Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 40: Tbk
B
ầu trời không một gợn mây, nhưng gió thì lạnh cắt da cắt thịt và vầng mặt trời nhợt nhạt không đủ để sưởi ấm. Harry và Aune đều đã dựng hết cổ áo khoác lên và đi song song trên đại lộ trồng những cây bạch dương đã trút sạch lá để tồn tại qua mùa đông.
“Tôi đã kể với vợ tôi anh vui mừng đến mức nào khi báo với tôi rằng Rakel và Oleg sắp về,” Aune nói. “Bà ấy hỏi là như vậy có phải ba người sắp dọn về sống chung không.”
Đáp lại Harry chỉ mỉm cười.
“Ít ra thì nhà cô ấy cũng đủ chỗ,” Aune chọc.
“Nhà tôi cũng đủ chỗ mà,” Harry nói. “Gửi lời chào Karoline và trích dẫn Ola Bauer ấy.”
“Tôi chuyển sang con phố Vô Ưu?”
“Những điều đó cũng chẳng ích gì nhiều.”
Cả hai cùng bật cười.
“Dù sao thì hiện giờ tôi chỉ đang chú tâm vào vụ án thôi,” Harry nói.
“À, vụ án đó,” Aune nói. “Tôi đã đọc hết các báo cáo như anh bảo. Kỳ lạ. Quá kỳ lạ. Anh thức dậy trong căn hộ của mình, không nhớ nổi chuyện gì rồi, đùng một cái, anh bị rơi vào trò chơi của Alf Gunnerud. Đương nhiên, để thiết lập đọc một chẩn đoán về tâm lý sau khi người ta đã chết là khá nan giải, nhưng hắn thật sự là một trường hợp thú vị. Chắc chắn là một bộ óc thông minh và sáng tạo. Thậm chí, gần như là có khí chất nghệ sĩ. Hắn đã ấp ủ một kế hoạch quá tài tình. Nhưng có vài điều tôi thấy thắc mắc. Tôi đã đọc bản sao của những email mà hắn gắn cho anh. Hắn có nhắc tới chuyện anh đã bị bất tỉnh. Điều đó có nghĩa rằng hắn đã thấy anh rời khỏi căn hộ đó trong tình trạng chếnh choáng và đoán đọc ngày hôm sau anh sẽ chẳng nhớ nổi chuyện gì, phải không?”
“Khi một người phải được dìu lên xe taxi thì sẽ là như vậy. Tôi đoán là lúc đó hắn đang đứng ngoài phố, theo dõi tôi, đúng như hắn đã đổ cho Arne Albu làm trong email. Có lẽ hắn đã liên lạc với Anna và biết tối hôm đó tôi tới. Việc tôi rời khỏi nhà cô ấy trong tình trạng say xỉn hẳn là một thuận lợi không ngờ.”
“Rồi sau đó, hắn đã mở khóa căn hộ bằng cái chìa mà hắn lấy được từ nhà sản xuất thông qua cửa hàng Lasesmeden AS. Rồi bắn chết cô ấy. Dùng súng của hắn phải không?”
“Có lẽ vậy. Số xê ri đã bị giũa mất. Cả khẩu súng mà chúng tôi tìm thấy trong tay Gunnerud ở cảng công te nơ cũng vậy. Weber bảo kiểu giũa cho thấy chúng có cùng một mối cung cấp. Có vẻ như ai đó đang điều hành đường dây nhập khẩu súng bất hợp pháp với số lượng lớn. Khẩu Glock mà chúng tôi tìm thấy trên người Sverre Olsen - cái tên đã giết Ellen ấy - cũng có những vết giũa y hệt.”
“Thế rồi hắn đặt khẩu súng vào bàn tay phải của cô ấy. Mặc dù cô ấy thuận tay trái.”
“Làm mồi nhử,” Harry nói. “Đương nhiên là hắn biết kiểu gì tôi cũng sẽ nhảy vào, nếu không vì lý do gì khác thì cũng là để đảm bảo vị trí của tôi không bị tổn hại. Và hắn biết rằng, không giống như những cảnh sát khác, tôi sẽ nhận ra bàn tay cầm súng là sai.”
