It often requires more courage to read some books than it does to fight a battle.

Sutton Elbert Griggs

 
 
 
 
 
Tác giả: Herman Wouk
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Bach Ly Bang
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1585 / 27
Cập nhật: 2015-09-18 09:02:08 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 37: Bản Án
y viên công tố Challee đứng lên, mặt như một kẻ đang tiến vào một trận chiến quyết liệt, mở đầu lời buộc tội của ông ta:
- Thưa quý tòa, tôi thật là khó lòng trang cãi trường hợp trình bày của luật sư biện hộ. Tôi không có điều gì để bác bỏ. Bên bị cáo đã không đưa ra được một viện chứng nào hết. Cái lý lẽ của phía bị cáo thật ra chẳng những không đứng vững mà còn không ăn nhằm chút nào tới tội trạng đang xử hôm nay. Nó lại càng không liên quan gì đến bị cáo, hay chính những hành vi của bị cáo đang được xét xử trong tòa án hải quân này.
Luật sư bên phía biện hộ ngay khi mở đầu phiên xử đã đưa ra câu hỏi "hạm trưởng, có bao giờ hạm trưởng nghe ba tiếng "Lão dấu vàng" hay không?" Tôi đã phản đối liền câu chất vấn này, và ngày hôm nay, tôi cũng đang phản đối toàn bộ cái chiến lược và chiến thuật của luật sư bên bị cáo trước quý tòa. Cái ý đồ của họ là cố tình bóp méo thủ tục tố tụng để biến bị cáo không còn là Maryk nữa mà lại là hạm trưởng Queeg. Trên một phương diện nào đó, họ đã thành công một phần. bên biện hộ khai thác các nhân chứng một cách tối đa để lôi móc ra được tất cả những chỉ trích đầy ác ý và hiểm độc về vị hạm trưởng của họ, và bắt buộc ông Queeg phải tự mình biện hộ, chống trả họ trước phiên tòa khoáng đại này, một cách bất ngờ, mà không hề được chuẩn bị gì tuyệt vời, không được tham khảo luật sư, cũng như không được những bảo vệ thông thường của một bị cáo theo quân luật hải quân.
Tôi tự hỏi. Phía bên biện hộ đã chứng minh được gì trong những lời vu khống, mạ lỵ, các câu hỏi lừa lọc man trá, và lời phỉ báng? Cứ cho rằng tất cả những gì họ đổ tội lên đầu hạm trưởng Queeg là đúng - chuyện không bao giờ tôi có thể thừa nhận được - Kể cả vậy đi nữa, thì họ cũng chẳng chứng minh được điều gì, tôi muốn nói là, ngoại trừ việc ông Queeg không phải là một sĩ quan xứng đáng? Bên phía biện hộ cố đưa ra được cái gì, ngoài việc là trong suốt nhiệm kỳ của hạm trưởng trên chiếc Caine như là một tình trạng hỗn độn, với những phê phán không quang minh của một hệ thống hành chánh nghèo nàn èo ọp? những việc này có thể cho phép đại úy Maryk truất quyền chỉ huy của hạm trưởng hay sao? Liệu phiên tòa ngày hôm nay có thể xác nhận một tiền lệ là một hạm trưởng cho dù có vài lầm lỗi lại bị thuộc hạ của ình truất quyền chỉ huy hay chăng? rồi sau đó ông ta chỉ còn cách duy nhất là nhờ cậy vào việc được ra làm nhân chứng trước phiên tòa quân sự và phải trả lời tất cả những câu chất vấn về những kêu ca nhỏ nhen và - phải tự biện hộ cho những quyết định về việc chỉ huy của mình trước một luật gia hung hãn đứng về phía những kẻ thuộc quyền bất tuân thượng lệnh hay sao? Một tiền lệ như vậy thì không có gì khác hơn là tòa án sẽ khoán trắng cho việc nổi loạn. Đó là một sự hủy diệt toàn bộ hệ thống quân giai hải quân.
Đối tượng của vụ án này là quyết định xem hạm trưởng Queeg là người lành lặn hay mất trí - sự mất trí, chứ không phải những nhầm lẫn, hay là những hành động có hại, hay là khu xử kém hợp lý. Tinh thần của các điều luật 184, 185 và 186 gạt bỏ ra tất cả trường hợp khác ngoại trừ sự điên dại hoàn toàn, và không thể chối cãi được của người hạm trưởng. Bên phía biện hộ đã không cố gắng để muốn chứng minh như vậy, bởi một lẽ rất giản dị là chuyện đó không hề có bao giờ. Hạm trưởng Queeg lúc nào cũng lành mạnh và vẫn lành mạnh như tất cả chúng ta, bất kỳ những lầm lỗi của ông, và luật sư biện hộ biết rõ điều này.
