Số lần đọc/download: 991 / 27
Cập nhật: 2017-05-20 09:04:16 +0700
Bốn Mươi
C
húng tôi nghe thấy tiếng nhà thờ trước khi nhìn thấy nó.
Chiếc Daimler to màu đen rẽ trái ra đường Farringdon, và trong khi chúng tôi trầy trật đi dọc đường hầm hẹp dài dằng dặc ấy để đến bờ sông, tiếng chuông đang rung vì Marty và Siobhan.
Chúng tôi lại rẽ trái lần nữa vào quảng trường Clerkenwell nhỏ xinh, nhà thờ như choán đầy bầu trời xanh mênh mông. Ở ghế sau chiếc limo, Marty ngồi không yên trong chiếc áo đuôi tôm, liếc nhìn các vị khách đang được phát hoa cài khuyết áo ở cổng nhà thờ.
“Chúng ta có nên đi vòng quanh mấy lượt không?” cậu ta nói. “Để bắt họ đợi một tí?”
“Đấy là điều mà cô dâu làm, Marty à. Không phải cậu.”
“Và cậu có chắc là mình nhớ mang...”
Tôi chìa ra hai chiếc nhẫn vàng.
Cậu ta gật đầu.
Chẳng có gì để chần chừ nữa ngoài việc đó.
Chúng tôi ra khỏi chiếc Daimler, giờ thì tiếng chuông to đến mức nó là tất cả những gì ta có thể nghĩ tới. Marty cứ cài khuy rồi lại cởi khuy áo đuôi tôm trong lúc chúng tôi đang đi lên những bậc đá dẫn đến nhà thờ, miệng cười đầu gật với những người quen biết, và cả những người không quen biết. Chúng tôi đã lên được nửa đường thì Marty vấp phải cái gì đó và tôi phải đỡ lấy tay khi cậu ta loạng choạng.
Marty nhặt hình nộm người đàn ông dài hai mươi phân làm từ nhựa đúc lên. Anh ta đang diện một cái áo khoác màu hoa oải hương, quần tây bạc có tráng kim và áo sơ mi xa tanh trắng. Và hoặc là anh ta đang mặc một cái khăn thắt lưng hoặc là bụng anh ta đang bị bó chặt. Anh ta đã bị mất một chiếc giầy trắng tí hon.
“Cái này phỏng theo cái chó gì thế?” Marty nói. “Liberace à?”
“Không phải Liberace,” tôi nói, lấy nó khỏi tay cậu ta. “Đấy là Ken Disco.”
Trên nền ánh sáng tràn qua cửa sổ kính màu ở đằng sau, một cô bé chạy như bay dọc theo lối đi trong nhà thờ, tay giữ mũ - cùng màu với cái váy dạ hội vàng cô bé đang mặc.
“Peggy à,” tôi nói.
“Ken Disco,” cô bé nói, lấy nó khỏi tay tôi. “Cháu tìm nó suốt.”
Rồi Cyd xuất hiện, nhìn tôi từ dưới vành cái mũ đen cỡ lớn. Nó hơi rộng. Có lẽ cô mua nó trước khi cắt tóc.
“Tôi đợi ở trong,” Marty nói. “Trên bệ thờ.”
“Bên bệ thờ,” tôi chữa lời cậu ta.
“Tôi biết mình sẽ ở đâu mà,” cậu ta nói.
“Chúc may mắn,” Cyd mỉm cười với cậu ta.
Chúng tôi nhìn cậu ta đi mất, và rồi nhìn nhau một lúc lâu.
“Anh không nghĩ là sẽ được gặp em ở đây,” tôi nói.
“Em ở bên nhà gái.”
“Tất nhiên rồi. Siobhan rất thích em. Thế... mọi chuyện thế nào rồi?”
“Ổn, ổn. Rất ổn. Và Pat thế nào rồi?”
“Hiện tại thì nó đang sống với Gina. Có vẻ cũng ổn. Lát nữa em sẽ được gặp thằng bé.”
“Pat sẽ đến ạ?” Peggy hỏi.
“Bạn ấy làm phù rể nhí mà.”
“Tốt quá,” cô bé nói, và chui vào bên trong nhà thờ.