“Và rồi còn tấm ảnh chụp bà Albu và lũ trẻ nữa.”
“Để dụ tôi tìm tới Arne Albu, người tình cuối cùng của cô ấy.”
“Và trước khi đi khỏi hắn đã lấy máy tính xách tay của Anna và điện thoại di động của anh đánh rơi trong căn hộ tối hôm đó.”
“Thêm một thuận lợi không ngờ.”
“Vậy là bộ óc đó dựng ngay lên một kế hoạch phức tạp, kín kẽ để trừng phạt cô nhân tình đã phản bội mình, người đàn ông mà cô ta đã bỏ hắn để đi theo trong lúc hắn bóc lịch và cái mục tiêu mới lục lại của cô ta, anh chàng cảnh sát tóc vàng. Thêm vào đó, hắn lại biết ứng biến. Hắn lợi dụng công việc của mình ở Lasesmeden AS để lọt được vào căn hộ và tầng hầm của cậu. Hắn để máy tính của Anna vào trong đó, kết nối với điện thoại di động của cậu, rồi thiết lập một tài khoản email thông qua một máy chủ không thể lần ra.”
“Gần như không thể lần ra thôi.”
“À, phải, cái gã mọt máy tính giấu tên của anh đã tìm ra nó. Nhưng cái anh ta không phát hiện được là những email anh nhận đã được viết từ trước rồi gửi đi vào những ngày đã định sẵn trên cái laptop giấu trong kho của anh. Nói cách khác, kẻ gửi những email đó đã sắp đặt tất cả từ trước khi cái máy tính được đặt vào vị trí. Chính xác chứ?”
“Ừm. Ông đã đọc những email đó chưa?”
“Rồi.” Aune gật đầu. “Ngẫm lại, anh có thể thấy rằng mặc dù chúng có nhắc đến một diễn biến sự việc cụ thể, nhưng những email đó vẫn khá mơ hồ. Song người trong cuộc thì sẽ không thấy vậy, kẻ gửi email có vẻ thường xuyên cập nhật tin tức và lên mạng. Nhưng hắn tạo được cái ấn tượng đó là vì về nhiều mặt, hắn chính là người điều khiển toàn bộ tấn trò này.”
“Ừm, chúng tôi chưa biết liệu có phải Gunnerud đã sắp đặt vụ giết hại Arne Albu không. Một đồng nghiệp của hắn ở cửa hàng khóa bảo rằng anh ta và Gunnerud đã tới quán Gamle Major uống bia vào thời điểm xảy ra án mạng.”
Aune xoa tay. Harry không rõ ông làm vậy vì lạnh hay vì thích thú khi nghĩ rằng có quá nhiều kết quả khả dĩ hoặc không khả dĩ nhưng đều hợp lý. “Cứ cho là Gunnerud không giết Albu đi”, nhà tâm lý học nói. “Vậy thì hắn định sắp đặt cho Albu số phận như thế nào khi dẫn dắt anh tìm tới anh ta? Để Albu bị kết tội? Nhưng thế thì anh sẽ thoát. Và ngược lại. Không thể nào cả hai cùng bị buộc tội trong một vụ giết người.”
“Phải,” Harry nói. “Ông phải tự hỏi xem điều gì là quan trọng nhất trong cuộc đời Albu?”
“Giỏi,” Aune nói. “Một người cha ba đứa con đã hạn chế tham vọng công danh, dù có tự nguyện hay không. Tôi đoán đó là gia đình.”
“Vậy Gunnerud sẽ đạt được gì khi tiết lộ, hoặc đúng hơn là để tôi phát hiện ra rằng Arne Albu vẫn tiếp tục gặp Anna?”
“Vợ anh ta đã đưa ba đứa con đi và bỏ anh ta.”
“Mất mạng sống chưa phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là mất lý do để sống.”
“Hay đấy.” Aune gật đầu tán thưởng. “Ai đã nói câu đó?”
