A good book should leave you... slightly exhausted at the end. You live several lives while reading it.

William Styron, interview, Writers at Work, 1958

 
 
 
 
 
Tác giả:
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Người Của Biển
Upload bìa: Trạch Văn Đùng
Số chương: 38
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 5
Cập nhật: 2024-09-01 17:35:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 38
HẦN KẾT
1
Đoàn thủy thủ tàu T.67 dắt dìu nhau về đến đơn vị, trời đã chớm thu.
Những ngày nằrn an dưỡng, Lê nhớ Thúy đến nôn nao. Chưa bao giờ anh nhớ người yêu như những ngày này. Xa Thúy, kể từ cái đêm tháng Năm ấy tới nay đã hơn một năm. Một năm dài đằng đẵng. Một năm có bao điều đã xảy đến. Thúy của anh sống ra sao? Ôi, ước gì có đôi cánh bay về gặp Thúy một lúc, phải, chỉ cần một lúc để được nhìn mặt em, để được nghe em nói và để được nói với em...Một năm xa Thúy, Lê có cảm giác như mười năm, hai mươi năm. Những kỷ niệm khắc đậm trong anh. Càng xa nhau, càng ý thức được đầy đủ, rõ ràng và cụ thể về tình yêu. Đã có cái gì thiêng liêng gắn chặt hai con người. Và nỗi nhớ ở anh không còn là sự xốc nổi, bồng bột; nó lắng sâu.
Những ngày vượt Trường Sơn, hầu như lúc nào Lê cũng nghĩ đến Thúy, nghĩ đến kỷ niệm, nghĩ đến hạnh phúc trong tương lai. Điều đó khiến Lê thêm sinh lực vượt qua gian khó, thử thách để trở về. Những ngày ác liệt ấy Lê không chết, không bỏ xác dọc đường vì nhiều nguyên cớ, trong đó có cái lý anh phải sống cho Thúy, anh không chỉ là của mình, anh là một phần của người anh đang yêu - Giữ mình là giữ cái gì cho người ấy.
Đã hơn ba tháng, bọn anh không được đi quá ranh giới khu an dưỡng. Những người có nhiệm vụ chăm sóc ở đây khe khắt, nguyên tắc đến máy móc. Họ nhất quyết không nể nang và mềm lòng. Đều đặn ngày nào cũng như ngày nào chỉ có một thời gian biểu: sáng, khám bệnh, uống thuốc, ăn cơm, rồi nghỉ - Chiều: uống thuốc, nằm nghỉ, lại ăn cơm, lại ngủ. Ngày này qua ngày khác, đơn điệu và tẻ nhạt. Không được tiếp xúc với người ngoài. Không được viết thư. Thời gian rỗi chỉ đọc sách. Cầm cuốn sách trên tay, Lê nghĩ đâu đâu. Hình ảnh Thúy chập chờn. Nó len vào trong giấc ngủ, trong bữa ăn. Lê chỉ mong ra khỏi đây.
Ba tháng nằm an dưỡng, dài hơn ba năm. Đã bao lần Lê và mọi người đề nghị cho nhận công tác, hoặc ít ra cũng trả về đơn vị, song người bác sĩ điều trị lắc đầu:
- Chưa hồi phục sức khoẻ!
Lại tiếp tục ăn, chơi, uống thuốc. Quả chưa ai khỏe. Da mặt người nào cũng xanh. Bệnh sốt rét quái ác thỉnh thoảng lại hành hạ. Lê không bị sốt rét. Bác sĩ bảo anh bị sa lá lách. Lê hỏi:
- Sa lá lách có đi biển được không, đồng chí?
- Gắng chữa khỏi thì vẫn đi được - Người bác sĩ trả lời - Nhưng phải kiên trì.
Vâng, kiên trì, nhưng kiên trì đến bao giờ? Mấy lần đoàn trưởng Tư và chính ủy Kim đến thăm, Lê yêu cầu hai ông can thiệp.
- Bọn mình cũng phải chấp hành ý kiến chuyên môn. Quyền hành đối với các cậu bây giờ ở trong tay mấy cha bác sĩ. Bao giờ họ gật, bọn mình mới dám phân công công tác.
Một lần khác, đoàn trưởng Tư hỏi Lê:
- Cậu nôn nóng vì muốn nhận việc hay nóng lòng về thăm cô Thúy?
- Cả hai ạ.
- Cậu không gặp Thúy đã hơn năm nhỉ. Cứ an tâm, cô ấy khỏe, và...
Đoàn trưởng định nói điều gì, nhưng ông chỉ cười.
Chừng hai tuần sau, Lê nghe anh em kháo nhau rằng tàu T.37 cũng phải hủy, thủy thủ vượt Trường Sơn đã về an toàn. Lập tức Lê bổ đi tìm Tòng. Khi hay Tòng hy sinh, anh choáng người. Chưa bao giờ anh nghĩ điều đó xảy ra. Chưa bao giờ anh nghĩ những người như Tòng lại chết. Anh nặng trĩu. Những ngày tiếp đó, sống lặng lẽ. Cái chết của Tòng khiến anh đau buồn, nhớ tiếc.