“Và thằng bé vui chứ?” Cyd nói, và tôi biết rằng cô thật sự quan tâm đến điều đó, và tôi muốn ôm cô.
“Có một vài vấn đề nho nhỏ với gã bạn trai. Anh ta hơi lập dị một chút. Anh ta không thích bị Pat cầm kiếm ánh sáng đập vào đầu. Anh thì vẫn nói với thằng bé - không, không Pat ơi, nếu con muốn đánh chú ấy thì nhắm vào mắt ấy.”
Cô lắc đầu mỉm cười.
“Anh sẽ thành ra thế nào nếu không còn mấy chuyện tếu của anh, hả Harry?”
“Anh không biết nữa.”
“Nhưng anh có được gặp nó không?”
“Suốt. Mọi ngày nghỉ cuối tuần và một lần trong tuần. Bọn anh chưa giải quyết vấn đề nghỉ hè.”
“Chắc anh nhớ nó lắm.”
“Cứ như thể thằng bé vẫn ở đây vậy. Anh không biết giải thích thế nào. Dù nó đã đi rồi, anh vẫn cảm thấy nó ở khắp xung quanh mình. Có một khoảng trống ở vị trí trước đây của thằng bé. Giống như kiểu sự vắng mặt của nó cũng mạnh như sự hiện diện của nó vậy.”
“Ngay cả khi chúng đã đi, chúng vẫn nắm giữ trái tim ta. Làm phụ huynh chính là như vậy.”
“Ừ chắc thế. Jim khỏe chứ?”
“Em cũng chẳng biết. Chuyện ấy cuối cùng không thành. Chỉ riêng thử thôi cũng là một sai lầm.”
“Thì em thử vì Peggy mà.” Ít ra thì tôi mong là cô thử vì Peggy. Tôi mong rằng không phải cô thử vì cô vẫn còn yêu anh ta như cô đã từng yêu. “Đáng để thử, vì lợi ích của Peggy.”
“Anh nghĩ thế à?”
“Chắc chắn rồi.”
Cô ra hiệu về phía một chiếc Daimler đang chầm chậm lái qua nhà thờ. Ở ghế sau là một phụ nữ mặc đồ trắng và một người đàn ông trung niên bồn chồn. Chiếc xe biến mất đằng sau ngã rẽ.
“Chắc chúng ta phải vào thôi.”
“Ừ, vậy gặp em sau nhé. Chúng ta có thể chia đôi cái bánh nướng vol-au-vent.”
“Tạm biệt anh.”
Tôi dõi theo khi cô đi sang đứng bên nhà gái, giữ cái vành mũ như thể sợ nó sẽ bay đi mất. Sau đó thì Pat đã ở cạnh tôi, giật giật tay áo tôi, lúc này nó đang mặc một bộ lính thủy. Trông cu cậu cũng khá bảnh bao theo kiểu hàng hải. Tôi quàng tay quanh người thằng bé đúng lúc Gina và Richard bước tới bậc thềm nhà thờ.
“Anh đã nói là ta sẽ không thể đỗ được cgần nhà thờ như thế mà,” anh ta nói.
“Chúng ta đã đỗ xe đấy còn gì?” cô nói. “Hay em nhìn nhầm?”
Họ ngừng chí chóe khi nhìn thấy tôi, im lặng cầm lấy hoa cài khuyết áo từ một trong những người hướng dẫn và đi vào nhà thờ.
Tôi mỉm cười với Pat.
“Cha thích bộ đồ mới của con. Thấy thế nào?”
“Ngứa ạ.”
“Ừ thì trông con tuyệt lắm.”
“Con không thích đóng bộ. Như thế quá giống lúc đi học.”
“Ừ con nói cũng đúng. Đóng bộ quả là quá giống lúc đi học. Con vẫn đi chơi cuối tuần này chứ?”
Thằng bé gật đầu.
“Con muốn làm gì nào?”
Nó suy nghĩ trong giây lát. “Cái gì đó thật hay.”
“Cha cũng thế. Chúng ta hãy cùng làm gì đó thật hay cuối tuần này. Nhưng bây giờ thì chúng ta có một việc cần làm, phải không nào?”
“Chúng ta là phù rể nhí.”