Có vị sĩ quan nào trong phiên tòa ngày hôm nay đã từng hải hành với một ông hạm trưởng không bao giờ vấp phải một xét đoán sai trái nào không? có sĩ quan nào trên năm năm thâm niên trong hải quân mà chưa bao giờ làm việc dưới quyền một vị hạm trưởng có một nhân cách hơi khác thường, nếu không nói là lập dị không? Chỉ huy trong hải quân là một thử thách khó khăn nhất cho một con người. Hạm trưởng là ông trời - theo lý thuyết. Trong thực tế các vị hạm trưởng xa rời không ít thì nhiều cái lý tưởng này. Nhưng chính sách về tuyển mộ trong hải quân thì bất di bất dịch. Đó là lý do tại sao, khi có những tranh chấp, hay bất đồng thì vị hạm trưởng bao giờ cũng được coi là đúng. Ông ta là người đã qua mọi thử thách, và đã được tôi luyện trong lửa đỏ. dù ông ta có những sự đớn hèn, yếu đuối - có thể là những sự đớn hèn, yếu đuối trầm trọng - nhưng ông ta chính là người có khả năng chỉ huy một chiến hạm.
Để chứng minh điều đó, tôi chỉ cần nêu ra đây một sự kiện đã được ghi nhận, rằng trường hợp này là trường hợp đầu tiên trong ba chục năm nay mới có vấn đề ngờ vực một hạm trưởng liên quan đến điều luật nói trên. Và kể cả trong trường hợp này, những kết luận khoa học của các bác sĩ tâm thần đã đồng thanh xác quyết rằng hệ thống tuyển lựa sĩ quan trong chức vụ chỉ huy của hải quân là hoàn hảo. Các bác sĩ cũng nói rằng Bộ tư lệnh hải quân đã biết rất rõ công việc của mình khi giao quyền chỉ huy chiếc Caine cho thiếu tá Queeg.
Lợi dụng sự dễ dãi của quý tòa, bên biện hộ đã đưa ra từng lỗi lầm lặt vặt, từng sai trái về các phán đoán mà hạm trưởng chiếc Caine mắc phải hay những gì mà kẻ thuộc quyền nghĩ tôi ông ta đã phạ. Quý tòa cũng hiểu rằng tất cả những thứ đó được tạo thành những lời kêu ca than vãn về sự khắt khe và cái tỉ mỉ quá đáng - về tất cả mọi chuyện ngoại trừ một điểm. Điểm đó là quy trách một sĩ quan hưởng hèn nhát trước lửa đạn của quân thù. Tôi sẽ không bàn cãi về điểm này. Tôi để lại việc này cho quý tòa tùy nghi thẩm định xem một sĩ quan hèn nhát lại có thể tiến lên tới chức vụ chỉ huy trưởng của một chiến hạm và lại có thể dấu diếm thượng cấp của mình điều này trong suốt mười lăm tháng chiến đấu. Tôi trông cậy nơi quý tòa để biết sự khác biệt giữa một phán xét sai quấy và sự hèn nhát. Tôi dành việc này cho quý tòa quyết định bôi bỏ vết nhơ này cho hải quân. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự việc, hạm trưởng Queeg được giao chỉ huy một chiến hạm tồi tàn, lỗi thời, quá hạn kỳ, bệ rạc. Ông ta đã lèo lái chiến hạm này, tham gia vào cuộc chiến suốt mười lăm tháng trời mà không hề hấn gì, và với những công tác được giao phó, gặt hái không biết bao nhiêu thành quả tốt đẹp làm vừa lòng thượng cấp. Tôi không hề thấy những ghi nhận biểu thi bất mãn nào về phía cấp trên của ông - mà chỉ có về phía các sĩ quan thuộc quyền. Ông ta đã đạt được kết quả chiến đấu khả quan mặc dù có những oán ghét và không trung thành của sĩ quan. Ông ta đã đạt được như vậy mặc dù có những căng thẳng nội tâm, như các bác sĩ đã ghi nhận - với những chi tiết mà bên phía biện hộ đã thao túng và dựa vào đó, nhưng chỉ là vô vọng, để kết luận rằng đó là những dấu hiệu của chứng bệnh điên loạn. Hạm trưởng Queeg đã thành công, mặc dù với những khó khăn riêng mình, và với lòng bất trung của sĩ quan của ông ta, không phải với những thành tích tầm thường, mà bằng những thành tích vinh quang, sáng chói. Tượng trưng cho một kẻ trung thành, chăm chỉ làm việc, là một sĩ quan đầy lương tâm chức nghiệp, ông ta đã phải hứng chịu một cách bất công cái thử thách quá nặng nề.
Bị cáo không chứng minh được một điều gì. Bên phía biện hộ cũng không tìm đâu ra được các bác sĩ tâm thần có thể chối bỏ những xét nghiệm y khoa. Họ không làm việc đó chỉ vì họ không thể nào tìm ra được gì hết. Một khi áng mây mù của những vu khống tan biến đi rồi, thì những sự kiện trở lại như khi bắt đầu phiên tòa này. Hạm trưởng của một chiến hạm hải quân Hoa kỳ bị thay thế quyền chỉ huy của mình một cách ngang nhiên và không được thượng cấp chấp thuận. Việc đòi hỏi áp dụng các điều luật 184, 185 và 186 đã bị vô hiệu hóa bởi kết quả khám nghiệm y khoa. Bị cáo đã không đưa ra được lý do gì có thể bào chữa tội phản loạn đó, dù là do bệnh tâm thần hay do lẽ gì khác nữa. Các chuyên viên đã chứng nhận rằng những quyết định của hạm trưởng Queeg khi làm vận chuyển trong cơn bão cho tới khi ông ta bị thay quyền không những hữu lý và lành mạnh mà còn hữu hiệu nhất trong tình thế đó.