Cảm thấy đã mất đi một cái gì lớn lắm, không thể bù đắp. Hình ảnh Tòng mỗi lần gặp Lê, lại nhào tới, nguềnh ngoằng đôi tay vượn ôm ghì lấy anh, phả hơi nóng vào mặt anh, không sao quên được. Anh ân hận vì không giữ được vật gì của bạn. Lục lọi trong số tư trang ít ỏi Tòng để lại, Lê thấy một cuốn sổ nhỏ, chữ xiêu xọ. Trang đầu, Tòng vẽ con chim đang bay, phía dưới là câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: "Ngàn dâu gió cuốn chim bay mỏi". Lê xin đoàn trưởng được giữ lại cuốn sổ.
Đoàn trưởng lật xem những điều Tòng ghi, rồi ông gấp lại, ngồi lặng, đôi mắt hướng ra xa. Lát sau, ông đưa Lê, và bảo:
- Chúng ta vẫn chưa hiểu hết về cậu ấy.
Ngày hôm đó, hai người chỉ nói chuyện về Tòng.
Sang tháng thứ tư, sức khỏe thủy thủ tàu T.67 khá hơn. Một hôm đoàn trưởng Tư và chính ủy cho gọi Lê lên:
- Thế nào, anh em nhận nhiệm vụ được chưa?
- Báo cáo, đã sẵn sàng ạ.
- Theo cậu, có ai không đi biển được nữa?
- Về mặt tinh thần hay về mặt sức khỏe ạ?
- Cả hai!
- Về tinh thần thì không. Còn sức khỏe... Tôi ái ngại trường hợp anh Hải.
- Thế đấy! Bọn mình sẽ rút Hải lên bờ làm trợ lý.
- Cậu ấy sẽ phản đối. Ai muốn xa đồng đội, những con người đã vào sống ra chết, nằm gai nếm mật có nhau.
- Nhưng mình sẽ gặp Hải để thuyết phục. Lê này, thủ trường đoàn có ý định để Cang đi học lớp đào tạo sĩ quan tới, cậu nghĩ sao?
- Nếu được phép, tôi nhất trí ạ. Một chàng trai thông minh, dũng cảm, tháo vát và sống có tình. Xa một người như vậy, rất tiếc, nhưng nếu vì lợi ích lâu dài của đoàn...
- Anh chàng sợ ma hả?
- Vâng! Ngày xưa...
- Đã hứa hẹn với cô du kích trong kia phải không?
- Cô Mười năm nay hai mươi. Tôi tin họ sẽ chờ nhau. Ngày nào Cang cũng nhắc đến cô ấy và những kỷ niệm của họ.
- Lớp trẻ bây giờ yêu nhau khác tụi mình ngày xưa, anh ạ. - Chính ủy quay sang nói với đoàn trưởng và hai ông cười - Ngày xưa cô bán trầu cau của anh có hẹn hò gì đâu.
- Cho tới lúc cưới, cũng chỉ nói với nhau chừng mười câu.
- Công việc của cậu sắp tới - Chính ủy nói - Anh Tư sẽ phổ biến, tóm lại là cậu sẽ cùng với Lượng củng cố ổn định tổ chức, biên chế đủ thủy thủ cho một tàu. Sau đó nhận tàu mới. Tàu này lại mang tên T.67. Xong công việc cậu về Hải Phòng ít ngày. Bọn mình đã báo cho Hạng, trợ lý tổ chức, chuẩn bị giấy tờ.
- Giấy tờ gì ạ? - Lê ngạc nhiên hỏi.
- Về đến Hải Phòng, khắc cần - Đoàn trưởng ý nhị nhìn chính ủy, cười: Giấy chứng nhận cậu chưa vợ để ra ủy ban đăng ký.
- Có nghĩa rằng... Tôi sẽ cưới vợ ạ?
- Ơ kìa, cũng phải thế chứ? Hay cậu còn chờ?
- Tôi chưa có ý định. Với lại cũng chưa bàn với Thúy.
- Chưa bàn, đợt này bàn. Chưa cưới thì đăng ký, bao giờ có điều kiện, sẽ cưới - Chính ủy nói thêm.
- Vâng! Các thủ trưởng làm tôi đột ngột quá... Để tôi nghĩa thêm.
"Cưới vợ! Sao dịp này cụ Tư và cụ Kim lại sốt sắng đến chuyện này thế?" - Ra khỏi phòng làm việc, Lê vừa đi vừa tủm tỉm cười.
Hơn tuần sau, anh báo cáo những công việc được giao: Việc nhận tàu, việc ôn định tổ chức, biên chế...
- Chúng ta lại có một T.67, phải không? - Ông Tư nói.
Hôm ấy đoàn trưởng giữ anh nán lại ăn cơm. Ông muốn nghe kỹ những chuyện liên quan đến chuyến đi của T.67 ông đã được báo cáo. Rồi ông kể rõ hơn chuyến đi của tàu T.37 và cái chết của Tòng. Hai người chuyện tới khuya. Trước khi Lê về, đoàn trưởng báo:
- Đảng ủy quyết định tuần tới, cậu sẽ lên Bộ tư lệnh nhận chỉ thị về phương thức vận chuyển mới trong tình hình mới. Mình và chính ủy Bùi Kim sẽ cùng đi. Ban chỉ huy nhất trí ngày mai cậu về Hải Phòng thăm gia đình và thăm Thúy, giải quyết mọi việc mà cậu tự biết cần giải quyết. Đúng sáng mười sáu có mặt ở nhà khách cơ quan Bộ tư lệnh, bọn mình chờ ở đó. Thế nào, nghỉ mười ngày ít quá chăng?
