Thất bại lớn nhất của một người là anh ta không bao giờ chịu thừa nhận mình có thể bị thất bại.

Gerald N. Weiskott

 
 
 
 
 
Tác giả: Selma Lagerlöf
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Nils Holgerssons Underbara Resa Genom Sverige
Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 43
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 174 / 13
Cập nhật: 2020-07-08 19:35:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 42 - Trở Về Vemmenhög
hứ năm, 3 tháng mười một
Akka dẫn đàn ngỗng trời bay về phía đồng bằng tỉnh Skåne;[172] bát ngát xa trông toàn những cánh đồng lúa mì và củ cải đường mênh mông, những trại thấp bao quanh những sân rộng, vô số những nhà thờ nhỏ màu trắng, những nhà máy đường xấu xí màu xám, những thị trấn trông như những thành phố nhỏ bao quanh những ga xe lửa. Có những mỏ than bùn, mỏ than đá với những đống than cao, những con đường sắt gặp nhau và họp thành một hệ thống mạng lưới dày. Những chiếc hồ nhỏ lóng lánh chỗ nọ chỗ kia, có những nhóm bạch dương bao quanh và kèm theo những tòa lâu đài.
“Giờ thì nhìn kĩ! Nhìn kĩ! Ra nước ngoài sẽ thấy như thế, từ bờ biển Baltic đến tận núi Alps, núi ấy ta chưa hề vượt qua”, Akka, ngỗng đầu đàn, kêu lên như vậy.
Khi các ngỗng con đã nhìn đồng bằng rồi, Akka dẫn đàn đến bờ biển Ưresund.[173] Những đồng cỏ thấp dần dần xuống tận mặt nước; những dải rong biển dài, đen xạm lại, bị sóng tung vào bờ họp thành một đường viền ngoắt ngoéo chữ chi. Ở vài nơi có những trái đồi và những trảng cát di động. Thôn xóm dân chài trải dài những hàng nhà gạch nho nhỏ giống nhau như đúc, với một ngọn đèn biển nhỏ ở đầu mút một con đê; và khắp nơi là những lưới câu căng lên để phơi.
“Nhìn xuống đi! Bờ biển nước ngoài cũng như thế đấy”, Akka kêu lên như vậy.
Sau cùng, đàn ngỗng bay qua vài thành phố; một đống những ống khói nhà máy, những đường phố chật hẹp khép vào giữa những nhà cao khói ám đen sì, những công viên rộng và đẹp, những bến cảng đầy tàu biển, và lác đác những thành quách cổ, những lâu đài và những nhà thờ cũ kĩ.
“Những thành phố ở nước ngoài cũng như thế đấy, dù to lớn hơn nhiều. Nhưng những thành phố này, một ngày nào đó cũng có thể to lớn bằng”, Akka kêu lên như vậy. Sau khi đã lượn mấy vòng như vậy trên đồng bằng, Akka cùng đàn hạ xuống một đầm lầy trong xã Vemmenhưg. Nils không thể không tự hỏi rằng hôm đó Akka đã bay ngoặc đi ngoặc lại, đã lượn những vòng tròn như thế trên tỉnh Skåne, chẳng phải là để cho chú thấy rằng quê hương chú có thể sánh với bất kì miền đất nào của nước ngoài chăng. Chú cho rằng ngỗng đã hoài công vô ích: chú chẳng hề nghĩ đến việc tự hỏi xem là quê hương mình giàu hay nghèo vì vừa trông thấy những cây liễu đầu tiên dọc các con đường, cái nhà thấp mà sườn vừa bằng gỗ vừa bằng thạch cao đầu tiên, là chú đã băn khoăn nhớ đến quê hương rồi.
Ở nhà Holger Nilsson
Thứ ba, 8 tháng mười một
Trời đầy sương xám một màu. Đàn ngỗng trời đang ngủ trưa thì bỗng Akka đến bảo Nils:
- Thời tiết hình như đang yên tĩnh, và ta nghĩ rằng mai chúng ta sẽ vượt biển Baltic.
