Số lần đọc/download: 240 / 24
Cập nhật: 2020-07-08 19:36:22 +0700
Chương 38 - Một Tác Dụng Của Những Bộ Phim Cũ
H
ọ đưa Pinto Silva đến tòa án tại phố Bow vào sáng hôm sau trong tình trạng suy sụp. Anh ta choáng váng bởi vận xui của mình, không có khả năng trả lời các câu hỏi được đặt ra hoặc thậm chí trình bày cho vị luật sư đang bực bội vì đã ở bên anh ta suốt một giờ.
Bên cạnh luật sư là một người đàn ông mặt xám xịt, rúm ró, quần áo dường như không vừa với ông ta và đã thì thầm điều gì đó vào tai luật sư vào cuối quá trình tố tụng. Nhưng đơn xin bảo lãnh đã bị từ chối. Bằng chứng quá trầm trọng, và nhận thức rằng tù nhân không phải là người Anh và sẽ không thể dẫn độ anh ta nếu anh ta trốn thoát đến một quốc gia nào đó, tất cả những điều này đã góp phần ảnh hưởng đến quyết định của Thẩm phán.
Đại tá Boundary không nói chuyện với người đứng trên bục bị cáo, thậm chí không nhìn anh ta. Ông ta rời tòa án ngay sau khi các thủ tục tố tụng chấm dứt, là tâm điếm cái nhìn của mọi cảnh sát, và lái xe trở về căn hộ. Ông ta không nghe tin gì từ Crewe hay Lollie vào sáng hôm đó và đoán rằng họ đã rời đi bằng máy bay. Vì vậy, ông ta chỉ còn lại một mình, ông ta nghĩ, và chính nhận thức ấy có tác dụng khiến ông ta cứng cỏi hơn.
Ông ta xem xét phần còn lại của giấy tờ sổ sách mà không sợ bị gián đoạn. Các thành viên nhỏ hơn của băng đảng từng bị Selby hoặc Crewe kiểm soát, và họ sẽ không tiếp cận trực tiếp ông ta, không nghi ngờ gì là một vài người đang chờ để nhảy lên bục nhân chứng ngay khi ông ta bị bắt, nhưng không có nghĩa ông ta đã từ bỏ hy vọng trốn thoát.
Trong nhiều ngày liền, ông ta mang theo những phương tiện ngụy trang trong túi, một chiếc dao cạo an toàn, kéo và một chai nhỏ dung dịch nhuộm màu chế từ hạt điều để bôi đen khuôn mặt.
Mặc dù đã sáu mươi mốt tuổi, ông ta là người khỏe mạnh và đầy sức sống, có khả năng chịu đựng gian khổ nếu cần thiết, nhưng trên hết, ông ta đã có một kế hoạch và cả kế hoạch dự phòng.
Ông ta hoàn tất việc tiêu hủy thư từ, sau đó bắt đầu lục soát trong túi bất kỳ lá thư nào mà có thể ông ta lơ đãng bỏ quên. Ông ta tìm thấy một phong bì dài màu trắng, gửi cho Crewe, và băn khoăn tại sao nó lọt vào tay mình. Sau đó, ông ta nhớ ra rằng Crewe đã đưa nó cho mình.
Ông ta nhìn dấu bưu điện.
Từ Oxford.
Đây là báo cáo của các đặc vụ mà Crewe cử đi tìm hiểu tên những người đã rời trường Balliol trong một năm nào đó. Gregory Tuyết, người bị bắn trên đường phố London, là một sinh viên trường Balliol đã rời Oxford năm ấy. Có một điều chắc chắn là một thân nhân của Gregory Tuyết đã tự xưng là Kẻ Hành Pháp, và nhận nhiệm vụ báo thù cho cái chết của cậu ta.
Tên thật của Gregory Tuyết là gì? Nếu có thể tìm ra điều đó, ông ta sẽ biết Jack - Kẻ Hành Pháp là ai.