- Không ít đâu ạ!
Đoàn trưởng kéo ngăn bàn, lấy ra một tờ giấy, nhìn Lê và nói vui:
- Còn tờ giấy này, cứ cầm lấy, nếu thấy cần thiết thì sử dụng. Sự chu đáo của chính ủy không thừa đâu. Hãy nói với cô Thúy rằng chú Tư gửi lời hỏi thăm.
Liếc qua tờ giấy, Lê thoáng đỏ mặt.
Lê đâu biết, mấy ngày qua, chính ủy Bùi Kim, đoàn trưởng Tư đã bỏ hẳn một buổi đê bàn việc riêng của anh và cuối cùng cả hai đều đồng ý để Lê rẽ qua Hải Phòng tự thu xếp việc gia đình và sau đó sẽ báo cáo với tổ chức những điều cần thiết.
Đêm ấy Lê tràn trọc, nhớ Thúy, nhớ bố mẹ và các em không nghỉ được.
Sáng hôm sau anh đi sớm. Chiếc xe con của đoàn - đưa đến phà Bính.
Lê thấy vui. Xung quanh, bến phà người xuống người lên tấp nập. Không khí hoà bình, không khí yên ổn hiện lên trên mỗi gương mặt. Lê nhập vào đoàn người, xếp hàng xuống bến. Chợt Lê chạy vội lại phía người trưởng bến, reo to:
- Anh không nhận ra tôi ư?
- Xin lỗi, đồng chí là... quả thực, người qua lại rất đông, cho nên... - Người trưởng bến lúng túng.
- Năm kia, anh đã ách xe chúng tôi lại và bắt chúng tôi đi bộ vào thành phố. Tôi nhớ là anh có người vợ làm ở nhà máy đóng tàu. Thợ hàn.
- À, vâng. Nhưng... nhưng nhà tôi hy sinh rồi.
- Hy sinh rồi?
- Đã hơn nửa năm nay. Anh có phải là... hình như người yêu cô Thúy?
- Anh biết?
- Tôi đoán vậy. Cô ấy nhắc tới anh luôn. Tuần trước mẹ con Thúy có lại đằng nhà tôi chơi. Cháu kháu lắm.
- Xin lỗi nhé.- Chiếc xe tải lùi lại! Lùi lại! - Người trưởng bến nhìn ra và hô to - Không đi chuyến này thì sang chuyến sau. Đề nghị các đồng chí chấp hành nội quy bến. Chúng tôi phục vụ hai phà.
Người trưởng bến chào Lê rồi chạy vội lại phía ba-ri-e.
"Mẹ con cô ấy..." Lê thoáng nhớ đến thái độ của đoàn trưởng Tư và chính ủy Bùi Kim.
Khá đông người xuống phà. Lê đứng cuối. Nhìn sang bên kia sông, anh có cảm giác vừa quen vừa lạ. Đợt hoa phượng cuối mùa giống như một tấm vải hoa choàng lên thành phố. Chỉ ít phút nữa thôi, Lê sẽ được gặp Thúy. Anh thấy bâng lâng. Niềm vui lan ngập khiến anh xốn xang.
2
Bấy giờ đã là giữa năm 1972.
... Vào một buổi chiều, trên đường đê hữu ngạn sông Lô có một người hối hả đạp xe. Vừa đi, người ấy như có ý quan sát xung quanh. Tới đoạn đường vòng, anh dừng lại hỏi thăm rồi tất tưởi dắt xe xuống bến đò. Trời đã tắt nắng. Đó là trung úy Hòa, thuyền trưởng cũ của tàu T.37. Trông anh già hơn trước. Tóc đã điểm bạc. Khuôn mặt âu sầu, thoáng những nét buồn của người nhiều lo nghĩ. Người gầy, dáng khắc khổ.
Bà cụ lái đò giục anh xuống, đưa mái chèo cắt nước rồi thong thả bắt chuyện:
- Coi ra bác mới đến vùng này lần đầu? Chắc qua bãi thăm bà con?
- Dạ, vâng! - Hòa trả lời chiếu lệ. Đang nghĩ nên anh không mặn chuyện lắm.
- Số bác may, mọi bận thì tôi đã cho đò nghỉ lâu rồi. Sông vắng, vào giờ này chẳng mấy ai qua lại.
- Từ đây tới làng Ao Gỗ còn xa không cụ?
- Làng Ao Gỗ à? Bác cứ đạp thẳng đường đê, khi nào gặp ngọn Tháp, gọi là Tháp Bình Sơn, bác rẽ sang trái. Chúng tôi đi bộ non non ba tiếng. Nhưng hôm nay mồng chín ta. Có trăng, chẳng ngại.