Những sự kiện cụ thể đó đã kết tội bị cáo. Bên biện hộ không nêu ra được một trường hợp giảm khinh nào. Tôi chắc chắn là quý tòa sẽ không rơi vào cái mưu toan vô liêm sỉ, xấc xược của bên biện hộ là tìm cách ảnh hưởng đến tình cảm xúc động của quý vị ở đây. Quý tòa sẽ tìm thấy các tội trạng truy tố được minh chứng bằng các sự kiện cụ thể.
Sự tương phản của những giọng điệu giữa Challee và Greenwald thật không có gì rõ rệt hơn. ủy viên công tố đã phát biểu lời buộc tội rất nhiệt tình, viên phi công thì tỏ ra mềm dẻo, nhút nhát và do dự. Anh ta không ngớt nhìn Blakely, rồi quay qua nhìn Challee. Anh ta bắt đầu bằng cách khai rằng anh ta chịu ra biện hộ cho Maryk, là chuyện chẳng đặng đừng, theo lời yêu cầu nài nỉ của ủy viên công tố. anh ta nói rằng:
- Tôi đã không muốn, vì tôi biết rằng cách bào chữa duy nhất cho bị cáo là chứng minh trước tòa sự thiếu năng lực tâm trí của một sĩ quan hưởng. Đó là một công việc chán ngấy nhất mà tôi chưa từng được giao phó. Tôi cũng xin nói rõ một điều. Bên biện hộ không bao giờ chủ ý xác nhận rằng hạm trưởng Queeg là một kẻ hèn nhát. Toàn bộ của phần biện hộ đã dựa trên sự ức đoán trái ngược: là không có người nào tiến lên được chức vụ chỉ huy một chiến hạm hải quân Hoa kỳ lại có thể là một kẻ nhút nhát. Và nếu ông ta đã có những hành vi đáng bàn cãi trước lửa đạn quân thù, thì chúng ta phải tìm lời giải thích ở chỗ khác.
Tiếp tục cùng với một giọng điệu bình tĩnh, do dự, Greenwald duyệt xét lại tất cả những bằng chứng chống lại Queeg, đưa ra những điểm nổi bật có thể làm Blakely chú ý. Anh ta nhấn mạnh rằng cả hai chuyên viên tâm thần đều chấp nhận, dưới hình thức này hay hình thức khác, rằng Queeg mắc bệnh. Anh ta lặp đi lặp lại rằng chỉ có tòa án, hiểu rõ về hải nghiệp, mới có thể quyết định là căn bệnh của Queeg có trầm trọng hay không để thẩm định ông ta thiếu năng lực. Một cách vắn tắt, anh ta dựa vào cung cách của Queeg trước phiên tòa - trốn tránh trả lời thẳng vào vấn đề, thiếu mạch lạc, từ chuyện này nói qua chuyện kia, và nói liên hồi - như là bồi thêm nữa cái tang chứng bất hạnh về căn bệnh điên loạn của ông ta. Anh ta đề cập rất ít đến Maryk, chỉ toàn nói về Queeg, Queeg…và Queeg không thôi.
Tòa đã nghị luận hết một tiếng đồng hồ mười phút. Maryk được tha bổng.
Trên lề đường bên ngoài cao ốc tòa án quân sự, Maryk và Greenwald được một nhóm nhỏ tưng bừng vui vẻ bao quanh. Mẹ của viên hạm phó ôm chặt lấy con mình, bà cười trong đôi hàng lệ, bà vừa nhỏ người, vừa mập, đầu đội một chiếc nón màu xanh lá cây, với một bộ mặt tròn, nhăn nheo như là một tấm ảnh nhăn nhúm của đứa con của bà. Bên cạnh bà người cha viên hạm phó, một người ít nói, mập mạp, và kém phần thanh lịch, vỗ nhẹ vào đôi vai của vợ. Tất cả sĩ quan chiếc Caine đều có mặt tại đây. Willie Keith thì nhảy nhót và la hét, gặp ai cũng đập mạnh vào lưng. Mọi người đều ầm ĩ, chúc mừng nhau trong vui thú. Ai cũng tới hân hoan bắt tay Maryk.
Keefer la lớn:
- Nè, bây giờ các bạn nghe đây. Chúng ta phải đãi tiệc mừng chớ!
Có tiếng đồng thanh rần rần đáp lại:
- Phải đó! Phải đãi! Chúng ta phải đãi! Phải vui say!