- Vâng, - Nils trả lời. Chú không thể nói thêm một tiếng nào, vì họng chú se lại. Chú đã hy vọng rằng dù thế nào đi nữa, chú cũng sẽ được giải khỏi bùa phép, trong khi còn ở Skåne.
Akka nói tiếp:
- Giờ chúng ta đang ở gần Vemmenhưg, ta nghĩ là cậu có lẽ cũng muốn về thăm nhà một tí, nhân đi qua đấy. Vì sau đây còn lâu cậu mới gặp lại gia đình.
- Có lẽ tốt hơn là tôi đừng về qua đấy, - Nils trả lời như vậy, nhưng mà giọng nói lại cho thấy là lời đề nghị kia làm cho chú vui lòng biết bao.
Akka lại nói:
- Cậu phải về xem ở nhà người ta ra sao chứ. Biết đâu cậu lại chẳng có thể giúp cho bố mẹ cái gì, dù cậu bé nhỏ như thế.
- Mẹ nói có lý, mẹ Akka ạ. Đáng lẽ tôi phải nghĩ đến điều đó sớm hơn, - Nils trả lời, rất phấn khích.
Lát sau chú với Akka, cả hai đã bay đến cái trại của Holger Nilsson. Họ đỗ xuống phía sau bức tường bằng đá xếp chồng lên, bao quanh cái trại.
Vừa leo lên tường Nils vừa nói:
- Lạ thật, mọi thứ ở đây đều y nguyên như cũ. Tưởng chừng mới hôm qua thôi, ngồi đây tôi trông thấy đàn bay đến.
- Cậu có thấy bố cậu có súng không? Akka bỗng hỏi như vậy.
- Có chứ, Nils nói. Chính vì cái khẩu súng ấy mà chúa nhật đó tôi đã muốn ở nhà.
- Vậy thì tôi chẳng dám đợi cậu ở đây. Tốt hơn là sáng mai cậu đến nhập với đàn ở mũi Smygahưk: Cậu có thể ngủ tối nay ở đây.
- Ồ! Không, đừng đi, mẹ Akka ạ! - Nils kêu lên, vừa kêu vừa nhảy xuống chân tường. Chú không biết tại sao, nhưng chú tiên cảm là cái gì đó sẽ xảy ra cho họ, cho chú và cho đàn ngỗng, và họ sẽ không còn gặp lại nhau nữa. Chú lại nói:
- Mẹ thấy rõ là tôi rất buồn vì không thể trở lại vóc người bình thường; nhưng tôi muốn mẹ biết rằng tôi không tiếc là đã đi theo đàn mùa xuân vừa qua. Đối với tôi, chẳng thà không trở lại thành người còn hơn là không được đi cái chuyến vừa rồi.
Akka hít không khí vào thật lâu rồi mới nói:
- Có một điều mà đã nhiều lần tôi muốn nói với cậu. Cũng chẳng vội, vì cậu trở về với gia đình không phải là để ở lại, nhưng dù thế ta cũng nói với cậu ngay bây giờ. Thế này này. Nếu thực tình cậu nghĩ rằng cậu đã học được điều gì tốt khi ở với chúng ta, thì chắc là cậu không cho rằng loài người phải được ở một mình trên trái đất này phải không? Nghĩ xem, các người có một đất nước rộng lớn như thế nào! Sao các người lại không có thể để lại vài hòn núi đá trơ trụi trên bờ biển, vài cái hồ không dùng để đi lại được, và những đầm lầy, vài cao nguyên băng tích và vài khu rừng hẻo lánh cho bọn chúng ta, những loài vật tội nghiệp, có thể sống yên thân được? Suốt cả đời ta lúc nào cũng bị săn bắn, bị rượt đuổi. Tốt quá đi nếu được biết là ở nơi nào đó có một chốn trú thân cho một sinh linh như ta!
- Tất nhiên là tôi rất vui lòng giúp được gì cho mẹ, nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ nói được gì nhiều ở giữa loài người, mẹ ạ - chú bé trả lời.
- Thôi nhá! Nhưng sao chúng ta lại cứ đứng đây trò chuyện mãi như thể chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa. Mai sẽ gặp lại cơ mà. Thôi đến mai vậy!