Sông Lô tím xanh hệt một vệt mực. Phía mút dòng, sau những rặng núi tím thẫm, ráng chiều hắt lên như một đám cháy, đang nhạt dần. Trời tối nhanh.
Hòa nhìn bên kia sông: chân đê mờ mờ sương chiều.
Nhợt nhoè trên mặt đê, một vài bóng người gầy nhỏ, quây nặng những bó thân ngô cồng kềnh, tất tưởi đi vào xóm.
Khi ở Hà Nội, Hòa đã tính là có thể đến làng Ao Gỗ trước lúc trời tối, ai ngờ chuyến tàu ngược Việt Trì chậm những ba tiếng. Lúc này đã sáu giờ chiều. Đành phải đạp xe thật nhanh vậy. Đến nhà người lạ đêm hôm khuya khoắt, rất bất tiện. Và chuyện thế nào đây? Tự giới thiệu tôi là bạn của Tòng, hồi Tòng chưa hy sinh, chúng tôi cùng tàu... Đành rằng mào đầu như vậy nhưng sau đó sẽ nói những gì? Và liệu có lần tìm ra Lụa không? Số phận người phụ nữ khát khao tình yêu và đã yêu, yêu hết mình ấy giờ ra sao?... Hòa ngồi xoay người lại cố nén tiếng thở mạnh. Đầu anh rối lên.
Con đò chạm bờ. Hòa chào bà cụ rồi xắn quần, vác xe xuống bến. Hai bàn chân ngập trong bùn đất bãi. Anh dắt xe lên đê. Trăng đầu tháng sáng nhạt. Hòa ngồi lên, hối hả đạp.
Làng xóm xa chân đê mờ mờ trong trăng. Gió từ bờ sông đưa lên quyện theo hởi nước lẫn mùi cỏ mục, man mát. Mặt đê nhiều ổ gà, xóc nảy người. Hòa xuống xe, lại lên xe. Lần cuối cùng, đạp được mấy vòng, đã phải nhảy xuống: lốp trước hết hơi. Thật tai hại. Làm thế nào bây giờ? Hòa ngó ngược, ngó xuôi: xung quanh yên vắng, chỉ tiếng gió đuổi nhau trên bãi, và lá ngô cọ vào nhau xào xạc.
Ngồi đây chờ sáng hay dắt xe đi? Nghỉ đã rồi tính,
Hòa ngả xe bên vệ cỏ, ngồi xuống mép đê, châm thuốc hút.
Con sông lặng lờ sải ra ôm những bãi. ngô. Lần đầu tiên lên trung du, những con sông này, những bãi ngô này, anh đã được nghe nhiều lần. Sau khi Tòng mất, những câu chuyện lảng vảng trong Hòa mãi.
...Lâu rồi, chúng tôi chưa có dịp gặp lại nhau, anh Hòa ạ Những ngày lênh dênh trên biển thế này nhớ cô ấy phát cuồng. Nhớ đến bứt rứt. Đêm đêm nghĩ về sông Lô, nhớ vị ngọt như sữa của những bắp ngô non, nhớ cơn gió hây hây từ mặt sông đưa lên những đêm trăng, nhớ vị hăng nồng của những thân ngô già dãi nắng,nhớ mùi đất bãi gặp sương... Ôi, dòng sông trung du ấy sao đậm đà kỷ niệm đến vậy! Thế nào anh cũng phải lên với con sông ấy một lần, anh Hòa ạ. Tôi sẽ đưa anh đi dọc bờ để ngửi mùi đồi núi tan loãng trong phù sa con sông. Chúng mình sẽ ăn những bắp ngô non đang làm sữa. Ăn sống. Tôi và Lụa đã ăn như thế. Ngô non ăn sống, mát, ngọt, dư vị hăng hăng, tanh tanh cứ đọng mãi nơi đầu lưỡi. Đã ăn một lần là không thể quên. Hai bên bờ đê, ngô bạt ngàn...
Hòa khẽ rùng mình. Không khí đặc quánh sương đêm. Trời lành lạnh. Vạt cỏ nơi Hòa ngồi, ẩm hơi nước. Không gian vắng lặng tĩnh mịch, chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả gọi kêu nhau
Hòa đốt điếu thuốc nữa. Anh rít một hơi dài, nuốt hết khói, có một cái gì đó đăng đắng nơi đầu lưỡi. Giá hồi đó mình cũng được năm tạ thuốc nổ dồi lên, để rồi tan vụn ra thì đỡ khổ biết chừng nào - Một tiếng thở dài, bật ra. Hòa khẽ buột thành lời: "Sao cậu lại chết hả, Tòng ơi".
Hòa đăm đắm nhìn xuống bãi ngô, người lặng đờ như một khối đá.
Trăng đã tàn. Bầu trời chi chít sao. Xa xa những ngọn đồi, những ngọn núi như hoà tan vào bóng đêm. Dòng sông chỉ còn lại một vệt mờ mờ lẫn với bờ.
Đốm sáng nơi đầu điếu thuốc lại lóa đỏ.
