Let us always meet each other with smile, for the smile is the beginning of love.

Mother Teresa

 
 
 
 
 
Tác giả: Tony Parsons
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 991 / 27
Cập nhật: 2017-05-20 09:04:16 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Ba Mươi Bảy
ách nhà tôi một dặm, có một nhà thờ nhỏ nằm trên một ngọn đồi.
Hồi còn bé, khi tôi còn đi lang thang ở những nơi mình không được đi lang thang vào những buổi tối mùa hè êm dịu, tôi thỉnh thoảng nấp trong nghĩa địa của nhà thờ này, uống rượu táo và bị sặc rượu hoa quả Number 6 và nhìn qua ống ngắm khẩu súng hơi.22 của bạn tôi.
Chúng tôi không ngông nghênh như vẻ ngoài của mình. Nghe thấy tiếng động nhỏ nhất - gió thổi trên cây, tiếng lá sột soạt ở một bia mộ, một tấm gỗ cũ kỹ nào đó cót két trong nhà thờ - bạn tôi và tôi sẽ chạy mất dép, sợ xanh mặt khi nghĩ rằng người chết sắp hiện ra trước mặt. Và giờ thì cha tôi sẽ được chôn ở đây.
Tôi thức dậy khi nghe thấy tiếng xe đạp của cậu bé phát báo, báo Tấm gương được nhét vội vào hộp thư, tiếng ngân nga trầm trầm của đài radio phát ra từ nhà bếp. Trong một khoảnh khắc giữa ngủ và thức, dường như nó là một ngày bình thường như bao ngày khác.
Nhưng sau bữa sáng chúng tôi vận bộ tang phục ảm đạm của mình, con tôi và tôi, cả hai đều trông ngượng nghịu với chiếc nơ đen và áo sơ mi trắng, và cả hai ngồi bệt trên sàn phòng ngủ cũ của tôi, lật giở qua bao nhiêu là hộp ảnh, an ủi bản thân bằng những tấm ảnh của cha tôi, ông nội thằng bé.
Thời gian trôi ngược lại, vỡ ra từng mẩu nhỏ. Có những tấm ảnh màu rực rỡ của cha tôi với Pat - đang mở quà Giáng sinh, đang cưỡi trên Bluebell với cặp bánh phụ vẫn còn gắn trên xe, Pat là một em bé với mái tóc vàng hoe không tưởng, và một đứa trẻ sơ sinh đang ngủ thiếp trong vòng tay của người ông tươi cười.
Và hàng tập ảnh mà giờ màu đã phai nhạt - cha mẹ tôi cùng tôi và Gina trong ngày cưới của chúng tôi, tôi trong hình ảnh một cậu thanh niên cười khinh khỉnh với cha, một người đàn ông ngoại ngũ tuần khỏe mạnh, tay quàng quanh người nhau đứng trong vườn sau - tự hào vì khu vườn, tự hào vì tôi - và còn xưa hơn nữa, tôi khi còn là đứa trẻ mười một tuổi ngây ngô cùng cha mẹ mình, vẫn còn trẻ, trong tấm ảnh chụp tập thể ở lễ cưới một người họ hàng nào đó.
Và quay lại tận nơi ký ức trong tôi bắt đầu và xa hơn nữa - một tấm ảnh đen trắng chụp tôi, một đứa trẻ đầu cua cùng cha tôi và mấy con ngựa ở đồng Salisbury, một tấm ảnh đen trắng khác chụp cha tôi cười thoải mái trong lúc bế tôi lên tại một bãi biển lộng gió nào đó, và những tấm ảnh đủ các sắc xám chụp ông mặc quân phục và cha mẹ tôi trong ngày cưới của họ.
Không có ảnh chụp ông hồi còn là một đứa trẻ hay một em bé. Tôi biết đấy chỉ đơn giản là vì hồi đó họ quá nghèo không mua nổi cái máy ảnh, nhưng có cảm giác như thể cuộc sống của ông chỉ bắt đầu khi ông có cái gia đình nho nhỏ này.