Keefer la tiếp:
- Các bạn có nghe tôi không? Đã sắp đặt cả rồi. Ăn tối ở tiệm Fairmont! Tôi đã mướn một phòng. Tôi bao hết! tôi giàu mà! Chúng ta đãi tiệc mừng tới hai chuyện. Tôi vừa nhận được thư sáng nay cho biết đã ký hợp đồng cho in cuốn tiểu thuyết của tôi, kèm theo một ngân phiếu một ngàn đô! Chapman House đãi chúng ta đấy!
Từ một cao ốc phía bên kia đường, các thủy thủ sửng sốt quay nhìn lại nhóm sĩ quan sướng điên cuồng đang la hét, nhảy nhót dưới buổi chiều tà nóng cháy.
Harding la lên:
- Tôi sẽ say bí tỉ!
- Còn tôi sẽ vô nhà thương khu bợm rượu. Tôi sẽ khoái chết được!
Jorgensen quá vui mừng ôm chầm lấy cây khuynh diệp mà hôn. Đôi mắt kính anh ta rơi xuống và gãy nát. Anh ta nhìn quanh, cười ngặt nghẽo.
Nhà văn lên tiếng:
- Không có uống cái gì hết, chỉ uống sâm banh thôi. Rượu sâm banh để đãi nền tự do thứ năm, tự do giải thoát khỏi Lão Dấu Vàng!
Maryk nheo mắt lại, hơi lúng túng:
- Greenwald có được mời không?
Keefer rống lên:
- được mời chớ! Hắn là khách danh dự mà. Một Daniel. Một nhà hùng biện làm chấn động vũ trụ. Cả ông bô và bà bô nữa! Đánh điện liền cho mấy anh em bà con. Nói họ lấy máy bay tới đây đi! Anh muốn mời ai tùy ý!
Greenwald nói:
- Các anh nên chung vui với nhau. Hãy để tôi ngoài cuộc…
Bà mẹ nói với đứa con trong thổn thức:
- Con là một đứa phúc hậu, Steve. Con chẳng bao giờ làm điều gì sai trái…
Maryk gỡ thoát ra khỏi vòng tay bà mẹ:
- Anh tới với tụi này đi. Nếu anh không đến thì tôi cũng không buồn tới nữa. Không làm gì hết.
Keefer một tay choàng lên vai Greenwald, nói:
- Anh không nên làm hư bột hư đường hết. Buổi dạ tiệc này có ý nghĩa gì, nếu như không có tài tử chánh của nó?
Viên luật sư gỡ tay Keefer ra và trả lời:
- Anh mới là tài tử chánh - trị giá một ngàn đô.
Keefer kêu lên:
- Tôi sẽ gửi limousine tới đón anh…
- Khỏi cần. Tiệm Fairmont hả? Được rồi, tôi sẽ tới.
Greenwald quay gót và bước đi. Maryk có chiều lo lắng, gạn hỏi:
- Anh đi đâu đó, Barney?
- Dọn dẹp rác rưởi với Challee. Anh tới đó chứ, Steve? Hẹn gặp tối nay.
Keefer nói với theo sau lưng anh ta:
- Nhớ cho Challee một mảnh khăn để lau nước mắt. Với lời khen tặng của chiếc Caine!
Cả tràng tiếng cười đồng thanh vang lên từ các sĩ quan.
Một cái bánh to tưởng có hình dáng cuốn sách là một trang trí quan trọng bậc nhất của cái bàn:
Trùng trùng điệp điệp
Tiểu thuyết của
Thomas Keefer
Được viết trên cái bánh với nét chữ lả lướt thon gọn bằng đường. Bánh được bao quanh bởi những lá cây dương xỉ và hoa hồng. Trên bàn đầy những hoa, đèn nến, dao muỗng nĩa bằng bạc, và mấy chai sâm banh. Mấy miếng nhôm màu vàng bạc gỡ ra từ những chai sâm banh nằm la liệt trên tấm trải bàn trắng toát. Đã bảy giờ tối rồi, mà cái ghế ngay đầu bàn còn để trống và thức ăn chưa dọn ra. Các sĩ quan đã say sưa nói năng ồn ào. Vợ chồng Maryk cười một cách miễn cưỡng trong cái vui nhộn huyên náo chung quanh họ, hai người cười lớn hơn khi thấy thằng con của họ cười. viên hạm phó ngồi bên phải chiếc ghế trống của Greenwald, với cha mẹ mình bên cạnh. Trước mặt Maryk là Keefer và Willie, ngồi kế nhau, thay phiên kể chuyện vui nhộn và chế diễu Lão Dấu Vàng. Đó là một đề tài không bao giờ cạn. Jorgensen, ở cuối bàn, hòa mình với tiếng cười nắc nẻ, nước mắt hắn chảy ra từ cặp mắt đỏ ngàu. Nhiều sĩ quan mới đổi xuống lúc chiến hạm trở về, chưa hề biết Queeg, nghe kể chuyện với đôi mắt tròn xoe, cười theo lấy lệ, và uống nhiều sâm banh của Keefer.