Akka dang cánh lên để bay, nhưng trở lại một lần nữa, lấy mỏ dịu dàng vuốt ve chú, rồi mới bay đi.
Bấy giờ đang lúc giữa trưa, thế mà trong cái trại chẳng thấy một ai nhúc nhích. Bởi thế Nils có thể đi lại bất kì đâu, tha hồ.
Chú chạy nhanh vào chuồng bò, biết rằng các con bò cái sẽ cho mình biết tin tức tốt nhất. Cảnh chuồng bò thật là buồn: đáng lẽ những ba con bò đẹp ở đó như trong mùa xuân, thì chỉ còn có mỗi một con. Nó là Hoa Hồng Tháng Năm. Tiếc nhớ bạn, nó gục đầu xuống, như chẳng đụng đến cỏ ăn. Nils kêu lên, và chẳng sợ sệt gì, chạy thẳng đến con bò.
- Chào Hoa Hồng Tháng Năm. Bố mẹ mình thế nào? Bọn ngỗng, bọn gà mái và con mèo thế nào? Các bạn của bò, Hoa Kèn Vàng và Ngôi Sao đâu cả?
Nhận ra giọng nói chú bé, bò cái giật mình, rồi cúi đầu xuống như để húc cho chú một cái. Nhưng mà tuổi già đã làm cho cử chỉ của nó trở nên điềm đạm, và nó để thì giờ nhìn kĩ Nils Holgersson xem sao. Chú bé vẫn bé như ngày ra đi, và quần áo vẫn đúng như thế, nhưng hình như chú đã khác trước. Cái tên Nils Holgersson này, ra đi vào mùa xuân, dáng đi nặng nề, lê lết, đôi mắt cứ như đang ngủ: nhưng cái kẻ trở về đây, nhanh nhẹn, dẻo dai, nói năng hoạt bát, đôi mắt long lanh, rực rỡ, và tư thế thật đoan trang và quả quyết, dù bé nhỏ như vậy vẫn làm cho người ta phải nể vì. Hoa Hồng Tháng Năm kêu:
- Mòò! Người ta đã nói rõ với mình là nó đã thay đổi. Mình chẳng muốn tin! Chào cậu, Nils Holgersson ạ, chào cậu trở lại nhà. Đây là lúc vui mừng đầu tiên mà tôi có được từ không biết bao nhiêu lâu nữa rồi.
- Cảm ơn Hoa Hồng Tháng Năm! Nils nói, mà lòng ấm lại vì lời chào đón đó. Giờ thì cho tôi biết tin tức của bố mẹ tôi đi!
- Họ chỉ gặp toàn sầu muộn từ khi cậu ra đi. Tệ nhất là cái việc con ngựa; đã tốn bao nhiêu tiền mà suốt cả mùa hè nó chỉ ở đấy, chẳng có thể làm gì hết, ngoài cái việc ăn. Bố cậu không muốn giết nó, mà chẳng có ai muốn mua nó đi. Chính vì nó mà phải bán mất hai bạn của tôi, Ngôi Sao và Hoa Kèn Vàng.
Lại còn việc khác mà Nils nóng lòng muốn biết nữa, nhưng chú lúng túng quá, không dám nói thẳng ra. Rồi chú khẽ hỏi:
- Tôi nghĩ là mẹ tôi buồn lắm khi biết là con ngỗng đực bay mất phải không?
- Ta không cho là bà buồn khổ đến thế vì con ngỗng đực, nếu bà biết được là nó đã biến mất như thế nào. Bây giờ thì bà phàn nàn nhất về việc chính con trai bà trốn nhà ra đi, đã mang theo con ngỗng.
- A! Thế ra mẹ tưởng tôi đã ăn cắp con ngỗng? Nils hỏi lại.
- Thế cậu muốn bà tưởng thế nào?
- Vậy ra, bố và mẹ nghĩ là tôi đã đi lang thang khắp nước, mùa hè vừa qua, như một đứa ăn mày?
- Ông bà tiếc thương cậu, đau xót như mất cái gì thân thiết nhất trên đời.