“Có thể con là phù rể nhí. Cha là phù rể chính. Chúng ta đi dự đám cưới thôi chứ nhỉ?”
Thằng bé nhún vai cười toe toét.
Con trai đẹp đẽ của tôi.
Chúng tôi bước vào trong nhà thờ - nó có mùi hoa ly, mát lạnh và tối ngoại trừ những luồng ánh sáng màu mật ong rọi vào từ những ô cửa sổ cổ xưa, những phụ nữ đội mũ - và Pat chạy lên phía trước tôi, gót đôi giày mới của nó lạch cạch trên sàn lát đá.
Và khi ngắm nó chạy về nơi Marty đang đợi chúng tôi bên bệ thờ, tim tôi thắt lại trong cảm giác vừa rất hạnh phúc nhưng đồng thời cũng rất buồn.
Tôi không biết nữa. Có cảm giác gì đó như thể nó đã trưởng thành rồi.
Mục sư cao ráo, trẻ tuổi và lo lắng, một trong những cậu công tử hiền lành đến từ vùng trung du, được Giáo hội Anh gửi đến những khu văn phòng cao ngút ở trung tâm thành phố, có cái yết hầu cứ nhấp nhô trong lúc anh ta nói về ngày phán quyết khi mà những bí mật của mọi trái tim sẽ được tiết lộ.
Anh ta đang nhìn Marty, nhìn chòng chọc, hỏi như thể anh ta thực sự mong đợi những câu trả lời trung thực - Con sẽ yêu mến, an ủi, kính trọng và gìn giữ nàng; khi đau yếu cũng như lúc mạnh khỏe; từ bỏ mọi người khác để chung thủy với nàng khi hai người còn sống chứ?
Và tôi nghĩ tới Marty với chuỗi dài những cuộc tình kiểu cơ hội chủ nghĩa mà kết cục tất yếu là bị đăng lên báo Chủ nhật khi những người phụ nữ cậu ta phang nhanh và cũng đá nhanh không kém ngộ ra rằng lên giường với cậu ta không phải là bước thang đầu tiên dẫn đến sự nghiệp trong ngành giải trí. Và tôi nhìn Siobhan đứng đó cạnh cha mình, khuôn mặt Ai Len nhợt nhạt điềm tĩnh đằng sau bao nhiêu lớp ren trắng, và - cho dù đây không đúng lúc mà cũng không đúng chỗ - tôi không thể ngăn mình nghĩ về việc cô thích đàn ông đã có vợ và những người bạn trai khéo thoái thác ưa tự xích người mình vào cây. Nhưng có vẻ tất cả những cái đó chẳng có ý nghĩa gì lắm trong ngày hôm nay. Cả những người tình cay cú nói xấu Marty, lẫn những bà vợ mà rốt cuộc cũng buộc Siobhan phải cay đắng chịu phận dưới. Những chuyện đó giờ đều ở sau lưng họ.
Hôm nay cả hai người đều có vẻ đã được xóa tội, được hồi sinh bởi những lời hứa hẹn thương yêu và tận tụy, bởi lời tuyên thệ danh dự - cho dù tôi khá chắc rằng Marty không mảy may biết danh dự là cái gì hay tuyên thệ nó như thế nào. Tôi thấy yêu mến hai người họ vô cùng.
Và tôi không tìm ra được chút hoài nghi nào còn lại trong mình. Vì đây cũng là điều tôi muốn. Đây là tất cả những gì tôi muốn. Được yêu và được trân trọng.
Tôi quay ra nhìn lén các vị khách. Cyd đang chăm chú nhìn mục sư từ dưới vành mũ. Cố gắng lắm tôi mới có thể nhìn ra đỉnh đầu của Peggy. Pat nhìn thấy tôi bèn mỉm cười và tôi lại nghĩ rằng thằng bé tuyệt vời đến mức nào. Tôi nháy mắt với nó và quay lại nghe mục sư nói về sống vĩnh viễn trong tình yêu và sự hòa thuận hoàn hảo.