Chậm chạp, như thể cảm nhận rằng một phát hiện vĩ đại sắp xảy ra, ông ta xé phong bì và rút ra ba trang giấy gấp kín, cùng một ghi chú mở đầu. Có hai danh sách những sinh viên đã rời trường trong năm đó, nếu Gregory Tuyết nói thật trong một khoảnh khắc tự tin khác thường, năm anh ta rời trường.
Ngón tay Đại tá lần lượt lướt từng dòng và đi hết danh sách đầu tiên mà không phát hiện ra cái tên quen thuộc nào. Ông ta đang dò được nửa danh sách thứ hai thì dừng lại và ngón tay nhảy lên. Trong ba phút, ông thẫn thờ ngồi nhìn tờ giấy, miệng há hốc.
“Chúa lòng lành!”
Ông ta ngồi đó gần một giờ, cằm tựa trên tay, mắt dán vào cái tên. Và suốt thời gian ấy, não bộ sục sôi của ông ta chạy ngược trở lại nhiều năm, chắp nối các bằng chứng cho phép mình xác định, không chút nghi ngờ, thân phận của Kẻ Hành Pháp.
Ông ta đứng dậy, đến bên tủ sách và lôi ra hết bộ sách này đến bộ sách khác. Chúng chủ yếu là sách tham khảo, và ông ta tìm kiếm trong vô vọng hồi lâu. Sau đó, ông ta tìm thấy một cuốn Niên giám chứa dữ liệu mình muốn tìm. Ông ta mang nó trở lại bàn và viết nguệch ngoạc một vài ghi chú. Ông ta đọc đi đọc lại những dòng này và cẩn thận thiêu hủy.
Ông ta kết thúc công việc với ánh mắt ngời sáng và bước vào phòng ngủ, dường như trẻ hơn mười tuổi so với buổi chiều. Ông ta tắt hết đèn và ngồi trong bóng tối của tấm màn, nhìn đường phố từ cửa sổ mở. Ở góc của tòa nhà, một cuộc họp của tổ chức Đội quân Cứu thế đang diễn ra, và ông ta ngạc nhiên rằng mình đã không nhận ra điều ấy, mặc dù tập quán của Đội quân Cứu thế tổ chức các cuộc họp gần căn hộ của ông ta trước đây đã khiến ông ta mất tập trung.
Rất chăm chú, ông ta rà soát đường phố để tìm dấu hiệu của một hình bóng lẩn khuất, và có lần nhìn thấy một người đàn ông đi qua dưới ánh đèn đường và tan vào bóng tối một ô cửa bên kia đường. Ông ta đi vào phòng ngủ và mang ra cặp kính ban đêm, tập trung nhìn vào hình bóng đó.
Ông ta cười nhẹ, rời căn hộ, đi ra phố, đi về hướng Nam.
Tuy nhiên, ông ta không đi xa trước khi dừng bước và nhìn lại, sự kiên nhẫn của ông ta đã được đền đáp bằng việc phát hiện một hình bóng băng qua đường, đi vào tòa nhà ông ta vừa rời đi. Đại tá chờ một lúc, sau đó bước trở lại. Ông ta cởi giày trong tiền sảnh và lặng lẽ đi lên lầu. Ông ta đi được nửa đường thì nghe thấy tiếng rít khe khẽ chỗ cánh cửa căn hộ, và lại cười. Ông ta cho kẻ đột nhập đủ thời gian để vào bên trong trước khi ông ta nhét chìa khóa vào ổ, lặng lẽ xoay chìa rồi nép vào hành lang tối. Có ánh sáng trong phòng và ông ta nghe thấy tiếng ngăn kéo được mở ra. Rồi ông ta nắm chặt tay nắm, mở bung cửa, bước vào. Người đàn ông đang lục soát bàn làm việc nhảy bật lên kinh hãi.
Như Boundary đã nghi ngờ, đó là người quản gia cũ, người đã rời bỏ ông ta ngày trước mà không nói một lời. Anh ta là một người đàn ông to cao, hàm bạnh với vóc dáng mạnh mẽ, và vẻ mặt sợ hãi nhất thời tan chảy thành nụ cười khi nhìn thấy khuôn mặt Đại tá.