“Tôi quên rồi,” Harry nói.
“Thế thì câu hỏi tiếp theo mà anh phải đặt ra là hắn muốn tước đi thứ gì ở anh, Harry? Điều gì khiến cuộc sống của anh đáng sống?”
Họ đã tới ngôi nhà mà Anna từng sống. Harry mân mê chùm chìa khóa một lúc lâu.
“Sao?” Aune hỏi.
“Tất cả những gì mà Gunnerud có thể biết về tôi là do Anna kể. Mà cô ấy biết tôi từ cái hồi tôi chưa có gì… nhiều hơn công việc.”
“Công việc ư?”
“Hắn muốn tôi phải bóc lịch. Nhưng, chủ yếu là bị đá ra khỏi ngành.” Họ vừa đi lên cầu thang vừa trò chuyện.
Trong căn hộ, Weber và người của ông ta vừa hoàn thành việc kiểm tra pháp y. Weber có vẻ vui và bảo rằng đã tìm thấy dấu vân tay của Gunnerud vài nơi, bao gồm cả đầu giường.
“Hắn chẳng cẩn thận gì cả,” Weber nói.
“Hắn tới đây nhiều đến mức có cẩn thận thì ông cũng sẽ tìm ra dấu vân tay thôi,” Harry nói. “Vả lại, hắn tin mình sẽ không bao giờ bị nghi ngờ.”
“Nhân tiện, cách Albu bị giết cũng khá thú vị,” Aune nói trong lúc Harry mở cánh cửa trượt dẫn và căn phòng có mấy bức chân dung và cái đèn chụp Grimmer. “Chôn chổng ngược. Trên bãi biển. Trông có vẻ giống như một nghi lễ, như thể kẻ giết người đang cố gắng nói với chúng ta về hắn vậy. Anh đã bao giờ nghĩ về chuyện đó chưa?”
“Không phải vụ của tôi.”
“Đó không phải là cái tôi muốn hỏi.”
“Thôi được rồi. Có lẽ kẻ giết người muốn nói điều gì đó về nạn nhân.”
“Ý anh là sao?”
Harry bật cái đèn chụp Grimmer lên và ánh sáng chiếu vào cả ba bức tranh. “Nó làm tôi nhớ tới điều gì đó hồi học luật, Luật Gulathing năm 1100. Nó nói rằng mọi người chết đều phải được chôn đất thiêng, trừ những kẻ làm điều ô nhục, phản bội và giết người. Những kẻ đó phải được chôn nơi biển tiếp giáp đất liền. Nơi Albu bị chôn không cho thấy một vụ giết người vì ghen tuông, như khi Gunnerud là thủ phạm giết anh ta. Có ai đó muốn chỉ ra rằng Albu là một kẻ mắc tội.”
“Nghe hay đấy,” Aune nói. “Tại sao chúng ta phải xem lại những bức tranh này? Trông gớm chết.”
“Ông chắc là không thể nhìn thấy bất cứ điều gì trong đó thật chứ?”
“Đương nhiên là có. Tôi có thể thấy một nghệ sĩ trẻ tự phụ nhưng lại chẳng có khiếu nghệ thuật.”
“Tôi có một đồng nghiệp tên Beate Lønn. Hôm nay cô ấy không thể tới được vì còn phải phát biểu ở một hội thảo của cảnh sát ở Đức, về việc làm thế nào để có thể nhận dạng những tội phạm đeo mặt nạ với sự trợ giúp của phần mềm xử lý hình ảnh trên máy tính và hồi hình thoi. Cô ấy có biệt tài bẩm sinh là có thể nhận ra mọi khuôn mặt từng nhìn thấy trong đời.”
Aune gật đầu. “Tôi có biết về hiện tượng đó.”
“Khi tôi cho cô ấy xem những bức tranh này, cô ấy đều nhận ra người trong đó.”
“Vậy ư?” Aune nhướng một bên lông mày. “Kể cho tôi nghe thêm đi.”
Harry chỉ tay. “Người bên trái là Arne Albu, người ở giữa là tôi và người cuối cùng là Alf Gunnerud.”