Trong khi mục sư đặt câu hỏi, tôi buộc phải tự hỏi mình vài câu. Như - liệu tôi có thể thực sự là một điều tích cực trong cuộc đời Peggy không? Và liệu tôi có thực sự nghĩ rằng mình có thể nuôi lớn cô bé ấy khi biết chắc chắn rằng chúng tôi sẽ không bao giờ thân nhau dễ dàng như máu mủ được? Liệu tôi có đủ quân tử để nuôi nấng đứa con của một gã đàn ông khác? Còn Cyd thì sao? Liệu chúng tôi có thể ở bên nhau hơn con số năm, sáu hay bảy năm tầm thường đó không? Liệu chúng tôi có thể yêu và trân trọng nhau suốt đời? Liệu một trong hai chúng tôi - gần như chắc chắn là tôi - cuối cùng có lại phá phách, trốn tránh hoặc làm loạn không? Liệu tôi có thật sự tin rằng tình yêu của chúng tôi đủ lớn và đủ mạnh để tồn tại trong cái thế giới hiện đại tệ hại này không? Nào, có không? Có không? Có không?
“Có,” tôi bật nói, và lần đầu tiên trong đời Marty nhìn tôi như thể tôi mới là gã khùng.
Tôi gõ thìa bạc vào ly sâm banh của mình và đứng dậy để phát biểu vài lời trong vai trò phù rể chính.
Trong khi tất cả họ hàng, bạn bè và đồng nghiệp ngước lên nhìn tôi, mãn nguyện sau tiệc cưới và sẵn sàng đợi được giải trí, tôi nhìn xuống mấy tờ giấy của mình.
Trong đó hầu hết là chuyện cười Eamon viết, nguệch ngoạc phía sau mấy tấm bưu thiếp. Giờ thì chúng có vẻ khá là vô dụng.
Tôi hít một hơi và bắt đầu.
“Một trong những nhà tư tưởng lớn từng nói - ‘Chúng ta lướt qua năm tháng và cuộc sống có vẻ tẻ nhạt, rồi một người lạ xuất hiện và tình yêu là tên anh ta.’ ” Tôi dừng lại cho kịch tính. “Plato? Wittgenstein? Descartes? Không, là Nancy Sinatra. Và bà già ấy nói đúng. Cuộc sống có vẻ thật tẻ nhạt, thật trống rỗng khi không có người lạ ấy. Thật ra là, giờ nghĩ lại, nó còn tệ hơn cả thế.”
Họ không biết tôi đang nói cái quái gì. Chính tôi còn chẳng biết nữa là. Tôi xoa thái dương đau nhức. Miệng tôi khô không khốc. Tôi hớp ít nước, nhưng vẫn khô.
“Tệ, tệ hơn rất nhiều,” tôi lẩm bẩm, cố nghĩ ra xem mình đang nói cái gì. Cái gì đó về tầm quan trọng của việc Marty và Siobhan luôn luôn ghi nhớ cảm giác của mình hôm nay. Nó là cái gì đó về việc đừng bao giờ lãng quên.
Tôi nhìn Cyd ngang qua căn phòng chật ních người, mong có một dấu hiệu động viên nào đó, nhưng cô đang nhìn chằm chằm phần còn lại của món tráng miệng. Peggy và Pat đang chạy giữa mấy cái bàn. Ai đó ho. Một đứa bé đang khóc ti tỉ. Đám đông bắt đầu sốt ruột. Ai đó đi mất để tìm phòng vệ sinh. Tôi liếc nhìn xuống những tờ giấy trong tay.
“Từ từ đã, tôi có vài thứ hay ho mà,” tôi nói. “Người ta thường nói yêu nhiều thì ốm mà ôm nhiều thì yếu.”
Hai ông bác say mèm cười hả hê.
“Và có câu chuyện về một cặp vợ chồng mới cưới non nớt đến gặp bác sĩ để được hướng dẫn cách làm tình.”
Một bà dì ngà ngà say cười khúc khích.
“Bác sĩ làm tình với người vợ và hỏi chú rể xem anh ta có thắc mắc gì không. Và chú rể nói - có, tôi sẽ đưa cô ấy đến mấy lần một tuần vậy?”
Có một tiếng cười. Eamon mỉm cười tự hào. Nhưng tôi cảm thấy những tấm thiệp trượt ra khỏi những ngón tay run rẩy của mình. Tôi không cần mấy tờ giấy đó nữa. Tôi không thể dùng chúng được.
