm chú nhìn mặt tôi. Cuối cùng anh hỏi, “Chúng ta đi đâu?”
“Nhà bố mẹ vợ tôi.”
Tyrese đợi tôi nói thêm.
“Ông ấy là một cảnh sát,” tôi nói thêm.
“Ông ấy tên gì?”
“Hoyt Parker.”
Brutus mỉm cười. Tyrese cũng cười.
“Cậu biết ông ấy?”
“Chưa bao giờ đích thân làm việc với ông ấy, nhưng, ừa, tôi nghe cái tên đó rồi.”
“Ý cậu là gì, làm việc với ông ấy?”
Tyrese không nói gì nữa. Chúng tôi đến rìa thị trấn. Tôi đã trải qua một vài kinh nghiệm phi thực trong ba ngày vừa qua - coi như “đi xe cửa kính màu qua khu mình từng sống cùng với hai tay buôn ma túy” là một trải nghiệm nữa.
Tôi chỉ cho Brutus rẽ vài lần nữa rồi chúng tôi dừng lại ở một khoảng đường nặng-trĩu-ký-ức trên Goodhart.
Tôi bước ra. Brutus và Tyrese vụt đi. Tôi tiến về phía cửa và lắng nghe tiếng chuông dài. Những đám mây đã trở nên sẫm màu hơn. Một tia chớp xé toạc bầu trời. Tôi nhấn chuông một lần nữa. Cơn đau dịch xuống cánh tay tôi. Tôi vẫn đau chết được vì bị quá sức và cả bị tra tấn từ ngày hôm qua. Trong một khoảnh khắc, tôi để mình tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu Tyrese và Brutus không xuất hiện. Rồi tôi đẩy thật lực cái ý nghĩ đó đi.
Cuối cùng tôi nghe Hoyt nói, “Ai đó?”
“Beck,” tôi nói.
“Cửa mở đấy.”
Tôi với quả đấm cửa. Tay tôi dừng lại một inch trước khi chạm vào nắm đấm bằng đồng. Kỳ lạ. Tôi đã đến nơi này vô số lần trong đời mình, nhưng chưa bao giờ nhớ là Hoyt lại hỏi ai đang đứng ở cửa cả. Ông là loại người thích đối đầu trực tiếp hơn. Không có trò trốn trong bụi rậm với Hoyt Parker. Ông không sợ bất cứ thứ gì, và mẹ kiếp, ông sẽ chứng minh ra ngô ra khoai điều đó. Bạn nhấn chuông nhà ông, ông mở cửa và đối diện tuyệt đối với bạn.
Tôi nhìn phía sau mình. Tyrese và Brutus đã đi rồi - lảng vảng trước nhà một cảnh sát trong khu ngoại ô của dân da trắng không khôn ngoan lắm đâu.
“Beck?”
Không có lựa chọn khác. Tôi nghĩ đến khẩu Glock. Khi đặt tay trái lên nắm đấm cửa, tôi dịch tay phải lại gần hông mình. Chỉ phòng khi. Tôi xoay nắm đấm và đẩy cửa. Đầu tôi nhoài qua chỗ hé mở.
“Bố ở trong bếp,” Hoyt gọi ra.
Tôi bước vào trong và đóng cửa lại sau mình. Căn phòng đầy mùi thuốc tẩy hương chanh, một trong những nhãn hiệu để che đậy kiểu bịt-kín-lỗ-lại. Tôi nghĩ cái mùi này ngọt ngào giả tạo.
“Anh muốn ăn gì không?” Hoyt hỏi.
Tôi vẫn không thể nhìn thấy ông. “Không, cám ơn.”
Tôi chật vật đi qua đống lộn xộn về phía bếp. Tôi nhìn thấy những tấm ảnh cũ trên bệ lò sưởi, nhưng lần này không cau mày. Khi chân đặt xuống lớp lót sàn nhà, tôi để mắt mình lướt quanh căn phòng. Trống rỗng. Tôi toan quay lại khi cảm thấy kim loại lạnh gí vào thái dương mình. Một bàn tay đột ngột luồn quanh cổ tôi và giật mạnh ra sau.
“Anh mang súng à, Beck?”
Tôi không cử động hay nói.