Willie đã sống những giờ phút thần tiên. Dù anh nghi ngờ rằng Keefer đã không tỏ ra can đảm trước tòa án quân sự, nhưng anh cũng không biết làm sao để hiểu rõ tất cả sự thật. Các nhân chứng không được phép nghe nhân chứng khác khai gì trước tòa, và Maryk chả bao giờ nói một lời gì về Keefer. Tất cả những nghi ngờ day dứt đều bị quên lãng trong việc viên hạm phó được tha bổng một cách huyền diệu, sự lo âu của Willie cũng biến mất luôn. Anh uống nhiều sâm banh của nhà văn như những người khác, nhưng chắc là không bằng Harding. Người bạn cùng ở chung trong phòng thuốc súng ngày nào đã lên niết bàn của men say. Thỉnh thoảng Harding đứng lên chuệch choạng đi tới ôm hôn vài người, Keefer, Maryk hay là Paynter, mà không cân biết ai. Hắn ta đến ôm hôn Willie, nói thều thào:
- Anh ta cho tôi cái mũ cát két của anh ta, để tôi cho chó ăn chè vào trong đó. Thật là một bậc quý phái, anh Willie Keith này…
Keefer nói:
- Nó có thể bổn cũ soạn lại thêm lần nữa đêm nay, trước khi trời sáng.
Willie nhân đó mới lấy cái tô bằng bạc đựng ngò tây và cầm giữ dưới miệng của Harding, và Harding làm bộ như là ói mửa vào trong đó, cái trò chơi này làm ai cũng cười rộ lên, ngoại trừ hai người đứng tuổi hơi bối rối không kịp tán thành cái trò này. Buổi tiệc đang tiếp tục vui vẻ như vậy trong niềm hạnh phúc của mọi người thì Keefer đứng dậy, la lớn:
- Anh ta tới rồi! Hãy rót đầy ly của các bạn! Một ly rượu chúc mừng sức khỏe của kẻ anh hùng chiến thắng vinh quang! Greenwald vĩ đại!
Bộ quân phục xanh của viên luật sư bị nhàu hết cả, bước đi của anh ta không mấy vững chãi, nhưng chẳng ai ở đó để ý. Anh ta đi tới đầu bàn, đứng ngay chỗ của mình một cách vụng về, một tay vịn trên cái ghế trống, nhìn quanh tất cả mọi người, miệng anh mềm mỏng:
- Buổi dạ tiệc đêm nay tiến triển thật khả quan.
Trong khi đó sâm banh tràn đầy trong những ly thủy tinh, và các sĩ quan hoan hô nhiệt liệt.
Keefer gõ vào ly của mình bằng con dao:
- Xin tất cả yên lặng, mấy tên nổi loạn say sưa này…tôi nói là một ly rượu mừng - anh ta giơ cao ly rượu - Xin mừng trung úy Barney Greenwald…một Cicero với hai gạch vàng…một Darrow với cánh bay - một kinh hoàng cho ủy viên công tố - một kẻ cứu vớt người bị ăn hiếp, áp bức - một luật ghia như thánh George bằng cái lưỡi đáng sợ của ông đã tiêu trừ con khủng long quái ác nhất này: Lão Dấu Vàng!
Tất cả mọi người hoan hô nhiệt liệt, họ say mèm hết trơn, đồng thanh hát bài ca For He’sợ a Jolly Good Fellow trong cái âm thanh vô trật tự. viên luật sư vẫn đứng đó, người trông xanh xao và ốm yếu, miệng anh ta chúm lại.
Keefer nói:
- Diễn văn! Diễn văn!
Keefer vỗ tay và ngồi xuống ghế, và mọi người cùng la và đồng thanh vỗ tay:
- Không đâu, không có diễn văn gì cả.
Greenwald lầu bầu, nhưng rồi chỉ có một mình anh ta còn đứng, tất cả các bộ mặt đều hướng về phía anh ta. Buổi tiệc tự thu gọn vào một sự yên lặng, chờ đợi. Anh ta nói:
- Tôi còn quá chén hơn các anh. Tôi đã đi nhậu với ủy viên công tố - cố gắng thuyết phục anh ta lấy bớt lại một ít tên bẩn thỉu mà anh ta đã gán cho tôi - rốt cuộc chúng tôi đã bắt tay nhau ở ly whisky thứ chín, có thể là thứ mười…
Maryk nói:
- Thật quá tốt. Challee là một người khả kính…
- Tôi đã phải lớn họng, Steve…Anh biết không, chẳng phải là những lời biện giải trong sạch gì mà tôi đã trình bày trước tòa - tội nghiệp cho Jack, luận cứ của ông ta rất sâu sắc …Multitudes, Multitudes, hả - Anh ta nhìn phớt qua cái bánh - À, tôi nghĩ rằng mình phải chúc mừng lại tác giả lừng danh này mới được.
Anh ta với lấy chai sâm banh và rót đầy rượu vào một ly làm tràn ra cả tay anh ta:
- Lẽ dĩ nhiên đó là một cái tựa lấy từ thánh kinh phải không? Một quyển sách về chiến tranh phải viết như thế, không thể nào viết hơn được. Tôi đoán chắc rằng anh đã cho hải quân một trận đòn đích đáng hả?