Nghĩ tới chuyến đi ấy, Hòa tự hỏi: Hay là mình không có lỗi? Rằng với cương vị thuyền trưởng, anh đã nhận trách nhiệm hủy tàu, anh chỉ muốn tìm một giải pháp có lợi nhất, đỡ thiệt hại nhất mà hoàn cảnh lúc đó có thể cho phép. Rằng Tòng hy sinh là vì quá nôn nóng, quá vội vàng, và mọi người hình như nhìn nhận vấn đề cũng như vậy. Thế nhưng hễ nhớ tới rạng sáng hôm đó, anh lại nhức nhối, lại đau thắt, lại mặc cảm rằng mình đã giằng phần sống của người khác... Nhưng phút ấy, trời ơi, cái phút khủng khiếp, năm tạ thuốc nổ sẽ tức khắc bùng lên, quả có thế, quả anh đã run tay. Anh đắn đo. Anh ngần ngại. Nỗi tủi nhục, đau đớn và ân hận giày vò không dứt, chính chỗ ấy. Cuộc sống rất khắt khe, chỉ vì một phút sợ hãi, do dự toan tính là có thể phải mang cả cuộc đời ra trả. Có những sai lầm đáng ra không bao giờ được phạm phải. Thế mà anh... Đã ngỡ là người gan dạ, nhiều đức hy sinh, sẵn sàng chết cho một cái gì cao cả. Nhưng đến cái phút ấy, cái phút anh đưa tay lần tìm chiếc núm nhựa để đóng mạch châm ngòi cho năm tạ thuốc nổ, bản tính thực trong anh mới bộc lộ. Ai hiểu anh hơn anh lúc ấy nữa? Chỉ khi tiếp cận với sợi dây rất mảnh, ranh giới giữa cái sống và cái chết, người ta mới bộc lộ rõ mình.
Chuyến đi ấy ám ảnh Hòa, nó như một giấc mộng luôn luôn hiện về. Tất cả dường như mới xảy ra...
Hơn bốn tháng sau, anh và gần hai chục thủy thủ dắt díu nhau, lần đường trở về đơn vị. Hòa hốc hác, gầy rộc, tóc rụng quá nửa. Thiếu thốn vật chất và nỗi đau tinh thần âm ỉ giày vò anh. Anh chưa quỵ, anh không bỏ xác dọc đường có lẽ vì còn có một chỗ bấu víu: trách nhiệm với đoàn người. Riêng anh, cuộc đời có nghĩa gì. Đã cướp phần sống của người khác thì tồn tại như một sinh vật thừa. Dù nghĩ ấy đeo đẳng, bám níu Hòa suốt những ngày hành quân.
Anh mong chóng trở về đơn vị. Về tới đó để anh được nói hết tất cả, được trình bày tất cả, được lĩnh án kỷ luật. Và khi ấy may ra thanh thản ít nhiều. Nhưng có điều lạ là đoàn và Bộ tư lệnh đã đón anh và đồng đội của anh như những người vừa làm nên kỳ tích có tính thần thoại. Thần thoại ư? Đồng đội của anh đã chấp nhận một hoàn cảnh khó khăn ngoài sức tưởng tượng và chịu đựng của con người để vượt Trường Sơn trở về đơn vị. Còn anh? Kẻ ham sống sợ chết cũng đứng ngang hàng với họ? Chả lẽ cuộc đời lại giễu cợt và không còn gì mỉa mai hơn.
Anh đã báo cáo tất cả. Báo cáo lại những gì như nó vốn có. Song, không ai kỷ luật anh. Điều ấy càng khiến Hòa khổ tâm. Anh chỉ nghỉ một chuyến đi, sau đó lại được tiếp tục đi. Nhưng không yên ổn. Anh tự kết án mình. Anh luôn ở trong tâm trạng dằn vặt. Đêm, anh vẫn lẻn trốn lên boong, tìm chỗ ít người chú ý, ngồi đốt thuốc, lặng lẽ nhìn ra biển và thầm gọi Tòng. Hình ảnh Tòng chạy trên trảng cát ra với con tàu hiện về... Anh cảm thấy mắc nợ. Đã bao lần Hòa có ý về làng Ao Gỗ để nói hết sự thật, nhưng bom đạn, sự bận bịu của công việc không cho anh thực hiện. Chẳng rõ sao anh cứ nghĩ rằng nhất quyết anh phải nói với Lụa về cái chết của Tòng. Và anh tin, ngoài Tòng, còn một người nữa hiểu anh, sẵn sàng tha thứ cho anh, đó là Lụa. Chưa nói hết với Lựa, anh còn mắc nợ...
Tuần trước, vô tình có trong tay lá thư Lụa gửi cho Tòng, vì tò mò, vì bao duyên cớ khác không cắt nghĩa được anh đã đọc: "... Anh Tòng ơi, cuối cùng thì chúng mình đã thắng. Em đã tự do! Anh nghe rõ không, anh Tòng? Em đã tự do! Đoàn thanh niên ủng hộ em. Hội phụ nữ ủng hộ em. Và thế là pháp luật đã cởi trói. Trời ơi chưa bao giờ em mong anh về đến thế! Về đi anh, tranh thủ về với em vài ba ngày, hết bom đạn rồi! Anh hiểu em không?... Vậy mà đã lâu lắm, em chưa nhận được dòng nào của anh. Sao vậy, anh! Anh bận ư? Ôi! Đừng để em phải sống một mình nhé, "chú bé " của em".