Nils bỏ ra khỏi chuồng bò. Chú sang chuồng ngựa, cái chuồng hẹp có một tí, nhưng sạch sẽ và tươm tất. Rõ ràng là ông Holger Nilsson đã dọn dẹp cẩn thận để cho khách mới đến ở được vui thích. Ở đây có một con ngựa to đẹp, sức khỏe dồi dào, rạng rỡ.
- Chào ngựa! Nils nói. Tôi nghe nói ở đây có một ngựa ốm. Không thể là anh được. Anh có vẻ khỏe mạnh thế cơ mà?
Con ngựa quay về phía chú bé, nhìn hồi lâu, rồi nói:
- Có phải cậu là con trai trong nhà không? Tôi được nghe nói nhiều điều xấu về cậu lắm. Nhưng trông cậu đáng yêu thế này cơ mà, tôi mà không được nghe nói là cậu đã bị biến thành gia thần thì tôi không bao giờ cho cậu là Nils đâu.
- Tôi biết là tôi ra đi, đã để lại một kỉ niệm xấu, Nils Holgersson nói. Chính mẹ tôi tưởng là tôi ra đi như một đứa ăn trộm. Tôi không định ở lại đây lâu, nhưng tôi muốn biết ngựa bị cái gì thế.
- Cậu không ở lại, tiếc quá nhỉ; tôi thấy là chúng mình sẽ thành bạn thân. Còn tôi thì có gì đâu: một mũi dao hay vật gì nhọn đó cắm vào chân, và vào sâu quá đến nỗi ông bác sĩ không thể tìm thấy; nó làm tôi đau lắm và không đi được. Giá cậu bảo cho ông Holger Nilsson biết, thì tôi tưởng là ông có thể chữa cho tôi khỏi. Tôi rất muốn làm kẻ có ích. Tôi xấu hổ quá sức vì cứ ăn không ngồi rồi.
- Càng tốt, tôi rất mừng là ngựa chẳng ốm đau gì thực sự cả! Chúng tôi sẽ cố chữa cho ngựa; cho tôi ghi lên móng ngựa mấy cái dấu với lưỡi dao con tí.
Nils vừa mới xong việc thì nghe có tiếng nói ngoài sân. Đó là bố mẹ chú đã về. Rõ ràng là lòng họ nặng trĩu những nỗi lo lắng. Mặt bà mẹ thêm nhiều nếp nhăn, và tóc ông bố đã ngả màu hoa râm. Bà mẹ đang thuyết phục ông bố phải vay tiền của ông anh vợ. Đi qua cánh cửa chuồng ngựa hé mở, ông bố nói:
- Không, không, tôi không đi vay nữa. Chẳng có gì kinh khủng bằng mắc nợ. Tốt hơn là bán nhà đi.
- Tôi không can ông, nếu không có thằng bé. Một ngày nào đó mà nghèo khổ, khốn cùng, nó trở về và không thấy ta ở đây thì nó biết làm thế nào?
- Tất nhiên là như thế thì buồn quá, nhưng phải nhờ những người mua lại trại này đón nó tử tế, và bảo cho nó biết là bao giờ nó cũng được chúng mình mong chờ và đón tiếp ân cần ở nhà. Vì chúng mình sẽ chẳng trách móc nó một lời. Đồng ý như vậy không nào?
- Tất nhiên! Ôi! Chỉ cần nó ở nhà, và tôi không phải lo nó đói, nó khát trên các đường cái!
Nils chẳng được nghe thêm gì nữa, vì họ đi vào nhà. Chú chỉ muốn chạy theo, nhưng bố mẹ mà gặp lại chú như thế này thì chẳng phải là càng buồn phiền thêm sao? Chú đang do dự thì một chiếc xe đỗ lại ngoài cổng.
Nils suýt kêu lên vì ngạc nhiên, khi thấy hai người bước xuống, mà chẳng ai khác là Åsa và bố cô ta. Họ cầm tay nhau bước lên nhà, trang nghiêm và trầm tĩnh, đôi mắt ánh lên niềm vui sướng. Được mấy bước, Åsa giữ bố lại và nói:
- Đồng ý như thế phải không bố; chúng ta sẽ chẳng nói chút gì về vị gia thần giống Nils như đúc, về chiếc giày gỗ nhỏ và về đàn ngỗng trời đấy nhé!