Aune nheo mắt, đẩy kính lại cho ngay ngắn và cố nhìn ba bức tranh từ những khoảng cách khác nhau. “Thú vị đấy,” ông ta lẩm bẩm. “Cực kỳ thú vị. Tôi chỉ nhìn thấy mỗi hình dáng của những cái đầu.”
“Tôi chỉ muốn biết liệu ông, với tư cách là một nhân chứng chuyên gia, có thể hạ cố công nhận có kiểu nhận thức này. Nó sẽ giúp chúng tôi tiến xa hơn trong việc tìm hiểu mối liên hệ giữa Gunnerud và Anna.”
Aune xua tay. “Nếu điều anh nói về cô Lønn là đúng thì hẳn là cô ta đã nhận ra một khuôn mặt mà chỉ cần cực ít thông tin.”
Khi trở ra, Aune nói rằng ông tha thiết muốn gặp cô Beate Lønn này vì công việc. “Cô ấy là điều tra viên phải không?”
“Ở đơn vị Chống Cướp. Tôi đã làm việc với cô ấy trong vụ Kẻ Hành quyết.”
“À, ra vậy. Vụ đó thế nào?”
“À, không có nhiều manh mối lắm. Người ta đã mong hắn sớm hoạt động trở lại, nhưng chẳng có gì xảy ra. Thật ra là rất lạ.”
○○○
Trên phố Bogstadveien, Harry nhận ấy những bông tuyết đầu tiên liệng trong gió.
“Đông tới rồi!” Ali hét lên với Harry qua con phố, tay chỉ lên trời. Anh ta nói gì đó với anh trai mình bằng tiếng Urdu, anh này lập tức tiếp quản việc vác những cái sọt hoa quả cất vào trong cửa hàng. Rồi Ali đi bộ sang đường về phía Harry. “Thật tuyệt khi mọi chuyện qua đi, phải không?” Anh ta mỉm cười.
“Phải,” Harry đáp.
“Mùa thu thật kinh khủng. Cuối cùng thì cũng có chút tuyết rơi.”
“À, phải. Tôi cứ nghĩ là anh định nói vụ án.”
“Về chuyện cái máy tính xách tay trong kho của anh hả? Chuyện đó kết thúc rồi à?”
“Chưa ai nói gì với anh sao? Họ đã tìm ra thủ phạm để nó vào đấy.”
“A ha. Chắc đó là lý do vì sao vợ tôi được báo là rốt cuộc hôm nay tôi không cần phải tới đồn cảnh sát để thẩm vấn nữa. Mà đầu đuôi chuyện đó là sao?”
“Nói vắn tắt thì có một gã đang cố gắng dựng chuyện là tôi dính líu tới một tội ác nghiêm trọng. Mời tôi tới dùng bữa đi, tôi sẽ kể hết mọi chi tiết.”
“Tôi đã mời rồi còn gì, Harry!”
“Anh đâu có nói khi nào.”
Ali đảo mắt. “Tại sao anh phải có ngày giờ trước rồi mới dám ghé qua? Cứ gõ cửa là tôi ra mở ngay. Lúc nào chúng tôi chẳng có đồ ăn.”
“Cảm ơn, Ali. Tôi sẽ gõ thật to và rõ.” Harry mở cửa.
“Anh có khám phá ra người phụ nữ đó là ai không? Cô ta có phải là một trợ thủ của hắn không?”
“Ý anh là sao?”
“Người phụ nữ bí ẩn mà tôi đã thấy đứng trước cửa tầng hầm ngày hôm đó. Tôi đã nói với tay Tom nào đó rồi mà.”
Harry đứng lại, tay vẫn đặt trên tay nắm cửa. “Chính xác là anh đã nói gì với anh ta, Ali?”