Ở dưới tầng, hoa đã bắt đầu được mang tới. Pat và tôi ra cửa sổ phòng cha mẹ tôi ở mặt trước nhà và ngồi xem người bán hoa dỡ chúng ra từ xe tải. Không lâu sau những đóa hoa bọc trong giấy bóng đã phủ khắp bãi cỏ ngoài sân, làm tôi liên tưởng tới Công nương Diana và cả rừng hoa đã phủ kín hàng rào sơn đen của tòa lâu đài hoàng gia. Đối với người bán hoa, đây chỉ là một công việc như bao công việc khác, và là công việc đầu tiên trong ngày, nhưng ông ấy có vẻ thực sự cảm động.
“Tôi ước chi mình quen người đàn ông này,” tôi nghe ông ấy nói với mẹ tôi, và tôi biết là ông ấy thật lòng.
Chúng tôi có một trận cười khi quan tài tới nhà thờ. Nó là một trận cười tuyệt vọng, một trong những kiểu cười đóng vai trò cái đê ngăn nước mắt mà ta sợ sẽ không bao giờ ngừng nếu được phép bắt đầu tuôn, nhưng dù gì thì nó vẫn là một trận cười.
Chúng tôi đang theo sau quan tài vào trong nhà thờ cổ ấy, mẹ tôi, con trai tôi và tôi, nhưng vì một lý do nào đó mà bốn người khênh quan tài dừng lại ở cổng. Dù bà đứng kẹp giữa Pat và tôi, tay chúng tôi quanh người bà, mẹ tôi vẫn đi thẳng, mắt dán xuống sàn nhà. Và bà chỉ dừng lại khi cộc mạnh đầu vào đuôi quan tài chồng mình.
Bà loạng choạng ngã về sau, ôm trán, nhìn xem có máu ở đầu ngón tay không, và rồi bà nhìn tôi và cả hai mẹ con bật cười. Chúng tôi nghe thấy tiếng nói của ông, cái giọng nói London quen thuộc đầy ắp sự âu yếm mỏi mệt. “Bà đang làm cái gì đấy?”
Rồi chúng tôi đi vào trong không khí mát mẻ của nhà thờ và giống như bước vào một giấc mơ vậy, một giấc mơ nơi tất cả mọi người mà bạn từng quen biết - họ hàng, bạn bè của gia đình, hàng xóm từ quá khứ và hiện tại, những người đàn ông đeo nơ Biệt kích Hải quân Hoàng gia - những người gặp nhau khi còn niên thiếu và giờ đều đã bảy mươi - tập hợp lại lần cuối, từng hàng người, một số bắt đầu khóc khi thấy quan tài của cha tôi.
Ba người chúng tôi đang ngồi ở hàng ghế đầu. Đã có hồi ba người chúng tôi có nghĩa là cha mẹ tôi và tôi. Giờ thì là mẹ tôi, con trai tôi và tôi. Hai bà cháu đều cúi đầu, nhìn chằm chằm phiến đá lát, không còn tiếng cười nào nữa, còn tôi thì nhìn mục sư khi ông bắt đầu trích dẫn lời Isaiah - “Bấy giờ họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm. Nước này chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến tranh.”
Bài giảng của ông là về người lính tinh nhuệ ấy, người đã trở thành một trong những người đàn ông của hòa bình - người chiến binh đã học cách làm một người chồng thương yêu, một người cha hiền hậu, một người hàng xóm chu đáo. Và tôi có thể thấy rằng mục sư đã dồn nhiều công sức vào bài diễn thuyết này, và ông đã nói chuyện với mẹ tôi và các chú và dì Ethel ở nhà bên, người không phải là dì thật của tôi. Nhưng mục sư chưa từng gặp cha tôi, thế nên ông ấy không bao giờ có thể thực sự tóm được con người của cha tôi và cuộc đời ông.
Chỉ đến khi cái bài hát xưa cũ mà mẹ tôi đã chọn vang khắp nhà thờ chật ních đó thì tôi mới phải ôm lấy ngực mình, mới cảm thấy sức nặng của tất cả những điều chúng tôi vừa đánh mất.