- Tất nhiên! Jon Assarsson đáp lại. Bố chỉ nói là con trai họ đã cứu giúp con nhiều lần, trong lúc con đi tìm bố khắp đất nước, và chúng ta đến hỏi xem họ là chúng ta có thể giúp họ việc gì không, vì bây giờ bố đã khá giả, và giàu có nữa, nhờ cái mỏ bố đã tìm được ở trên kia.
Hai bố con bước vào nhà, Nils có thể hi sinh bao nhiêu thứ để được nghe câu chuyện của họ, nhưng không dám ló mặt ra sân. Khi Åsa và bố đi ra, bố mẹ Nils tiễn khách về, thì trông như là đã sống lại một cuộc đời mới.
Khách đi rồi, ông bố và bà mẹ còn đứng lại một lúc ở cổng, nhìn theo chiếc xe đang xa dần. Bỗng bà mẹ nói to lên:
- Tôi không muốn buồn phiền nữa, bố nó ạ, vì chúng ta vừa được nghe nói bao nhiêu điều tốt đẹp về Nils.
- Thật ra họ cũng chẳng nói gì nhiều, ông bố nói vẻ mơ màng.
- Họ đến đây cốt bàn việc giúp đỡ mình, để đáp lại bao nhiêu việc Nils đã giúp họ, ông cho rằng như thế chưa đủ sao? Tôi lại nghĩ rằng ông có thể nhận lời người ta ngỏ ý giúp mình nữa cơ.
- Không, không, mẹ nó ơi! Chúng mình chẳng nhận tiền của ai hết, dù cho vay hay là cho không. Trước tiên tôi muốn trả hết nợ nần đi đã, chúng mình sẽ cất đầu lên lại được lắm chứ. Chúng mình đã già nua vô dụng gì đâu, phải thế không nào?
Ông bố vừa nói vừa cười.
- Người ta có thể nói là ông thích thú vì được đem bán tống cái mảnh đất mà ông đã đổ xuống bao nhiêu mồ hôi này, bà mẹ nói, giọng trách móc.
- Mẹ nó không hiểu tại sao tôi cười à? Ông bố nói. Chính cái ý nghĩ thằng Nils là đồ bỏ đi đã làm cho tôi mất hết sức lực, mẹ nó thấy không? Giờ thì tôi biết là nó còn sống và nó hứa sẽ thành người lương thiện, thì mẹ nó sẽ thấy là Holger Nilsson còn có thể làm ăn lắm chứ. Bà mẹ vào nhà, và Nils phải vội vàng nấp vào một xó, vì ông bố đi về phía chuồng ngựa, và một lần nữa nắm lấy cái chân cà nhắc để xem nó đau ở đâu.
“Cái gì thế này?” Ông ta kêu lên vì thấy mấy chữ khắc vào móng chân ngựa.
“Rút miếng sắt ra khỏi chân!” Ông ta đọc mà kinh hãi.
Tuy vậy, ông ta cũng bắt đầu xem kĩ cái móng.
“Mà thật, mình cho là có cái gì nhọn ở đây đấy”, ông ta lẩm bẩm.
Trong khi ông bố bận với con ngựa và Nils đứng im trong một góc, thì có khách nữa đến thăm. Con ngỗng đực trắng, ẩn ở gần nhà cũ của nó quá, không cưỡng nổi ý muốn trở về khoe vợ con với các bạn cũ, và đã cùng đến với Lông Tơ Mịn và sáu ngỗng con. Khi chúng đến trại Holger Nilsson thì chẳng có ai ngoài sân cả. Ngỗng đực yên tâm cùng gia đình đỗ xuống và khoe với Lông Tơ Mịn cái cảnh lộng lẫy nơi ăn chốn ở của một con ngỗng nhà. Sau khi giới thiệu cái sân xong, nó trông thấy cánh cửa chuồng bò đang mở hé.
“Vào xem! Nó kêu. Vào xem chỗ anh ở trước đây! Thật khác hẳn cái cảnh ăn ở tạm bợ trong các đầm lầy và bãi than bùn của chúng ta ngày nay!”