“Anh ta hỏi là liệu tôi có nhìn thấy bất cứ thứ gì bất thường trong hoặc xung quanh tầng hầm không, thì tôi nhớ ra là đã thấy một người phụ nữ mà tôi không nhận ra đứng quay lưng lại bên cạnh cửa tầng hầm trong lúc tôi về tới gần tòa nhà. Tôi nhớ vì tôi định hỏi cô ta là ai thì nghe thấy tiếng ổ khóa kêu lách cách, nên tôi nghĩ nếu cô ta có chìa thì chắc không sao.”
“Lúc đó là vào khi nào và trông cô ta ra sao?”
Ali xòe hai lòng bàn tay ra tỏ vẻ xin lỗi. “Tôi bận quá và chỉ nhìn thoáng qua thôi. Ba tuần trước thì phải? Hay là năm tuần? Tóc vàng? Hay tóc đen nhỉ? Tôi cũng chẳng nhớ nữa.”
“Nhưng anh chắc đó là phụ nữ chứ?”
“Chắc có lẽ lúc đó tôi đã nghĩ là phụ nữ.”
“Alf Gunnerud cao tầm thước, vai hẹp và tóc đen, dài chấm vai. Điều đó có khiến anh nghĩ là phụ nữ không?”
Ali ngẫm nghĩ. “Có, chắc là vậy. Mà cũng có thể là con gái của bà Melkersen tới thăm chẳng hạn.”
“Chào Ali.”
Harry quyết định tắm nhanh rồi thay đồ để đi thăm Rakel và Oleg, hai mẹ con cô đã mời anh tới ăn bánh kếp và chơi Tetris. Từ Moscow về, Rakel đã mang về một bàn cờ vua đẹp long lanh, quân cờ đẽo tay và bàn cờ làm bằng gỗ khảm trai. Không may là Rakel lại không thích khẩu súng G-CON 45 Namco mà Harry đã mua cho Oleg nên tịch thu ngay lập tức. Cô giải thích rằng cô đã bảo Oleg rất nhiều lần không được nghịch súng đồ chơi cho đến ít nhất là mười hai tuổi. Harry và Oleg đều chấp thuận mà không dám cự nự gì, vẻ mặt xấu hổ. Nhưng hai chú cháu đều biết Rakel sẽ tận dụng cơ hội có Harry trông Oleg để chạy bộ. Và Oleg đã thì thầm vời Harry rằng nó biết mẹ giấu súng ở đâu.
Những tia nước nóng bỏng xua cái lạnh ra khỏi cơ thể anh trong lúc anh cố quên đi nhưng gì Ali đã nói. Bất cứ vụ nào cũng luôn có chỗ cho những nghi ngờ, dù nó có vẻ rõ ràng và đã được giải quyết triệt để đến đâu. Mà Harry vốn hay hoài nghi. Nhưng đến một ngưỡng nào đó, ta cũng phải có niềm tin, để cuộc sống được sáng tỏ hoặc để ta hiểu được cuộc sống.
Anh lau khô người, cạo râu và thay áo sạch. Soi vào gương, anh nhe răng ra. Oleg bảo rằng răng anh ố vàng làm Rakel đã bật cười hơi to. Trên gương, anh thấy bản in của cái email đầu tiên mà TBK gần, ghim trên bức tường đối diện. Mai anh sẽ gỡ xuống và đính tấm ảnh hai anh em lên. Ngày mai. Anh nhìn cái thư trong gương. Kỳ lạ là anh không hề nhận ra vào cái buổi tối anh đứng trước gương và cảm thấy yếu mất gì đó. Harry và em gái. Chắc là vì khi nhìn thứ gì đó qua thường xuyên thì dần dần người ta sẽ không còn thấy nó nữa. Không nhìn ra. Anh nhìn kỹ cái email trong gương. Rồi anh gọi taxi, xỏ giày sẵn và đợi. Nhìn đồng hồ đeo tay. Giờ này chắc taxi đã tới rồi. Đi thôi. Nhưng anh nhận ra là anh lại nhấc ống nghe lên và đang bấm số.
“Aune đây.”
“Tôi muốn ông đọc lại những email đó lần nữa và nói cho tôi biết ông nghĩ chúng do đàn ông hay phụ nữ viết.”