“Nhưng điều tôi thực sự muốn nói là tôi mong - tôi biết - rằng Siobhan và Marty sẽ luôn ghi nhớ rằng một cuộc sống không có tình yêu thì không thể gọi là sống được. Nancy Sinatra đã nói vậy. Và nếu ta tìm được ai đó để yêu, thì ta không bao giờ nên để họ tuột mất. Tôi đã nói vậy.”
Tôi nâng cốc mừng Marty và Siobhan. Cyd ngước lên nhìn tôi rồi lại cúi xuống, lấy mũ che mặt.
“Các quý ông quý bà, các cô bé cậu bé, xin hãy rót đầy ly và uống mừng cặp đôi đẹp tuyệt vời này.”
Eamon túm lấy tôi khi tôi xuống khỏi sân khấu. “Nói hay phết đấy,” cậu ta nói. “Nhưng lần sau hãy cho thêm vài chuyện cười về chú rể chơi cừu nhé.”
Mãi cho đến lúc nhạc bắt đầu thì tôi mới nhận ra là mình chưa bao giờ nhìn thấy cô nhảy.
Tôi không hề biết liệu cô là một người nhảy rất cừ - như người có cùng tên với cô - hay cô nhảy hoàn toàn tệ hại một cách đáng yêu.
Tôi không biết liệu cô xoay và lướt vô cùng duyên dáng, hay cô chỉ đứng đấy bước có phần bẽn lẽn và tự hỏi nên làm gì với tay mình. Tôi không biết liệu cô nhảy như Cyd Charisse hay Sid James. Nhưng tôi biết là mình cũng chẳng quan tâm.
Nhìn Cyd nhảy cực chán cũng sẽ làm tim tôi nức nở như nhìn cô nhảy thật tuyệt. Tôi chỉ muốn nhảy với cô.
DJ đang chơi bài, “Hãy đánh thức anh khi em đi” và có điều gì đó đặc biệt ở sự phởn phơ nhí nhố của cái bản thu cũ rích này đã tràn ngập sàn nhảy.
Marty và Siobhan đang nhảy một điệu jive đầy mạo hiểm, mặt chú rể đỏ như máu khi cố nhấc cô dâu khỏi mặt đất. Eamon đứng yên một chỗ khua tay tứ phương như thể cậu ta đang say bí tỉ ở Ibiza thay vì say mèm ở Clerkenwell. Mem trườn quanh cậu ta, bĩu môi, cọ người và làm vẻ mặt dâm đãng, nhảy điệu nhảy duy nhất mà cô biết.
Gina đang cười đùa với Pat và vỗ tay khi thằng bé nhảy cái điệu nhảy nó vừa bịa ra, gồm những cú nhảy cẫng kỳ lạ làm người nó quay một vòng tròn. Richard đang khiêu vũ theo điệu slow với một trong những phù dâu. Mẹ tôi đang nhảy điệu valse với mục sư.
Và kia là Sally, giờ bụng đã to, lắc lư bên này bên nọ một cách mỉa mai, vì đây là loại nhạc chỉ nhằm làm người già thấy trẻ lại.
Và kia là Glenn, mắt nhắm tịt và khua tay loạn xạ như thể đang phiêu trong đám bùn lầy ở nhạc hội Woodstock. Tự dưng tôi có cảm giác đây là một bữa tiệc hoàn hảo. Vì Glenn nhảy giống hệt Eamon.
Nhưng tôi không nhìn thấy Cyd và Peggy đâu.
Khi Marty thả Siobhan xuống lấy hơi tôi chạm vào cánh tay cô, hét át cả giọng George Michael.
“Siobhan à, Cyd đâu?”
“Họ phải về sớm để bắt máy bay. Họ sẽ quay lại Mỹ.”
“Bao lâu?”
“Ở lại luôn. Cô ấy không nói với anh à?”
Tôi bỏ mặc chiếc MGF trên rìa xa lộ đâu đó phía Tây công viên Osterley xanh mướt ở vùng ngoại ô. Một vài ngày sau tôi thử tìm nơi này trong bản đồ đầy đủ về London, nhưng nó cách quá xa thành phố nên không nằm trong đó. Có cảm giác như tôi đã bỏ nó ở nơi tận cùng trái đất. Hay cũng có thể là nơi bắt đầu.