Với khẩu súng vẫn nằm ở chỗ đó, Hoyt đặt tay lên cổ tôi rồi lần xuống người tôi. Ông tìm thấy khẩu Glock, lôi nó ra, đá nó trên lớp lót sàn.
“Ai đưa anh tới đây?”
“Một vài người bạn,” tôi cố nói.
“Bạn kiểu gì?”
“Chuyện quái gì đây, Hoyt?”
Ông lùi ra sau. Tôi quay lại. Khẩu súng nhằm vào ngực tôi. Họng súng trông khổng lồ với tôi, mở ra như một cái miệng rộng hoác sẵn sàng nuốt trọn tôi. Khó lòng mà đánh mắt khỏi cái họng đen và lạnh đó.
“Anh đến đây để giết bố?” Hoyt hỏi.
“Cái gì? Không.” Tôi buộc mình nhìn lên. Hoyt không cạo râu. Mắt ông long lên, cơ thể ngả nghiêng, uống, uống rất nhiều.
“Bà Parker đâu?” tôi hỏi.
“Bà ấy an toàn.” Một câu trả lời kỳ quặc. “Bố đưa bà ấy đi rồi.”
“Tại sao?”
“Bố nghĩ anh biết.”
Có thể tôi biết. Hoặc chuẩn bị biết.
“Tại sao con lại muốn làm bố bị đau chứ, Hoyt?”
Ông vẫn chĩa khẩu súng vào ngực tôi. “Có phải anh luôn mang theo vũ khí giấu trong người không, Beck? Bố có thể tống anh vào tù vì việc đó.”
“Bố đã xử với con rất tệ rồi,” tôi đáp lại.
Mặt ông dịu xuống. Một tiếng rên rỉ nho nhỏ thoát ra khỏi môi ông.
“Chúng ta đã hỏa táng thi thể của ai, Hoyt?”
“Anh không biết chó gì.”
“Con biết Elizabeth vẫn còn sống,” tôi nói.
Vai ông thõng xuống, nhưng khẩu súng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Tôi thấy tay cầm súng của ông siết chặt, và trong một khoảnh khắc, tôi chắc ông sắp sửa bắn. Tôi cân nhắc việc nhảy biến đi, nhưng không thể được vì ông dễ dàng bắt tôi lại ngay.
“Ngồi xuống đi,” ông nhẹ nhàng nói.
“Shauna đã nhìn thấy kết quả khám nghiệm tử thi. Bọn con biết không phải Elizabeth trong cái nhà xác đó.”
“Ngồi xuống đi,” ông lặp lại, nâng khẩu súng lên một chút và tôi tin ông sẽ bắn nếu tôi không nghe lời. Ông đưa tôi lại vào trong phòng khách. Tôi ngồi trên cái đi văng gớm guốc đã chứng kiến biết bao giây phút kỷ niệm, nhưng tôi có cảm giác những giây phút đó sẽ là những tia lửa lóe lên bên cạnh đống lửa lớn chuẩn bị nuốt trọn căn phòng này.
Hoyt ngồi đối diện với tôi. Khẩu súng vẫn giơ cao nhằm vào ngực tôi. Ông không để cho tay mình nghỉ. Một phần của nghề nghiệp, tôi nghĩ thế. Sự kiệt quệ rỉ ra từ ông. Ông trông như một quả bóng bay có một lỗ châm kim, xẹp dần mà gần như không thể nhận thấy được.
“Chuyện gì đã xảy ra?” tôi hỏi.
Ông không trả lời câu hỏi của tôi. “Điều gì khiến anh nghĩ rằng con bé còn sống?”
Tôi dừng lại. Ở đây tôi có thể sai ư? Có thể nào ông không biết không? Không, tôi quyết định chóng vánh. Ông đã nhìn thấy thi thể trong nhà chứa xác. Ông chính là người nhận dạng nàng. Ông phải có dính líu. Nhưng tôi nhớ đến cái email.
Đừng nói một ai...
00:06 / 03:13
Có phải là sai lầm không khi đến đây?
Một lần nữa không. Lá thư đó đã được gửi trước tất cả mọi chuyện này - trên thực tế là trong một cuộc sống khác. Tôi phải ra quyết định tại đây. Tôi phải kiên trì, phải hành động.
“Anh gặp nó à?” ông hỏi tôi.
“Không.”
“Nó ở đâu?”
“Con không biết,” tôi nói.