Ngỗng đực đứng yên trên ngưỡng chuồng bò. Nó gọi: “Trong này chẳng có ai cả. Vào đây Lông Tơ Mịn, vào xem cái ngăn để ngỗng ở! Đừng sợ! Chẳng có chút gì nguy hiểm cả đâu”.
Thế là ngỗng đực, Lông Tơ Mịn và sáu ngỗng con vào cái ngăn nuôi ngỗng, để ngắm nghía cảnh sang trọng nhà trước đây ngỗng đực trắng đã sống, trước khi đi theo đàn ngỗng trời.
“Đấy, trước kia thế đấy. Chỗ của anh ở đây, và kia là cái bồn, lúc nào cũng đầy kiều mạch với nước. Ấy khoan khoan, hình như còn có một ít!”
Ngỗng đực chạy vội đến và ăn ngay, rất háu. Trong lúc đó Lông Tơ Mịn thấy lo.
“Vài hạt nữa thôi!” Ngỗng đực nói.
Đúng lúc đó nó kêu lên một tiếng và lao ra cửa. Chậm mất rồi. Cánh cửa đóng ập, và bà chủ cài then lại. Thế là đàn ngỗng bị bắt gọn!
Ông bố vừa rút một miếng sắt nhọn ra khỏi chân con ngựa và sung sướng vuốt ve con vật, thì bà mẹ chạy đến thở hụt cả hơi.
- Đến đây, bố nó ơi, đến xem tôi bắt được một lũ đây này! Bà ta kêu lên.
- Chờ tí, mà hãy nhìn đây đã. Tôi đã tìm ra cái vật làm cho con ngựa bị thương!
- Tôi cho là vận may sắp trở lại với chúng mình rồi. Bố nó hãy tưởng tượng là con ngỗng đực to biến mất mùa xuân vừa rồi, đã trở về cùng bảy con ngỗng trời. Nó đã đi theo một đàn ngỗng trời. Chúng nó đi thẳng vào chuồng bò, đến chỗ của chúng nó, và tôi đã nhốt chúng nó lại cả bọn.
- Lạ thật! Holger Nilsson nói. Cái làm ta thích nhất là ta không thể nghĩ cho Nils đã mang luôn cả con ngỗng lúc ra đi.
- Thật thế. Nhưng mà tôi e là ta buộc phải thịt tất cả chúng nó ngay tối hôm nay. Vài hôm nữa là lễ thánh Mårten[174] rồi; phải nhanh lên để đem ra phố bán.
- Thịt con ngỗng đực thì đáng tiếc quá, vì nó trở về mà rủ thêm được nhiều ngỗng như thế cơ mà, Holger Nilsson cãi lại.
- Nếu thời buổi mà đỡ khó khăn thì cũng để cho nó sống chứ, nhưng mà chắc là chúng ta không còn ở đây nữa, thì để làm gì cái đám ngỗng ấy?
- Đúng thế.
- Ra đây giúp tôi đem chúng nó vào bếp!
Họ đi ra, vài phút sau Nils thấy bố từ chuồng bò ra, một bên nách cắp ngỗng đực, một bên cắp Lông Tơ Mịn. Ngỗng đực kêu lên như mọi khi gặp cơn nguy biến: “Cứu với! Tí Hon ơi, cứu với!”
Nils nghe nó kêu rất rõ, tuy vậy chú vẫn đứng yên ở chuồng ngựa. Không phải chú nghĩ, dù chỉ thoáng qua, rằng người ta mà thịt con ngỗng đực trắng đi thì tốt cho chú quá - lúc bấy giờ chú không nghĩ đến cả cái điều kiện của ông gia thần nữa - cái đã giữ chú lại chính là việc muốn cứu ngỗng đực thì phải ra trước mặt bố mẹ với hình hài bé nhỏ của mình lúc bấy giờ; và việc ấy làm chú thấy ghê quá. Chú nghĩ:
“Bố mẹ đã chẳng có gì sung sướng rồi, mình có nên thêm cho bố mẹ mối buồn phiền này nữa không?”