Nhưng rõ rành rành là tôi sẽ không đến kịp nếu lái xe. Làn xe trên đường đến Heathrow không chuyển động. Thế nhưng cứ vài giây thì một cái máy bay to bằng tàu vượt đại dương lại vút bay nơi bầu trời trên đầu tôi. Không ổn. Chiếc MGF không còn giúp được gì cho tôi nữa.
Tôi xuống xe, nhận ra rằng mình không biết họ đi hãng hàng không nào. Virgin Atlantic đã rời khỏi nhà ga số 3 nhưng British Airways đang ở nhà ga số 4. Không có đủ thời gian để đi đến cả hai. Sẽ là cái nào đây? Tôi nên chọn Richard Branson hay hãng hàng không được ưa chuộng của thế giới?
Tôi chạy dọc mép đường nhựa, máy bay gầm rú trên bầu trời xanh thẳm phía trên đầu, đuôi áo veston của tôi bay phấp phới.
Cuối cùng thì việc họ bay chuyến bay nào cũng chẳng quan trọng. Đến khi tôi tới sảnh đi thì tất cả máy bay đi Mỹ trong ngày đều đã cất cánh.
Đám đông bắt đầu thưa dần. Những người đi thì đã trên không trung. Những người tiễn thì đang trên đường về nhà. Đứng bên cửa bay quốc tế, mồ hôi chảy như tắm trong chiếc áo veston, tôi gục đầu thở dài. Tôi đến quá muộn.
Lúc đó tôi nhìn thấy nó trên sàn, một người đàn ông tiệc tùng màu hoa oải hương. Ken Disco. Tôi nhặt nó lên. Cái quần bạc của nó thật bẩn thỉu. Nó đã mất nốt chiếc giày còn lại.
Và rồi Cyd và Peggy đứng trước mặt tôi, vé máy bay vẫn còn trên tay, va li dưới chân. Họ vẫn đang mặc váy dạ hội.
“Bài nói hay thật,” Cyd nói.
“Em không nghĩ là đáng lẽ nên truyền thống hơn đôi chút à? Em không nghĩ là đáng lẽ anh phải - em biết đấy - cho thêm mấy chuyện về chú rể và con cừu à?”
“Không, nó ổn mà.”
“Em lỡ máy bay rồi.”
“Mẹ con em để cho nó đi đấy.”
Tôi lắc đầu hoài nghi. “Là em,” tôi nói.
“Hy vọng là vậy,” cô nói.
Peggy lấy lại Ken Disco khỏi tay tôi và ngước lên nhìn Cyd, như thể đang tự hỏi tiếp theo chuyện gì sẽ xảy ra.
Chiều muộn, xe taxi đen chầm chậm hướng về phía thành phố. Cyd nhìn chằm chằm những tòa nhà đầu tiên dọc đường Westway, trầm ngâm suy nghĩ, và Peggy ngủ trong vòng tay tôi.
Có những lúc đứa trẻ này có vẻ thật người lớn, thật bình tĩnh và tự tin. Nhưng khi ngồi trong lòng tôi, đầu ngả nhẹ lên vai tôi, cô bé nhẹ tựa lông hồng. Như thể cô bé vẫn là một em bé mới sinh, cả cuộc đời đang trải dài trước mặt, một cuộc đời đang đợi được thành hình.
Cô bé đang ngủ thì cựa quậy khi nghe thấy tiếng xe kem rung chuông ở đâu đó trong vô vàn những con phố Tây London. Hơn cả bất kỳ tiếng hót hay nụ hoa chớm nở nào, đây mới là dấu hiệu cho thấy những ngày tối tăm lạnh lẽo cuối cùng cũng chuẩn bị chấm dứt. Chắc hẳn mùa xuân sắp đến rồi, vì ông đính đoong đang ở đâu đó ngoài kia.
Từ ghế sau taxi, tôi không thể nhìn được chính xác ông ta ở đâu trong những con phố ngoại ô yên ắng trải dài ra tứ phía này. Nhưng âm vang của những tiếng chuông ấy văng vẳng trong đầu tôi như một ký ức thời thơ ấu, hay một giấc mơ về tiếng chuông ngày cưới.