Nhà văn cười nhẹ:
- Tôi không tin rằng phòng tâm lý chiến của bộ tư lệnh lại đặt mua cho các thư viện đơn vị…
- Cũng hay. Cũng phải có ai đó nói cho mọi người biết một lũ không xài vào đâu được, như những tên lính Phổ ngu dại này - Greenwald lảo đảo với lấy được cái ghế - Nói cho anh biết là, tôi đã khứa rồi…Nhưng tôi cũng sẽ đọc một bài diễn văn, anh đừng có lo…Tôi chỉ muốn biết về quyển sách trước đã. Ai là nhân vật chính, anh hả?
- Ồ, như anh biết đó mà, mọi sự trùng hợp chỉ toàn là ngẫu nhiên đấy thôi…
- Hẳn nhiên là tôi bị lệch lạc, và tôi cũng say, mùi nhưng bỗng nhiên tôi lại nghĩ rằng nếu tôi viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh, thì tôi sẽ cố để nhân vật chính trong truyện là Lão Dấu Vàng, được vinh danh như một anh hùng.
Jorgensen cười hô hố, những người khác chẳng ai cười cả, viên thiếu úy tiu nghỉu, mở đôi mắt tròn xoe.
- Mà không, tôi đàng hoàng lắm mà, tôi sẽ làm. Tôi sẽ nói tại sao. Cho các anh biết là tôi xuống tinh thần đến cỡ nào. Gần như tất cả các anh đều biết, tôi là người Do Thái. Tên là Greenwald, loại tên như là độc nhất, và tôi chắc rằng tôi là chính thực một tên Do Thái, từ thuở xa xưa rồi. Jack Challee nói là tôi đã dùng chiến thuật tinh ma của luật gia Do Thái - lẽ dĩ nhiên ông ta xin rút lại lời nói đó, xin lỗi, sau khi tôi nói cho ông ta những cái lặt vặt mà ông ta chưa biết…Dù sao đi nữa…Lý lẽ mà tôi để Lão Dấu Vàng là một vị anh hùng cũng vì câu chuyện về mẹ tôi, một người đàn bà Do Thái nhỏ thó với đầu tóc bạc trắng, lại mập giống hệt như bà Maryk ở đây, nếu tôi có thể nói như vậy, không dám ác ý gì cả.
Anh ta nói là "ác ý". Bài diễn văn bây giờ vừa ngập ngừng vừa hỗn loạn. Anh ta nắm chặt cái ly làm nghiêng tran sâm banh. Những vết sẹo trên tay làm thành cách khoanh tròn nhỏ màu đỏ chung quanh lớp da ghép.
- Phải rồi, ai cũng có mẹ, nhưng các bà mẹ của mấy anh sẽ không có cùng thân phận với mẹ của tôi nếu như chúng ta thua cuộc chiến này. Dĩ nhiên mình không thể thua được, có lẽ giờ đây mình đã thắng rồi không chừng! các anh biết là, cái bọn đức Quốc Xã chúng đâu có tha gì dân Do Thái. Ở bên đó tụi nó đang nấu tụi tôi để làm xà bông đó. Chúng cứ nghĩ rằng chúng tôi là loài sâu bọ, và phải diệt trừ đi và biến thân xác chúng tôi ra thành cái gì đó, hữu ích. Mà nếu như chúng ta chấp nhận cái tiền đề này - dĩ nhiên là tôi thì bị lệch lạc cho nên tôi không chấp nhận cái tiền đề này, nhưng nếu mình chấp nhận cái tiền đề đó thì xà bông là một ý kiến hay ho như tất cả mọi ý kiến khác thôi. Thế nhưng, tôi lại không thể tán đồng cái ý nghĩ là người ta nấu mẹ tôi thành một cục xà bông. Tôi đã có một người chú và một bà dì ở Cracow, họ bây giờ là xà bông ráo trọi, nhưng đó là chuyện khác. Tôi chả bao giờ gặp người chú hay bà dì này, chỉ biết họ qua những lá thư viết bằng tiếng Do Thái lúc tôi còn nhỏ, nhưng tôi chả khi nào đọc được những lá thư này. Là người Do Thái, nhưng tôi không đọc chữ Do Thái được.