Hoyt đột nhiên hất đầu lên. Ông ra hiệu cho tôi im lặng bằng một ngón tay đặt trên môi. Ông đứng dậy và rón rén đi về phía cửa sổ. Những cái bóng đổ dài. Ông hé nhìn sang phía bên.
Tôi đứng dậy.
“Ngồi xuống.”
“Bắn con đi, Hoyt.”
Ông nhìn tôi.
“Cô ấy gặp rắc rối,” tôi nói.
“Và anh nghĩ anh có thể giúp con bé?” Ông thốt ra một tiếng nhạo báng. “Bố đã cứu cả hai mạng sống của các con đêm hôm đó. Anh đã làm gì?”
Tôi cảm thấy thứ gì đó trong ngực mình co rút lại. “Con bị đánh bất tỉnh,” tôi nói.
“Phải.”
“Bố...” Tôi lúng búng không nên lời. “Bố cứu bọn con?”
“Ngồi xuống.”
“Nếu bố biết cô ấy ở đâu...”
“Chúng ta sẽ không có cuộc nói chuyện này,” ông kết thúc.
Tôi tiến một bước về phía ông. Rồi một bước nữa. Ông chĩa khẩu súng vào tôi. Tôi bước tiếp cho tới khi họng súng gí vào xương ức mình. “Bố sẽ nói cho con biết,” tôi nói. “Hoặc là bố sẽ giết con.”
“Anh sẵn lòng chơi canh bạc đó?”
Tôi nhìn thẳng vào mắt ông và thực sự nhìn bằng ánh mắt trân trối, có lẽ là lần đầu tiên trong mối quan hệ đã bao lâu nay của chúng tôi. Thứ gì đó lướt qua giữa chúng tôi, mặc dù tôi không chắc là cái gì. Sự nhượng bộ về phần ông, có lẽ, tôi không biết. Tôi vẫn kiên quyết. “Bố có biết con nhớ con gái bố nhiều đến mức nào không?”
“Ngồi xuống, David.”
“Không cho đến khi...”
“Bố sẽ nói cho anh,” ông nhẹ nhàng nói. “Ngồi xuống đi.”
Tôi vừa nhìn ông vừa ngồi xuống cái đi văng. Tôi ngả người xuống cái gối tựa. Ông đặt khẩu súng lên cái bàn bên cạnh. “Anh muốn uống không?”
“Không.”
“Tốt hơn là anh nên uống.”
“Không phải bây giờ.”
Ông nhún vai và đi về phía quầy bar có thể gập lại với dàn ly thả xuống. Nó đã cũ và xộc xệch. Những cái ly xếp lộn xộn, va leng keng vào nhau, và tôi chắc chắn hơn bao giờ hết đây không phải là lần đánh phá đầu tiên của ông vào cái tủ rượu trong ngày hôm nay. Ông từ từ rót rượu. Tôi muốn giục ông, nhưng đến lúc này tôi đã hối thúc đủ rồi. Ông cần rượu, tôi biết thế. Ông đang tập trung những ý nghĩ lại, sắp xếp chúng, xem xét các khía cạnh. Tôi mong đợi như thế.
Ông cầm cái ly bằng cả hai tay và ngồi thụp xuống ghế. “Bố chưa bao giờ quý anh cho lắm,” ông nói. “Không phải là do riêng tư hay gì. Anh xuất thân từ một gia đình tốt. Cha anh là một người tốt, và mẹ anh, à ừ, bà ấy đã cố gắng, phải không.” Một tay cầm ly rượu còn tay kia thì vò tóc. “Nhưng bố nghĩ quan hệ của anh với con gái bố” - ông nhìn lên, tìm trên trần nhà những từ ngữ - “là thứ trở ngại cho sự phát triển của con bé. Bây giờ... ồ, bây giờ bố nhận ra cả hai đứa đã may mắn đến mức kỳ diệu như thế nào.”
Căn phòng ấm lên vài độ. Tôi cố không cử động, thở khẽ hết mức, không một thứ gì quấy rầy ông.
“Bố sẽ bắt đầu từ cái đêm ở hồ,” ông nói. “Khi bọn chúng tóm con bé.”
“Ai tóm cô ấy?”
Ông nhìn xuống cái ly của mình. “Đừng ngắt lời,” ông nói. “Chỉ nghe thôi.”