Hơn cả những bài thánh ca hay bài giảng hay những lời chia buồn thiện ý hay khuôn mặt của tất cả những người ông từng quen biết, chính bài hát này làm tôi cảm động. Giọng của Sinatra, rất trẻ, rất trong trẻo, không có sự nghênh ngang và hoài nghi của giai đoạn sau này. Nó vút cao và ngân nga quanh cái nhà thờ nhỏ bé ấy.
Và mẹ tôi không cử động, nhưng tôi có thể cảm thấy bà đang ôm Pat chặt hơn, như thể bà sợ rằng mình sẽ bị cuốn mất đến một nơi khác, một thời điểm khác, một nơi nào đó trong tương lai đơn độc khi bà chỉ có thể ngủ khi đèn ngủ vẫn bật sáng choang, hay nơi nào đó trong quá khứ đã mất, không thể lấy lại được.
Một ngày nào đó
Khi tôi buồn vô cùng
Khi đời thật lạnh lùng
Tôi sẽ thấy não nùng
Khi nhớ nhung về em
Vẻ đẹp em đêm nay.
Và tôi có thể nghe thấy giọng nói của cha tôi than vãn trước lựa chọn này, giọng ông đầy ắp ngạc nhiên trước người phụ nữ mà ông đã chia sẻ cả đời nhưng chưa bao giờ ngừng làm ông ngỡ ngàng.
“Không phải Sinatra hồi đầu chứ bà này! Không phải mấy câu tán tỉnh đám thiếu nữ mà ông ấy thu âm cho Columbia chứ! Nếu bà phải chọn Sinatra, thì chọn cái gì đấy từ một trong những album Capitol thập niên năm mươi ấy - ‘Một chén cho em’, ‘Đôi mắt thiên thần’, ‘Trong bình minh ngắn ngủi’ - một trong những bài hát tuyệt vời nhất ở quán rượu. Nhưng không phải mấy cái thứ hồi đầu kia! Và Dean Martin thì có sao? Đằng nào thì tôi cũng ưa lão Dino quen thuộc hơn.”
Đúng là vậy. Cha tôi thích Dean Martin nhất. Sinatra, dù cha tôi cũng có thích, hơi quá lãng mạn kiểu trơn tru nên không hợp với ông già nhà tôi. Ông thích cái lõi cứng rắn của Dean Martin hơn nhiều. Nhưng tất nhiên bài hát không phải lựa chọn của cha tôi. Là của mẹ. Nó không tả lại cha tôi nhìn bản thân mình thế nào. Mà cho thấy mẹ tôi nhìn ông, biết ông, yêu ông thế nào.
Nhưng em thật đáng yêu!
Với nụ cười thật ấm áp
Và má em thật ấm mềm
Chẳng gì khác anh có thể
Ngoài dành trọn tình yêu
Cho vẻ đẹp em đêm nay.
Nhân viên dịch vụ tang lễ khiêng quan tài của cha tôi ra khỏi nhà thờ - nhẹ nhàng, nhẹ nhàng - và ra nghĩa địa trong lúc chúng tôi theo sau, mê mụ bởi những nghi lễ của cái chết, đến phần mộ mới nhất giữa một rừng bia mộ.
Cái miếng đất mới đào nằm ở cuối một dãy dài những ngôi mộ và một ngày, sau khi cái nhà thờ này đã chứng kiến thêm nhiều đám tang nữa, sẽ khó mà tìm được nơi yên nghỉ của cha tôi vì nó sẽ ở giữa một rừng bia mộ, chỉ là một trong rất nhiều. Nhưng không phải bây giờ. Không phải hôm nay. Hôm nay cha tôi là người mới nhất ở nơi vĩnh hằng này. Hôm nay thì việc tìm mộ ông sẽ chẳng khó khăn gì.
Và kia là bia mộ của ông - trắng và mới, văn bia của cha được khắc màu đen sáng bóng ở nửa trên, để chỗ cho một bản khắc khác - cho vợ ông, mẹ tôi, bà nội Pat - một ngày nào đó sẽ được khắc vào.