“Chà, Tom,” Boundary thích thú nói, “quay lại để trộm phải không?”
“Đại loại thế, thưa ngài,” người kia nói. “Ông không buộc tội tôi chứ?”
“Tom, tôi đối xử với anh khá tốt,” Đại tá nói.
“Ồ! Tôi không biết mình phải cảm ơn ông về chuyện gì nữa.”
Đây là một người mới một tháng trước vẫn co rúm dưới ngón tay của Đại tá!
“Không biết sao, Tom?” Boundary nói nhẹ nhàng. “Nào, nào, như vậy thật vô ơn.”
“Tôi phải biết ơn ông vì điều gì?” Người đàn ông hỏi vặn.
“Biết ơn vì anh còn sống, Tom,” Đại tá nói, và người quản gia đanh mặt lại.
“Không hề có chuyện đó, Đại tá,” anh ta nạt lại. “Ông không thể nói chuyện ‘ngây thơ’ với tôi. Tôi biết nhiều về ông hơn ông tưởng. Ông nghĩ rằng tôi không có đầu óc chắc?”
“Tôi biết anh có đầy đủ đầu óc, Tom,” Đại tá nói, “nhưng anh không thể sử dụng nó.”
“Tôi không thể, hả? Tôi đã chăm sóc ông bốn, năm năm và làm nhiều công việc bẩn thỉu cho ông, mà không nhặt nhạnh được chút thông minh… và chút thông tin nào hay sao! Ông mới thật sự khôi hài nếu họ đưa tôi lên bục nhân chứng!”
Anh ta lấy lại can đảm trước vẻ hiền lành của người đàn ông mà anh ta từng đối mặt trong nỗi kinh hoàng.
“Vậy, anh đến để chôm chỉa?” Đại tá nói, lờ đi lời đe dọa của anh ta. “Phải, cứ tự nhiên.”
Ông ta đi đến tủ, rót một ít rượu whisky và ngồi xuống bên cửa sổ để nhìn người kia lục soát. Tom mở một ngăn kéo khác và đóng lại.
“Này, hãy nhìn đây, Đại tá,” anh ta nói, “tôi không kiếm được nhiều từ công việc làm ăn này như ông. Mọi chuyện khá tồi tệ với tôi, và tôi nghĩ rằng ít ra thì ông cũng cho tôi một cái gì đó để nhớ về ông.”
Đại tá không trả lời. Rõ ràng suy nghĩ của ông ta đã lang thang quá xa.
“Tom,” sau một khoảng ngừng, ông ta nói, “anh còn nhớ ba tháng trước tôi đã mua rất nhiều phim điện ảnh cũ không?”
“Có, tôi nhớ,” người đàn ông nói, ngạc nhiên trước việc thay đổi chủ đề. “Có liên quan gì đến nó?”
“Có khoảng mười hộp, phải không?”
“Một tá thì đúng hơn,” người kia sốt ruột. “Này nhìn đây, Đại tá.”
“Đợi một lát, Tom. Tôi sẽ thảo luận về phần chia của anh sau khi anh giúp tôi một việc. Nhân tiện gặp anh ở đây - A, tôi đã thấy anh qua cửa sổ, đi bên kia đường - tôi đã nảy ra một ý tưởng. Anh đặt những bộ phim đó ở đâu?”
Người đàn ông cười.
“Ông định mở rạp chiếu phim sao, Đại tá?”
“Đại loại thế,” Boundary trả lời. “Chính là Đội quân Cứu thế đã cho tôi ý tưởng. Anh có nghe thấy tiếng ồn ào như chợ vỡ của mấy tay trống đó không?”
Người đàn ông phất tay thiếu kiên nhẫn.
“Ông muốn gì? Nếu ông muốn xem, tôi để chúng trong phòng bếp, bên dưới tủ đồ bạc. Tôi cho rằng, bây giờ khi mối quan hệ cộng tác đã tan vỡ, ông không phản đối tôi lấy đồ bạc chứ? Tôi có thể mua một ngôi nhà nhỏ.”