Tôi gật đầu, nhưng ông không thấy. Ông vẫn đang nhìn chằm chằm vào ly rượu của mình, đúng là đang tìm câu trả lời ở đáy ly.
“Con biết ai tóm con bé,” ông nói, “hoặc bây giờ con nên biết. Hai gã mà họ tìm thấy được chôn ở đó.” Ánh mắt ông đột nhiên lướt qua căn phòng. Ông chộp lấy khẩu súng và đứng dậy, lại nhìn cửa sổ một lần nữa. Tôi muốn hỏi ông chờ đợi nhìn thấy cái gì ngoài kia, nhưng tôi không muốn phá hỏng nhịp điệu của ông.
“Em trai bố và bố đến chỗ hồ muộn. Gần như quá muộn. Chúng ta đã lên kế hoạch chặn chúng giữa đường ngay chỗ con đường đất. Con biết chỗ hai phiến đá chứ?”
Ông liếc về phía cửa sổ, rồi nhìn lại tôi. Tôi biết hai phiến đá đó. Chúng nằm cách Hồ Charmaine khoảng tám trăm mét trên con đường đất. Cả hai đều rất lớn, cả hai đều tròn, cả hai gần như cùng kích cỡ, cả hai đều nằm một cách cân xứng hai bên đường. Có đủ mọi truyền thuyết kể chuyện làm thế nào chúng nằm ở đó.
“Bọn bố nấp đằng sau hai tảng đá, Ken và bố. Khi bọn chúng đến gần, bố bắn nổ một lốp xe. Bọn chúng dừng lại để kiểm tra. Khi bọn chúng ra khỏi xe, bố bắn vào đầu cả hai thằng.”
Lại nhìn ra ngoài cửa sổ thêm một lần nữa, Hoyt quay lại ghế của mình. Ông đặt vũ khí xuống và lại tiếp tục trân trối nhìn ly rượu. Tôi ngậm miệng và đợi.
“Griffin Scope thuê hai thằng đó,” ông nói. “Chúng định sẽ tra hỏi Elizabeth rồi giết con bé. Ken và bố đã nghe ngóng biết được kế hoạch và đi đến chỗ cái hồ để ngăn chặn chúng.” Ông giơ tay lên như thể để ngăn một câu hỏi, mặc dù tôi không dám mở miệng ra. “Những câu hỏi làm thế nào và tại sao không quan trọng. Griffin Scope muốn Elizabeth chết. Đó là tất thảy những gì con cần biết. Và lão ta sẽ không dừng lại chỉ vì một vài thằng nhãi của lão bị giết. Còn có rất nhiều thằng đến từ chỗ lão nữa. Lão giống như một trong những con quái vật trong thần thoại khi mình chặt đầu thì nó lại mọc thêm hai cái nữa.” Ông nhìn tôi. “Anh không thể chiến đấu chống lại kiểu sức mạnh đó được, Beck ạ.”
Ông nhấp một ngụm lớn. Tôi vẫn ngồi yên.
“Bố muốn anh quay trở lại cái đêm đó và đặt mình vào địa vị của bọn bố,” ông nói tiếp, dịch lại gần hơn. “Hai gã đang nằm chết trên con đường đất. Một trong những người có quyền lực bậc nhất trên thế giới cử chúng đến giết anh. Lão ta không hề day dứt khi cử những người vô tội đến giết anh. Anh biết làm gì? Cứ cho là mình quyết định đi báo cảnh sát. Mình sẽ nói gì với họ? Một người như Scope không để lại tí chứng cứ nào - và ngay cả khi có, lão có nhiều cảnh sát và thẩm phán trong túi lão hơn số tóc bố có trên đầu mình. Chúng ta sẽ chết. Vì vậy, bố hỏi anh, Beck ạ. Anh ở đó. Anh có hai người đàn ông nằm chết trên mặt đất. Anh biết mọi chuyện sẽ không kết thúc ở đó. Anh sẽ làm gì?”
Tôi coi câu hỏi chỉ là một câu hỏi không cần phải có câu trả lời.