Mọi người chăm chú nhìn anh, trở nên tỉnh rượu dần và bâng khuâng. Greenwald nói tiếp:
- Tôi trở lại chuyện Lão Dấu Vàng. Bàn về lão ta đây. Các bạn biết không, hồi xưa đi học luật và già Keefer khi đó đang viết vở kịch cho nhà hát Guild, và bạn Willie đây cũng đang đùa nhảy trong mấy sân chơi ở Prinshton, vào thời này những đứa mà mình gọi là sĩ quan hiện dịch - những tên lính Phổ ngu dốt mập như heo này, trong hải quân như trong bộ binh, đứng gác ở các ụ súng. Chắc chắn là cái đám đó vào quân đội không phải là để cứu mẹ tôi ra khỏi bàn tay của Hitler, tụi nó vô quân đội để kiếm bạc, như những người khác thôi. Câu hỏi đặt ra là, trong cái phần phân tách vừa rồi - phân tách cuối cùng - các anh làm gì, làm cái gì để kiếm ra tiền? Lão Dấu Vàng, vì tiền, đã canh giữ cái xứ sở rộng lớn yên tĩnh và hạnh phúc này của chúng ta. Trong thời gian này, tôi đã tiến bước cái cuộc sống tự do bé nhỏ của tôi, không như tên lính Phổ, cũng chỉ để kiếm tiền. Lẽ dĩ nhiên là, chúng ta nghĩ rằng trong những ngày tháng đó, chỉ có những đứa ngu dại mới đi vào quân đội. Lương thấp kém, không có một tương lai giàu sang, mà không được quyền làm chủ tâm hồn hay thể xác mình. Binh nghiệp cũng không phải là một nghề cho một kẻ trí thức đàng hoàng. Đến khi mà mọi việc tan tành và bọn đức bắt đầu thiếu xà bông mới nghĩ ra rằng, à, đã đến lúc mình qua bên đó đem bà Greenwald đi nấu…Vậy ai có thể ngăn cản chúng? Không phải là thằng con Barney của bà đâu, đâu có thể ngăn chặn được bước tiến của bọn đức Quốc Xã bằng quyển sách luật được. Do đó, tôi đã bỏ trường luật việc đi học lái phi cơ. Như một người dũng cảm. Trong lúc đó, phải mất cả một năm rưỡi tôi mới được hữu dụng một chút, vậy ai là người đã chiến đấu bảo vệ không để mẹ tôi bị nấu thành cục xà bông nằm trong dĩa hả? chính là hạm trưởng Queeg đó. Đúng như vậy đó, kể cả cái tên Queeg là một tên thảm thương, thật thảm thương, nhưng phần lớn bọn họ không có thảm thương gì hết đâu, họ là những người thật giỏi giang tôi chưa từng thấy, đừng tưởng là tôi nói giỡn nhé, trong quân đội các anh không thể khá được trừ phi các anh phải thật là giỏi, thật là ưu việt. dẫu rằng cũng không phải giỏi đến như là Proust và Finnegan’s Wake và những người khác.
Greenwald ngừng nói, nhìn quanh từng người.
- Hình như tôi đang thiếu mạch lạc ở đây. Phải rồi, tôi phải nâng ly chúc mừng tác giả qúy mến của chiếc Caine. Được rồi này, tôi sẽ cố gắng không nói năng lung tung nữa đâu. Hễ ai thấy tôi nói đầu không ra đầu, đuôi không ra đuôi thì ra dấu bằng cách vẫy cái khăn trước mặt tôi nhé. Không thể ở lại ăn buổi tối này, tôi rất hân hạnh được các bạn mời, tôi có lời chúc mừng, như vậy kể như tôi xong việc của tôi cho rồi. tôi không thể ở lại vì tôi không thấy đói. Không phải để ăn bữa cơm tối nay. Chắc chắn là tôi sẽ không tiêu nổi.
Anh ta quay lại phía Maryk:
- Steve à, cái buổi ăn mừng này thật không có hợp tình hợp cảnh gì cả. anh quả là có tội. Tôi đã nói với anh như thế từ đầu. Dĩ nhiên là anh chỉ có tội phân nửa thôi. Và cũng bởi vậy nên anh chỉ được tha bổng một nửa thôi. Bây giờ anh là con gà nuốt dây thun. Cái hy vọng để anh được qua hiện dịch cũng nhiều bằng cái hy vọng anh được bầu làm tổng thống Hoa kỳ. Giới chức tài phán cao cấp khi duyệt xét tới lại vụ án, họ sẽ cho đó là một nhầm lẫn tư pháp, trường hợp này thực sự là đúng như vậy, và một văn thư khiển trách dày cộm đẹp đẽ sẽ nằm gọn trong hồ sơ cá nhân anh - và cũng có thể trong cả hồ sơ của tôi nữa - rồi sau đó Steve Maryk chỉ còn nước đi về làm nghề đánh cá. Tôi đã lôi anh thoát ra khỏi vụ kiện nhờ vào những tiểu xảo của thể thức tố tụng - bằng cách bôi trét Queeg và tâm lý gia của trường phái Freud thành một bọn hề, giống như bắn hai con cá thu nằm trong thùng…và cũng nhờ tôi đã khéo gợi lên một cách không đứng đắn gì lắm mà cũng chẳng đúng nữa, cái niềm hãnh diện