PATRICK WILLIAM ROBERT SILVER, DSM, nó viết vậy, một cái tên từ hồi những gia đình bình thường còn đặt cho con họ tất cả những cái tên họ có thể nhớ được, tất cả những cái tên họ có thể cho vào, và ở dưới là ngày sinh và ngày mất, NGƯỜI CHỒNG, NGƯỜI CHA, NGƯỜI ÔNG YÊU DẤU.
Mục sư đang nói - tro lại thành tro, bụi lại thành bụi, hãy đến đây, những đứa con thiêng liêng của Cha, hãy nhận lấy vương quốc đã được phân cho con từ khi trái đất hình thành - nhưng tất cả những gì tôi nghe thấy được là một đoạn từ một trong những bài hát từ thời xưa ấy, một bài hát cầu xin ai đó hãy mãi mãi đừng bao giờ thay đổi.
Chúng tôi đang ở mép ngôi mộ trống, đứng trước một đám người đưa tang. Một số trong đó tôi không quen biết. Một số tôi đã biết cả đời. Thế nhưng những khuôn mặt tôi quen biết đều đã thay đổi - tôi nhớ những chú bác cười nói và những cô dì xinh đẹp đang tuổi trung niên, những năm tháng tốt đẹp với xe mới và quần áo sáng màu và những ngày hè bên bãi biển, con họ đang lớn hoặc có lẽ đã trưởng thành.
Giờ thì những khuôn mặt tôi biết này đã già hơn tôi tưởng, và sự tự tin của những năm ba mươi và bốn mươi tuổi vì một lý do nào đó đã tuột mất theo năm tháng. Họ đã đến nhìn cha tôi được chôn cất, người đầu tiên trong thế hệ họ ra đi, và chắc hẳn cái chết của chính họ đột nhiên trở nên rất thật. Họ khóc vì ông và cả vì bản thân mình.
Ở đằng xa tôi có thể nhìn thấy những cánh đồng tôi từng tung hoành hồi thơ bé, nâu sẫm vào giữa đông và vuông vắn như những sân vận động, viền những cái cây trơ trọi mảnh dẻ.
Bọn trẻ có còn chơi ở vùng đất trồng trọt gồ ghề ấy nữa không? Vì một lý do nào đó chuyện này có vẻ không khả thi lắm. Nhưng tôi vẫn nhớ từng nhánh nước lóng lánh, từng cái hào đầy bùn, cái hồ phẳng lặng bên trong lùm cây rậm, và tất cả những người nông dân đuổi chúng tôi đi, tôi và những thằng bạn, những đứa trẻ thành thị với cuộc sống ngoại ô.
Ở trên này không có một dấu vết gì của môi giới nhà đất và trung tâm mua sắm vốn chẳng cách xa đây là mấy. Ở trên này ta chỉ nhìn thấy những cánh đồng. Ở trên này cảnh vật có cảm giác như đồng quê thật sự.
Đây là lý do tại sao cha tôi trốn chạy khỏi thành phố. Những cánh đồng nơi tôi từng chơi đùa hồi nhỏ - đấy là thứ cha tôi mơ tới, và giờ ông sẽ được chôn ở giữa những cánh đồng này.
Giờ ai cũng khóc - to hơn, không kiểm soát được, thêm đau nhói bởi nỗi buồn - rồi tôi ngước lên và nhìn thấy nước mắt trên những khuôn mặt tôi yêu quý. Anh em của cha. Hàng xóm của chúng tôi. Mẹ và con trai tôi.
Nhưng tôi đứng đó mắt vẫn khô trong lúc nhìn người ta hạ quan tài của cha xuống ngôi mộ mới đào, một tay ôm chặt vai mẹ, lúc này đang quàng tay quanh người đứa cháu khóc nức nở của mình, và tay kia đút sâu vào túi bộ veston đen, tay nắm chặt tấm huân chương bạc của cha như thể tôi sẽ không bao giờ thả nó ra.
Cha & Con Cha & Con - Tony Parsons Cha & Con