“Vì vậy bố trình bày những sự việc này cho Elizabeth, cũng như bố trình bày cho anh nghe bây giờ. Bố bảo con bé rằng Scope sẽ tiêu diệt chúng ta để giết con bé. Nếu con bé chạy trốn - nếu nó trốn ở chỗ nào đó, chẳng hạn - lão ta sẽ tra tấn chúng ta cho đến khi chúng ta buộc phải từ bỏ con bé. Hoặc lão sẽ theo sau vợ bố. Hoặc chị gái anh. Lão sẽ làm bất cứ điều gì có thể để chắc chắn rằng Elizabeth sẽ bị tìm thấy và giết chết.” Ông nhoài người gần hơn về phía tôi. “Bây giờ anh thấy chưa? Anh có thấy câu trả lời duy nhất không?”
Tôi gật đầu bởi vì mọi thứ đột nhiên rõ rành rành. “Bố phải khiến cho bọn chúng nghĩ rằng cô ấy đã chết.”
Ông mỉm cười, và khắp người tôi nổi da gà. “Bố có ít tiền dành dụm. Em trai bố Ken có nhiều hơn. Bọn bố cũng có những chỗ giao thiệp. Elizabeth sẽ sống bí mật. Bọn bố đưa nó ra nước ngoài. Con bé cắt tóc, học cách giả trang, nhưng thế chắc hẳn là quá đáng quá mức. Không một ai thực sự tìm kiếm con bé. Trong tám năm qua, nó lang bạt ở các nước thứ ba, làm việc cho tổ chức Chữ thập đỏ hay UNICEF hay bất cứ tổ chức nào nó có thể tham gia.”
Tôi đợi. Có quá nhiều thứ ông chưa kể hết với tôi, nhưng tôi vẫn ngồi yên. Tôi để cho những băn khoăn bí ẩn ngấm vào người và làm lay chuyển tôi tận gốc. Elizabeth. Nàng còn sống. Nàng còn sống suốt tám năm qua. Nàng vẫn đang thở, sống và làm việc... Quá nhiều thứ đến mức không tính nổi, một trong những chỗ hóc khó hiểu của bài toán khiến máy tính tắt phụt.
“Anh chắc hẳn tự hỏi về thi thể ở nhà xác.”
Tôi cho phép mình gật đầu một cái.
“Thực sự khá đơn giản. Những cô gái không ai biết cái đó thì đầy. Họ lưu trữ để nghiên cứu bệnh học cho đến khi chán ngấy lên. Rồi bọn bố rình theo dõi họ tại một nghĩa địa hoang Roosevelt Island. Bố chỉ đợi cho đến khi có một người tương đối giống Elizabeth xuất hiện. Lâu hơn bố nghĩ. Cô kia hẳn là một kẻ chạy trốn bị chủ chứa đâm chết, nhưng, dĩ nhiên, bọn bố sẽ không bao giờ biết chắc được. Bọn bố cũng không thể để vụ án giết Elizabeth còn tiếp tục mở để điều tra. Con cần một kẻ hiến thân, Beck ạ. Để đóng lại. Bọn bố chọn KillRoy. Ai cũng biết KillRoy đóng dấu lên mặt nạn nhân chữ cái K. Vì vậy bọn bố cũng làm thế với tử thi kia. Chỉ còn lại mỗi một vấn đề là nhận dạng. Bọn bố tính thiêu phần trước cơ thể, nhưng thế cũng có nghĩa là dính dáng đến kiểm tra răng và rồi tất cả. Vì vậy bọn bố đánh liều. Hai loại tóc khớp. Nước da và tuổi cũng đúng. Bọn bố quẳng thi thể đó vào thị trấn thông qua văn phòng của một nhân viên điều tra những vụ chết bất thường nho nhỏ. Bọn bố gọi điện thoại nặc danh đến đúng chỗ cảnh sát của bọn bố. Bọn bố chắc chắn làm sao để khi đến văn phòng của nhân viên pháp y thi đúng cùng lúc với thi thể kia. Và tất thảy những gì bố phải làm là một pha nhận dạng đẫm nước mắt. Hầu hết các nạn nhân bị giết đều được nhận dạng như thế. Một người thân trong gia đình nhận dạng họ. Bố cũng làm thế, và Ken khẳng định cùng với bố. Ai sẽ nghi ngờ việc đó? Làm sao một người cha và một người chú có thể nói dối?”
“Bố đã mạo hiểm khủng khiếp,” tôi nói.
“Nhưng chúng ta còn có lựa chọn nào khác nữa?”
“Phải có cách khác.”