về quân chủng hải quân của bồi thẩm đoàn. Tôi đã làm tất cả chỉ còn thiếu việc huýt sáo bài Anchors Aweigh. Cái lúc duy nhất suýt chút nữa là tiêu cả, là lúc văn sĩ yêu quý của chiếc Caine đứng ra làm chứng. Hắn đã gần như cho anh đi toong luôn, anh bạn à. Tôi không hiểu nổi hắn ta nữa, dĩ nhiên là chính hắn chủ mưu cuộc nổi loạn trên chiếc Caine, một trong nhiều công việc của hắn. Tôi đã tưởng thằng cha sẽ cùng một phe với anh và Willie đứng ra nói thẳng tuột là anh ta luôn luôn khẳng định là tên Queeg là một tên mắc bệnh điên loạn nguy hiểm. Nè, anh thấy đó, lôi kéo tên Keefer vào trong ấy chỉ làm cho tệ hại thêm thôi - anh đã biết rõ tất cả việc đó mà, nếu anh ta muốn rút lui êm thắm, để mình anh chịu hết, tôi chỉ có việc để cho hắn ta rút lui…
Keefer dợm đứng lên:
- Nhờ anh tí…Anh cho tôi nói, một phút thôi…
- Xin lỗi ông, tôi nói hết rồi đây, ông Keefer. Tôi tới mục mừng rượu rồi đây mày. Đây, xin mừng ông. Ông đã thành công một cú ngoạn mục. ông đã nhằm vào tên Queeg và đã hạ được y. Làm cái việc ném đá dấu tay, không liên lụy gì hết. Steve thì tàn đời, nhưng ông sẽ làm hạm trưởng kế nhiệm của chiếc Caine. Ông sẽ về hưu, già và đầy những báo cáo khả năng tối ưu. Ông sẽ cho xuất bản cuốn tiểu thuyết chứng minh rằng hải quân là thối tha, và ông sẽ thu cả triệu đô la tiền bản quyền và ông sẽ cưới cô đào Hedy Lamarr. Không có văn thư khiển trách nào hết, chỉ có tiền tác quyền của cuốn tiểu thuyết mà thôi. Vậy thì ông cũng chẳng cần lý tới khi tôi rầy rà ông một chút, như vậy nghĩa làm sao? Tôi đã biện hộ cho Steve là vì tôi nhận thức rằng anh ta không phải là người ra trước tòa án quân sợ. Phương cách duy nhất để bào chữa cho anh ta là hạ cho được Queeg giùm cho ông. Rất tiếc là tôi bị trong thế kẹt đó, và tôi cũng hổ thẹn vì đã làm như vậy. và vì đó mà tôi uống say. Queeg không đáng để tôi đối xử như vậy. Tôi phải biết ơn ông ta, ông hiểu chứ? Ông ta đã ngăn cản Hermann Goering tắm rửa cái bàn tọa to lớn của hắn bằng mẹ của tôi. Vậy tôi không có tới để dự bữa ăn tối của ông đâu, ông Keefer à, tôi cũng chẳng thèm uống một giọt rượu của ông, tôi chỉ chúc mừng rồi tôi đi.
Và đây là lời chúc cho ông, nhà văn quý mến của chiếc Caine, và đây là cho quyển sách của ông.
Anh ta tạt ly rượu sâm banh màu vàng vào mặt Keefer.
Willie cũng bị dính ướt lây đôi chút. Chuyện xảy ra nhanh đến nỗi mấy người sĩ quan ở cuối bàn không biết ất giáp gì. Maryk dợm đứng lên:
- Trời đất ơi! Barney…
Viên luật sư đẩy anh ngồi xuống ghế bằng cánh tay run run. Keefer như cái máy rút khăn tay chùi mặt, nhìn Greenwald sững sờ.
Greenwald nói:
- Nếu mày muốn ăn thua đủ, Keefer, tao ra phòng khách chờ mày. Tụi mình đi tới một nơi yên tĩnh, hai đứa cùng say hết, một trận đấu cân bằng tương xứng. Chắc mày sẽ hạ được tao, tao đánh lộn dở lắm.
Tất cả những sĩ quan khác bắt đầu thì thầm với nhau, cùng liếc mắt nhìn về phía Keefer. Greenwald bước nhanh ra khỏi phòng, hơi vấp chân ở ngưỡng cửa. Nhà văn đứng lên. Một cái yên lặng nặng nề bao trùm, như có ai vừa thốt ra những tràng chửi rủa thô tục. Keefer liếc nhanh một vòng chung quanh rồi hắt lên cười. Không ai nhìn anh ta nữa. Anh ta ngồi phịch xuống ghế.
- Quỷ thần ơi! Tên thảm hại này đã say quá rồi. Tôi đói lắm đây. Sáng may hắn sẽ trở lại xin lỗi mà thôi. Willie, nói họ dọn ăn đi thôi.
- OK, Tom.
Các món ăn được nhai nuốt mau chóng trong yên lặng chỉ bị ngắt khoảng bởi những tiếng lanh canh của dao nĩa, hay thỉnh thoảng bởi những lời phê bình thì thầm. khi Keefer cắt cái bánh thi chỉ có vài tiếng vỗ tay rời rạc. buổi tiệc tan nhanh sau chầu cà phê. Còn năm chai sâm banh chưa mở đứng nguyên vẹn ngay giữa bàn ăn.
Khi ra khỏi phòng ăn, Willie nhìn quanh tất cả mọi góc của phòng khách, nhưng viên phi công đã đi biệt.
Cuộc Nổi Loạn Trên Tàu Caine Cuộc Nổi Loạn Trên Tàu Caine - Herman Wouk Cuộc Nổi Loạn Trên Tàu Caine