Nhưng mà khi cánh cửa đã đóng để nhốt ngỗng lại, thì Nils quên hết mọi nỗi do dự. Chú chạy qua sân nhanh hết sức mình, và đi vào hành lang. Chú bỏ đôi giày gỗ ra theo thói quen ngày trước, và đến gần cánh cửa. Chú dừng lại lần nữa.
“Ngỗng đực trắng đang gặp nạn, nó là bạn tốt nhất của mình từ khi bỏ cái nhà này ra đi”, chú tự bảo thế.
Bấy giờ chú bỗng thấy lại tất cả các cơn nguy khốn mà chú và ngỗng đực đã từng đương đầu trên các mặt hồ đóng băng và mặt biển bão táp, và giữa những ác thú hung dữ. Lòng chú tràn ngập niềm biết ơn và thương yêu, và chú liền đập cửa:
- Ai đấy? Ông bố hỏi và mở cửa.
- Mẹ ơi, mẹ ơi, đừng làm tội ngỗng! Nils kêu lên và bước vụt vào.
Ngỗng đực và Lông Tơ Mịn đang bị trói nằm trên ghế băng, nghe tiếng chú, cùng kêu lên một tiếng vui mừng. Nhưng mà kẻ kêu lên tiếng vui mừng to nhất, chính là bà mẹ: “Ôi! Nils, Nils! Con lớn và đẹp làm sao!”
Chú đứng khựng lại, như còn hồ nghi về cảnh đón tiếp mình.
- Lạy Chúa, ai đem con về với mẹ đấy. Đến đây! Đến đây! Bà mẹ lại nói.
- Mừng con, - ông bố chẳng biết nói gì hơn.
Nils vẫn ngập ngừng trên ngưỡng cửa. Chú không hiểu niềm vui của bố mẹ. Nhưng bà mẹ đã lao tới phía chú, và đưa hai tay ôm vòng lấy cổ chú. Thế là Nils hiểu cái gì đã xảy ra. Chú kêu lên:
- Bố, mẹ, con đã lớn trở lại! Con đã trả lại thành người!”
Cảnh từ biệt giữa Nils với đàn ngỗng trời
Thứ tư, 9 tháng mười một
Sáng hôm sau Nils dậy trước rạng đông, và đi ra phía bờ biển.
Khi mặt trời bắt đầu mọc, chú đã đến chỗ hẹn với Akka, hơi xế về phía đông thôn Smyge một tí.[175] Chú chỉ có một mình. Trước khi ra đây, chú đã vào chuồng bò, đánh thức ngỗng đực trắng dậy. Nhưng ngỗng chẳng nói năng gì, lại rúc đầu vào cánh và ngủ lại.
Trời hôm nay có thể rất đẹp, cũng đẹp gần bằng cái ngày mùa xuân mà đàn ngỗng trời đã đến đây. Biển trải ra mênh mông và yên lặng. Không trung thanh tĩnh, và Nils nghĩ rằng chuyến đi của các bạn sẽ được tốt lành. Chú đang còn ở trong cái cảnh nửa tỉnh nửa mê. Lúc thì chú tưởng rằng mình là gia thần, lúc thì chú là Nils Holgersson thực sự.
Trông thấy một cái hàng rào trên đường đi, chú sợ không dám đi tiếp, trước khi biết chắc là không có con vật nguy hiểm nào nấp ở phía sau. Rồi chú cười, sung sướng nhớ lại là mình đã lớn và khỏe, và không cần phải sợ nữa.
Đến bên bờ biển, chú đứng ngay giữa bãi cát để cho đàn ngỗng trời trông thấy rõ. Hôm đó là một ngày chim di cư. Mỗi lúc lại nghe những tiếng kêu gọi nhau tập hợp. Chú mỉm cười, vì nghĩ rằng chẳng một ai có thể hiểu bằng chú những gì mà chim chóc kêu lên với nhau.
Nhìn những đàn ngỗng trời bay qua, chú nghĩ: “Miễn là không phải đàn mình đang bay đi, mà không từ biệt mình!”. Chú muốn kể lại cho đàn nghe mình đã trở lại thành người như thế nào quá!
Một đàn đến gần, bay nhanh hơn và kêu to hơn các đàn khác. Có cái gì như bảo chú rằng chính đó là đàn của mình. Nhưng mà chú không nhận ra đàn chắc chắn như hôm trước được nữa.