“Chắc chắn, chắc chắn, anh có thể lấy hết đồ bạc,” Đại tá thân thiện nói. “Mang cho tôi những bộ phim đó.”
Người đàn ông đã đi nửa đường ra khỏi phòng, rồi quay lại.
“Không dùng mánh khóe nhé, phiền ông làm ơn,” anh ta nói, “không giở trò gì khi tôi quay đi đấy.”
“Tôi sẽ không rời khỏi ghế, Tom. Anh dường như không tin tưởng tôi.”
Người quản gia cũ phải đi hai chuyến để mang một tá hộp thiếc đến bàn làm việc.
“Chúng đây,” anh ta nói, “bây giờ hãy cho tôi biết đây là trò gì.”
“Trước hết,” Đại tá nói, “anh nghiêm túc khi cho rằng điều anh biết về tôi có giá trị đối với cảnh sát? Cái trống đó lại chơi nữa rồi, Tom. Anh biết cái trống đó gây ra điều gì cho tôi không?”
“Tôi không biết,” người kia gầm gừ. “Tất nhiên, ý tôi đúng là những gì tôi đã nói - chuyện về cái trống là thế nào?”
“Sao chứ, những người ở trên phố không thể nghe thấy gì khi nó nổi lên,” Đại tá nhẹ nhàng nói.
Ông ta thò tay vào áo khoác, như thể đang tìm kiếm một cuốn sách bỏ túi, và nhanh đến mức người đàn ông, cúi người trên bàn, không nhìn thấy thứ vũ khí đã giết mình. Đại tá nổ súng ba lần, và người đàn ông trượt xuống thành đống bèo nhèo trên sàn.
“Khi đói thì thịt cừu non cũng như cừu già, Tom ạ,” Đại tá nói, cất vũ khí đi, và lật thi thể lại, ông ta lấy chiếc ghim cài khăn quàng từ chiếc cà vạt của mình và cài nó lên cà vạt của người chết. Sau đó, ông ta lấy đồng hồ và dây chuyền trong túi mình nhét nó vào áo gi-lê của người kia. Ông ta có một chiếc nhẫn trên ngón út và thứ này cũng được chuyển sang ngón tay của thi thể.
Sau đó, ông ta mở những hộp phim cũ và rải chúng trên sàn nhà, ghim chúng vào rèm cửa, quấn chúng quanh chân ghế, liên tục huýt sáo bài Điệp khúc người lính. Ông ta tìm được một cây nến trong tủ đựng thức ăn của người quản gia và với bàn tay vững vàng, cắm nó giữa đống phim bằng xenluloit. Ông ta cẩn thận thắp nến và ra khỏi nhà, nhẹ nhàng đóng cửa sau lưng.
Nửa giờ sau, dinh thự Albemarle bị chặn tứ phía bởi xe cứu hỏa và hàng tá vòi rồng đang xả nước vô vọng trên lò lửa hừng hực giữa những bức tường rỗng ruột trong căn hộ của Đại tá Dan Boundary.
Stafford King là một vị khách đến sớm của phố Doughty, và Maisie biết bởi giờ giấc khác thường của chuyến thăm và bởi vẻ nghiêm trọng trên mặt anh, rằng điều gì đó bất thường đã xảy ra.
“Maisie à,” anh nói, “đó là kết thúc của liên minh Boundary, Đại tá đã chết.”
“Đã chết?” Cô nói, mắt mở to.
“Chúng ta không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng giả thuyết là ông ta tự bắn mình và phóng hỏa căn nhà. Thi thế được tìm thấy trong đống đổ nát, và anh có thể xác định được một số trang sức - em có nhớ cảnh sát đã giữ chúng khi ông ta bị bắt lần trước và bọn anh đã lưu ý đặc biệt để tham khảo trong tương lai.”
Cô thở dài.
“Cuối cùng, nó cũng qua, kết thúc của một cơn ác mộng,” cô nói, “một cơn ác mộng kinh hoàng, khủng khiếp. Em tự hỏi…”
“Em băn khoăn điều gì?”
“Em tự hỏi liệu đây có phải là kết thúc của Kẻ Hành Pháp?” Cô hỏi. “Hay ông ấy sẽ tiếp tục việc thực thi công lý với những kẻ mà pháp luật không thể chạm tới.”
“Chỉ có Chúa mới biết,” Stafford nói, “nhưng anh phải thừa nhận rằng Kẻ Hành Pháp là người hữu ích nhất trong số những kẻ chúng ta biết. Chúng ta sẽ không bao giờ tóm cổ được Pinto hay Selby, hoặc thậm chí là Đại tá, nếu không có Jack. Mà này, không có tin tức gì về Crewe và cô gái.”
“Em nghĩ bây giờ họ đã đến nơi rồi, đúng không?” Cô hỏi.
“Hẳn là thế,” Stafford nói. “Vài giờ cho đến một ngày trước. Thế họ đã đi đâu?”
Cô lắc đầu.
“Em sẽ không nói với anh điều đó.”
“Em không cần nói,” Stafford mỉm cười. “Họ đã đi Bồ Đào Nha. Đó là máy bay của Pinto, và anh cho rằng anh ta không biết đến nơi nào khác ngoài việc trở về vùng đất thân thuộc của mình. À, Pinto có vẻ sẽ lĩnh án mười năm. Để thỏa mãn bản thân về phần Crewe, anh đã điện báo cho một người Anh ở Finisterre, một người bạn tốt của anh sống ở nơi hoang dã và biệt lập đâu đó gần ngọn hải đăng, và anh ấy nhắn lại một mẩu tin rằng một chiếc máy bay đã bay qua Finisterre chiều hôm qua ngay sau giờ ăn trưa. Đó hẳn là cô bạn Lollie.”
Cô gật đầu.
“Anh biết không, em hy vọng họ sẽ thoát. Có phải em khá hư đốn không?”
Anh lắc đầu.
“Không, anh không nghĩ vậy. Anh tin rằng sếp lớn cũng chia sẻ hy vọng đó của em. Ông ấy có những quan điểm kỳ quặc về mọi chuyện, và đôi khi chúng làm anh khó chịu. Chẳng hạn, ông ấy không nghĩ rằng Đại tá đã chết.”
“Nhưng em tưởng anh đã tìm thấy xác?”
“Ông ấy đã bác bỏ điều đó bằng cách nói rằng đó không phải thi thể của Đại tá,” Stafford nói với một tiếng cười khan. “Tất nhiên ai cũng lo lắng sau khi quyết định rằng phải tóm được toàn bộ băng đảng. Anh vẫn tin rằng đó là Đại tá.”
Cô suy nghĩ một lúc.
“Em có thì đồng ý với ngài Stanley,” cô nói. “Đây không phải là phong cách của Đại tá. Những người như Đại tá Boundary không bao giờ thiếu hy vọng.”
Stafford gãi đầu.
“À, nếu đó không phải là Đại tá, vậy ông ta đã chạy mất; và nếu hoàn cảnh cho phép, chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại ông ta! Chỉ còn vấn đề thâu tóm những thành viên thấp bé của băng đảng, và chuyện đó không mấy rắc rối.”
Cô đặt cả hai tay lên vai anh và mỉm cười nhìn anh. “Anh quả là người lạc quan, anh yêu,” cô nói.
“Ai mà không muốn chứ!” Anh vui vẻ đáp. “Em nói rằng khi băng đảng này bị thâu tóm, chúng ta sẽ từ bỏ cuộc sống buồn bã cô đơn và kết hợp thành một băng đảng nhỏ của chính mình.”
Cô cười và hôn anh.
Khi quay lại văn phòng, anh thấy thủ trưởng đã đến và gọi anh vào. Ngài Stanley đang đọc tờ báo buổi sáng khi Stafford vào phòng, và những lời đầu tiên của ông khiến chàng trai khiếp đảm.
“Stafford,” ông nói, “đây không phải là thi thể của Đại tá. Chỉ cần nhìn là tôi biết chắc chắn. Bây giờ, anh phải gửi một thông cáo đến toàn bộ các đồn trạm trên toàn quốc, đặc biệt là miền Nam, để tìm kiếm một người đàn ông, có thể cạo râu sạch sẽ, chắc chắn không có ria mép, ngụy trang thành một kẻ lang thang.”
“Tại sao lại là một kẻ lang thang, thưa ngài?” Stafford hỏi với một nỗ lực dũng cảm để cố gắng cởi mở về chủ đề mà anh đã xác định rõ.
“Mười lăm năm trước,” ngài Stanley trả lời, “khi Đại tá thực hiện hầu hết những việc làm bẩn thỉu, đó là lớp vỏ ngụy trang yêu thích nhất của ông ta. Tìm kiếm các trạm dịch thông thường, nhà trọ chung và nhà tù. Rất có khả năng Đại tá sẽ phạm một tội nhỏ, với mục tiêu nhận ba tháng tù - không nơi ẩn náu nào tốt như nhà tù, anh biết đấy, Stafford. Điều nguy hiểm thực sự là ông ta có thể không thực sự đi lang thang hoặc khoác lớp vỏ ngụy trang của người bần cùng. Ông ta có thể đủ thông minh để đóng vai một người thợ nghèo nhưng trung thực, đi vé hạng ba từ thị trấn này sang thị trấn khác tìm việc. Khi đó, ông ta sẽ gây ra khó khăn lớn nhất.” Ông nhìn thấy vẻ nghi ngờ trên khuôn mặt chàng trai và cười. “Anh nghĩ ông ta đã chết, phải không?” Ông nói.
“Tôi hoàn toàn chắc chắn ông ta đã chết, thưa ngài,” Stafford trả lời thẳng thắn.
“Một người lạc quan đến phút cuối cùng,” ngài Stanley mỉm cười và giải tán anh bằng cái gật đầu.
Sau đó, ông lại đến văn phòng của Stafford, và kể cho anh những điều mà trước đây anh không biết. Khi ấy, lần đầu tiên Stafford King phát hiện ra vị lãnh đạo có vẻ yếu đuối của mình đã theo sát sự phát triển tình hình những tháng vừa qua như thế nào. Lần đầu tiên anh được biết vai trò to lớn mà Kẻ Hành Pháp đã tham gia trong việc phát hiện ra băng đảng.
“Hắn có một văn phòng bên dưới căn hộ của Đại tá,” ngài Stanley nói. “Rõ ràng nó được mua không vì mục đích nào khác ngoài việc cung cấp cho ông bạn kỳ quái của chúng ta cơ hội thám thính Đại tá. Hắn phá hỏng một bức tường, đưa những người thợ đến và trong khi Đại tá vắng mặt - bị xua khỏi phòng bởi mùi hóa chất kinh khủng - hắn đã cài micro vào. Với những thiết bị này, hắn có thể nghe tất cả các cuộc trò chuyện ở tầng trên và đôi khi còn chêm vào vài câu. Chính Jack - Kẻ Hành Pháp, có lẽ tôi không nên nói với anh, vì một cách chính thức, tôi không nên biết điều này. Dù sao đi nữa, Stafford,” ông nói nghiêm túc hơn, “chúng ta đã chứng kiến việc phá hủy một trong những băng đảng độc ác, xấu xa nhất từng tồn tại. Chúa mới biết đã có bao nhiêu trái tim tan vỡ ở nước Anh này cho đến hôm nay, có bao nhiêu linh hồn đáng thương đã bị đưa đến kết cục bi thảm vì mưu mô của Đại tá Boundary và những công cụ của ông ta. Tôi không nghĩ rằng có một thế lực nào vô đạo đức hơn thế tồn tại trong thời của chúng ta, và tôi hy vọng chúng ta sẽ không bao giờ thấy những gì tương tự như vậy nữa. Anh phát lệnh đi rồi chứ?” Ông hỏi lúc chia tay.
“Vâng, thưa ngài. Tôi đã cảnh báo tất cả các trạm gác và tất cả các cảnh sát trưởng.”
“Tốt!” Ngài Stanley nói, và những lời cuối cùng của ông là, “Đừng quên, Boundary chưa chết!”