Cuộc sống, chao ơi, khắc nghiệt và trớ trêu!
... Trên bờ đê, đốm sáng nơi đầu điếu thuốc lại loé đỏ Hòa vẫn ngồi đó, im lìm. Đôi mắt đăm đăm nhìn ra. Hai bờ vai đẫm sương. Hình ảnh những ngày qua đan chéo dội về khiến anh buốt lạnh. Anh cũng đã cố tìm cho mình sự lý giải, câu trả lời về những gì đã xảy ra, nhưng hình như càng giải thích, càng khổ tâm, day dứt...
Trời sáng lúc nào không hay. Ngôi sao cuối cùng đã lặn. Chân trời đằng đông ửng đỏ. Bầu trời cao, xanh, sáng dần. Sông Lô nhuộm một màu hồng hạt, lượn giữa đôi bờ cát. Dưới chân đê, bãi ngô trải một vệt dài, ngăn ngắt. Những chiếc lá đẫm sương đang vươn ra đón nắng.
Hòa dắt xe, đi về làng Ao Gỗ. Gió rất nhẹ. Không khí ban mai thoảng hương cỏ mật khiến Hòa tỉnh táo. Anh bước thấp thỏm.
Đầu làng tôi có Tháp Bình Sơn xây từ đời nhà Trần, cao mười một tầng. Niềm tự hào của quê tôi đấy. Mỗi viên gạch ốp ngoài được chạm một hoa văn. Mỗi hoa văn một vẻ và cái nào cũng dẹp. Hồi chưa vào bộ đội tôi vẫn hẹn Lụa dưới chân tháp. Muốn tìm làng tôi thật dễ: Cách vài cây số đã nhìn thấy đỉnh Tháp.
Nắng trời vàng lên mặt đê. Vạt cỏ bên đường óng ánh mấy giọt sương. Có tiếng mái chèo cắt nước từ mặt sông vọng lại. Trong những rặng tre, thấp thoáng bóng người. Hình như dưới bãi ngô có tiếng nói chuyện lao xao...
Hòa bước nhanh hơn. Anh đưa anh em rút khỏi vòng vây ngay, còn con tàu, mặc tôi... Từ ngày có Lụa, tôi thấy lúc nào cũng phơi phới... thèm được sống hơn bao nhiêu! Cuộc đời thật là tuyệt!... Không có tình yêu cuộc đời sẽ hoang vắng biết chừng nào!
Hòa vấp mô đất, chúi về phía trước, nhưng rồi lấy lại thăng bằng, anh dắt xe đi.
Bóng Hòa gầy, nhỏ, nhoè trong nắng.
3
Chiếc xe ngựa lăn vào xóm nhỏ một làng quê nọ.
Người xà ích chừng 35 tuổi, mặc chiết áo "tô châu" bạc màu, nơi cằm lún phún râu. Đó là Hải, một trong những người sống sót của tàu T.67.
Vẫn ngồi trên xe, anh hỏi một trung niên xách mấy gói thuốc bắc đi tới:
- Bác làm ơn chỉ dùm nhà ông lang thôn Đoài.
- Đó ngôi nhà trước mặt, nơi có dàn thiên lý.
Hải dừng xe, nhẩy xuống, buộc ngựa và bước vào sân. Một ngôi nhà ba gian, nhỏ, nhưng có cái gì đó ấm cúng, mát mẻ...
- Đây có phải nhà ông lang thôn Đoài không ạ - Hải dừng lại ở sân, hỏi to. Một người - gầy nhỏ, nhanh nhẹn bước ra.
- Ơ kìa... - Chủ nhà chững lại ngạc nhiên - Hải, Hải hả?
- Trời, anh Lượng...
Họ ôm choàng lấy nhau...
- Sao anh lại ở đây...
- Nhà mình mà. Mình làm thuốc.
- Thì ai biết được! Anh làm thuốc ư?
*
Trên mặt đê lồi lõm, một chiếc xe ngựa cũ nát lóc cóc hướng về phía thượng nguồn. Con vật rướn bộ xương còm nhom thả những bước nặng nhọc. Chiếc xe vật vã lăn đi. Trong xe có hai người. Hải đánh xe. Đôi mắt luôn nhìn về phía trước, thỉnh thoảng lại gắt một tiếng, và những ngón tay to như quả chuối giật mạnh dây cương. Rõ là Hải rất vội.
Người ngồi sau dỏng cao, khuôn mặt gầy, da mịn, tóc bạc chải hất về sau. Đó là Lượng. Anh ôm bên mình chiếc túi lớn, có ngăn và luôn nhìn ra ngoài, dẫu rằng lúc đó cảnh vật chỉ còn là những mảng đen.
Đến khúc đường vòng, chiếc xe rời bờ đê, ngoặt sang phải. Đoạn này dốc, ngựa chạy nhanh hơn.
- Lối này à, ông Hải? - Lượng chợt hỏi, giọng suồng sã - mình nhớ làng cậu phải qua ngọn đồi Ngũ mới rẽ kia mà.
- Trí nhớ của anh chưa cùn mòn tí nào! - Hải không quay lại, trả lời và thúc ngựa đi nhanh hơn.
- Tiêu chuẩn hàng đầu của người bốc thuốc đấy!
- Nghe người ta đồn về tài chữa bệnh của ông lang làng Đoài, không ngờ là anh.
- Cũng lạ đấy, nhỉ? - Người ngồi phía sau dịch lên, đáp - Mình cũng không ngờ... Thực ra thì trước đây nội mình làm nghề này. Cụ là một danh y, cả tổng biết. Đến đời bố mình việc đó đứt đoạn. Mình đâu nghĩ sẽ theo nghề thuốc. Vậy mà sau khi xuất ngũ, có một cái gì như định mệnh: thấy cần quay lại cái nghề của ông nội. Đầu tiên tìm sách của các cụ đọc, rồi có lẽ một sự tiềm ẩn trời phú nào đó tới lúc phát, mình nhận ra khả năng làm thuốc, chữa bệnh, lạ thế... Chà, giá cái thời chúng ta lềnh phềnh ngoài biển, hoặc tháng ngày vượt Trường Sơn mình có được khả năng này, nhỉ!
- Đã bao năm rồi đó, anh Lượng - Hải chợt nói. Thời gian trôi nhanh quá, phải không?
- Hòa bình đã trở lại, chúng ta chẳng mấy nữa sang thế giới bên kia mà cuộc chiến tranh chưa bứt khỏi mình.
- Cả một thời trai trẻ... Nhưng dù sao mọi sự cũng đã qua rồi, Hải ạ - Lượng nói một cách khó khăn, giọng anh trở nên lạnh lùng như thể nói với chính mình - Bây giờ là hiện tại, là phía trước. Những gì đã qua, thật khó lấy lại.
Hải quất roi vào mông ngựa, chiếc xe chồm lên. Trời nhập nhoạng, con đường chỉ còn là một vệt sáng mờ, mỏng manh vắt qua cánh đồng trống trải. Gió lùa vào hai bên thành xe khiến tấm liếp che rung lên. Không khí lạnh hơn. Hải châm đèn dầu, ngoắc vào càng xe và vẫn tư lự nhìn thẳng.
- Anh bảo là những gì đã qua rồi không lấy lại được? - Một lát, Hải lên tiếng, giọng làn khàn.
- Hả? - Lượng quay lại nhưng có lẽ không để ý đến cái giọng làn khàn bật ra một cách khó khăn của bạn, anh hỏi: Đường còn xa phải không? Bà cụ nhà cậu năm nay bao nhiêu nhỉ?
- Cụ tuổi gà, năm nay bảy ba. Tôi đã chạy đủ thầy, đủ thuốc nhưng bệnh không thuyên giảm. Cuối cùng người ta mách sang làng Đoài. Chiều nay đánh xe đi... ai ngờ lại là anh, thật mừng.
- Hình như cụ không sống với cậu, hả?
- Vâng, cụ ở với con gái. Nhưng lần này đang định đón cụ về chăm nom. May quá gặp được anh, muốn hỏi ý kiến.
- Thế nào, hỏi ý kiến mình?
- Anh là chính trị viên của chúng tôi...
- Chà? - Người ngồi phía sau chợt cười. Chính trị viên. Thời ấy qua rồi...
- Chưa cái gì qua cả. Anh là cấp trên, là đồng đội của chúng tôi. Bà cụ không phải là mẹ tôi.
- Cái gì?
- Anh còn nhớ cậu Mừng không?
- Sao không nhớ?
- Bà cụ là mẹ cậu ấy.
- Cậu bảo sao? Là mẹ cậu Mừng?
- Tôi có lỗi là hồi chiều không nói thật với anh. Nhưng chẳng sao. Đã bao năm tôi gắng nuôi nấng, chăm lo cho cụ và tự bảo với mình rằng phải coi cụ như mẹ đẻ. Đó không hẳn là nghĩa vụ, anh Lượng ạ. Có một cái gì nặng lắm mạnh hơn tiếng đó dằn vặt tôi. Chắc anh nghĩ rằng tôi lẩm câm. Vâng, có thể. Mọi sự qua đi, không hẳn rằng đều đã lãng quên.
- Sao mình không hiểu - Giọng Lượng buồn bã... - Mình là thằng đã qua trọn cuộc chiến tranh...
- Tôi rõ - Hải thong thả đáp. Giọng anh chìm xuống - Tôi nghĩ rằng những gì không đáng xảy ra, đừng xảy ra vẫn hơn. Thằng Mừng kém tôi đúng một giáp. Vì thế mà chúng tôi quý nhau chăng? Hắn như một cái bóng, lúc nào cũng bám lẵng nhẵng bên tôi. Và tôi cũng vậy, hễ hắn vắng mặt ở tàu một ngày là cảm thấy thiếu thiếu cái gì. Lạ thế! Những đêm tàu của chúng ta lang thang trên biển chờ cơ đưa vũ khí vào bến, hắn thường lên boong, nằm gối đầu lên đùi tôi và hỏi, và kể đủ chuyện. Phải nhận rằng hắn thông minh biết nhiều, nói có duyên. Khi biết mình không có tên trong danh sách những người đi chuyến đó, một chuyến ai cũng hiểu là khó có dịp trở về, cu cậu đã khóc, rồi lên gặp chỉ huy...
- Chuyện ấy mình nhớ, - Lượng ngồi lên và đáp - Mình nhớ Mừng là con một, lý ra không càn nhập ngũ...
- Chà, nhưng mà thôi Hải à. Chẳng lẽ cứ day dứt lại quá khứ mãi để vấn mình, vấn người?
- Cái đêm trước lúc chúng ta bị lộ và đành phải tự hủy tàu, hắn đột nhiên khoe với tôi rằng cu cậu đã có người yêu, đi chuyến này về, nhất quyết báo cáo tổ chức và cưới. Tôi đồ rằng hắn bịa. Nhưng hắn khăng khăng rằng chị gái hắn, chị Vui, mối lái móc nối cho đã hơn năm nay. "Nhưng em chưa biết mặt cô ta, chỉ nom thấy trong ảnh, cũng xinh", hắn nói. Tôi động viên rằng cảnh lính thời chiến lấy vợ như vậy không hiếm. Hắn hào hứng. "Em cũng nghĩ thế. Và cô ấy chấp nhận như vậy. Em lấy vợ, người mừng nhất là mẹ. Từ ngày chị Vui lấy chồng, mẹ tròi trọi một mình, tội lắm. Cụ bảo lấy vợ, đẻ thằng cu rồi muốn đi đâu, mẹ không cản". Hắn còn bắt tôi hứa rằng ngày cưới, nhất quyết tôi phải nghỉ phép về làm chủ hôn, tôi bảo: "Vậy ra cậu không chờ con gái mình?". Cu cậu cười. Hắn có cái miệng xinh xinh, khi cười thật dễ coi. "Anh mà làm bố vợ em thì nhộn nhỉ. Nhưng cháu nó mới lên tám, lâu quá! ". Rồi cũng như mọi lần, ôm lấy tôi, hắn ngủ lúc nào không hay... Vậy mà... vậy mà chính tôi đã... vô lý quá?
- Những ngày đó thật khủng khiếp, chẳng ai nghĩ rằng sẽ còn sống. Chúng vờn bọn mình như lùa vịt, nhỉ. Ý đồ của chúng là tóm cho được vài ba người... Cậu và Mừng là trường hợp... ôi, chiến tranh, có bao sự kỳ quái không sao lý giải được. Nhưng dẫu sao mọi sự đã lùi vào quá khứ, chúng mình không còn trẻ nữa, nếu có thể, gắng quên đi những gì có thể quên... Bỏ bộ quân phục để làm một ông lang, mình chiêm nghiệm ra nhiều điều lắm... Chỉ một an ủi duy nhất là: ta đã chẳng làm điều gì tệ hại, ta vẫn là một con người. Vậy thôi.
- Con người ư?... - Hải nói, rồi anh im lặng, bỏ lửng ý nghĩ mình, lại giật dây cương. Tiếng chân ngựa gõ trên đường mỗi lúc một rõ. Đâu đó có tiếng chim ăn đêm gọi nhau vẳng lại. Hải hơi gù xuống, trông anh lúc này giống một tảng đá to bè. Anh ngồi lặng, lắng nghe tiếng gió từ đồng lúa phả vào thành xe.
Con ngựa dường như thấm mệt, tiếng vó gõ xuống đường không còn đều nữa. Hải thôi quất roi, giật cương. Anh để con vật tự do đi nước kiệu. Mới chớm tối mà xung quanh đã yên vắng. Thỉnh thoảng mới thấy một ánh đèn le lói sau rặng cây.
Cánh đồng co vào, và trước mặt đã hiện lên những mảng đen che một góc bầu trời.
- Kinh tế gia đình cậu thế nào? - Lượng nhìn ra mảng tối mỗi lúc một gần và hỏi.
- Tôi vẫn là anh nông dân, Hải đáp - nông dân chỉ biết bám vào đất mà sống thôi. Nếu biết yêu quý đất thì đất không phụ. Mấy năm nay các cháu đã trưởng thành, nên nhàn... lần này dù vội mấy anh cũng ở chơi vài ngày đấy. Lâu quá rồi! Tôi rất thèm gặp lại bạn bè cũ. Chỉ ai đã qua chiến tranh mới hiểu nhau. Bây giờ người ta sống lạ lắm.
- Ừ, mỗi thời một khác...
- Bà cụ đỡ, tôi sẽ dẫn anh đến nhà mấy anh em cùng tàu còn sống sót.
- Mình hỏi nhé, nếu cậu đưa cụ về thăm nom, con cháu cụ không ý kiến sao?
- Từ lâu tôi đã là người nhà.
- Ờ...!
Lượng gật gù. Hình như anh hiểu ra điều gì. Một lát, vẫn nhìn vào mảng tới trước mặt mà anh đã nhận ra là lũy tre viền quanh làng, anh nói:
- Người ta đi mãi, đi mãi vẫn không sao hết được mình, nhỉ?
Hải không đáp, anh gò dây cương để con ngựa rẽ vào làng.
Bãi Cháy, Xuân 1984.
Người Của Biển Người Của Biển - Người Của Biển