Đàn ngỗng bay chậm lại, và bay ngược gió phía trên bãi, Nils hiểu rằng đó chính là các bạn đồng hành của mình. Nhưng tại sao lại không hạ xuống? Họ không thể không trông thấy chú.
Chú cố gọi lên một tiếng, nhưng mà lưỡi chú không chịu tuân theo ý muốn của chú. Chú không thể phát ra đúng âm được.
Chú nghe Akka gọi trên không, nhưng lại không hiểu Akka bảo gì. Chú nghĩ: “Lạ thật, ngỗng trời đã thay đổi tiếng kêu rồi sao?”
Chú đưa mũ lên vẫy và chạy dọc bãi, kêu lên: “Tôi đây, mẹ đâu?”
Như thế hình như chẳng có tác dụng nào khác là làm cho đàn ngỗng khiếp sợ. Chúng bay lên cao hơn, và xa bờ biển. Cuối cùng chú hiểu rằng: đàn ngỗng không biết rằng chú đã trở lại thành người.
Đàn không nhận ra được chú nữa.
Chú thì không thể gọi đàn lại được, vì loài người không biết nói tiếng của chim. Chú không còn hiểu nữa, cũng không nói được nữa tiếng của loài chim.
Dù Nils sung sướng được giải khỏi bùa phép, chú vẫn thấy rằng phải từ biệt các bạn ngỗng của mình như thế thật là đắng cay. Chú ngồi xuống cát, lấy hai tay che mặt. Nhìn họ ra đi nào có ích gì?
Nhưng bỗng chú nghe tiếng cánh xào xạc: mẹ già Akka không thể đành lòng từ giã Tí Hon của mẹ như thế được, và mẹ đã quay trở lại. Giờ thì Nils ngồi yên, mẹ mới dám đến gần. Có lẽ bỗng nhiên mẹ biết ra rằng người đó là ai. Mẹ hạ xuống mũi đất cạnh chú.
Nils kêu lên một tiếng vui mừng và ôm lấy mẹ trong vòng tay. Thế là các ngỗng khác đều đến gần và đưa mỏ vuốt ve chú. Tất cả cứ cà kíu và chuyện trò và mừng cho chú. Nils cũng nói với các bạn, cảm ơn họ về chuyến lữ hành tốt đẹp đã cùng đi với nhau.
Đột nhiên đàn ngỗng im bặt, nhìn chú một cách lạ lùng và đi xa ra. Họ như bỗng hiểu cái gì đã xảy đến và bảo nhau: “Cậu ấy đã trở lại thành người! Cậu ấy không hiểu chúng mình nữa, và chúng mình cũng không hiểu cậu ấy nữa!”
Thế là Nils đứng dậy, và đi đến trước mặt Akka. Chú ôm hôn ngỗng và vuốt ve ngỗng.
Rồi chú đến Yksi và Kaksi, Kolmi và Neljä, Viisi và Kuusi, tất cả các ngỗng già của đàn, và ôm hôn tất cả. Rồi chú bỗng nhanh chân từ giã họ, đi ngược lên bãi cát trở về nhà. Chú biết rằng nỗi buồn của loài chim không bao giờ lâu, và chú muốn từ biệt các bạn trong lúc họ còn đang tiếc nhớ vì phải mất chú.
Lên đến ngọn cồn cát, chú quay lại nhìn tất cả các nhóm chim đang sửa soạn vượt biển. Tất cả kêu lên gọi nhau; chỉ một đàn ngỗng trời là lặng lẽ bay, chú trông theo cho mãi đến lúc mà mắt chú không còn nhìn thấy nữa.
Nhưng mà, cái hình chữ nhân của đàn thật là ngay ngắn, các khoảng cách thật chính xác, nhịp bay nhanh cánh vỗ khỏe và đều. Lòng Nils bừng lên nỗi nhớ tiếc, đến mức gần như cầu mong được trở lại làm chú bé Tí Hon đã có thể chu du trên mặt đất và trên mặt biển với một đàn ngỗng trời.
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils - Selma Lagerlöf Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils