Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 37: Hồi Hình Thoi
T
om Waaler đưa cho cô món quà, cố gắng hết sức để không chạm vào người cô vì ngôn ngữ của cơ thể cô cho thấy cô vẫn sợ hãi như một chú linh dương, mà kẻ săn mồi có thể ngửi thấy. Anh ta đi qua cô để vào phòng khách, ngồi xuống sô pha mà không đợi mời. Cô đi theo sau và vẫn đứng. Anh ta nhìn quanh. Anh ta thường hay lui tới những căn hộ của các cô gái trẻ và thấy chúng được trang hoàng ít nhiều theo cùng một kiểu. Riêng tư nhưng nhàm chán, ấm cúng nhưng tẻ nhạt.
“Em không định mở nó ra sao?” anh ta hỏi.
Cô làm theo lời đề nghị của anh ta.
“Một cái đĩa CD,” cô nói, mặt ngẩn ra.
“Không phải là cái đĩa bất kỳ nào đâu,” anh ta nói. “Purple Rain đấy. Bật lên đi, em sẽ hiểu.”
Anh ta quan sát cô trong lúc cô bật cái đài đa chức năng thảm hại mà cô và những kẻ khác giống cô gọi là máy stereo. Cô nàng Lønn không hẳn là ưa nhìn. Nhưng ngọt ngào theo kiểu riêng. Người ngợm cũng xoàng, không nhiều đường cong để mà vuốt ve, nhưng thanh mảnh và khỏe khoắn. Cô thích thú chuyện mà anh ta đã làm cô và bộc lộ một sự nhiệt tình lành mạnh. Ít ra thì trong vài lần đầu, khi anh ta hành xử khá nhẹ nhàng. Đúng, quả thật là chuyện đó đã diễn ra hơn một lần. Quả là đáng ngạc nhiên, bởi lẽ cô không phải là kiểu mà anh ta thích.
Rồi một buổi tối nọ, anh ta đã cho cô tận hưởng đủ. Và cô cũng giống như phần lớn những cô nàng khác mà anh ta từng cặp không hoàn toàn đồng điệu với anh ta. Điều đó chỉ khiến cho mọi chuyện càng trở nên thú vị đối với anh ta, nhưng thông thường thế có nghĩa là sau đó thì đường ai nấy đi. Và chuyện đó sẽ chẳng ảnh hưởng gì tới anh ta cả. Beate nên lấy đó làm mừng; bởi vì lẽ ra chuyện còn có thể tệ hơn thế rất nhiều. Cách đây mấy hôm, đột nhiên cô nói với anh ta về cái nơi mà cô nhìn thấy anh ta lần đầu tiên.
“Ở Grunerlokka,” cô nói. “Vào buổi tối, và anh ngồi trong chiếc xe màu đỏ. Đường rất đông và cửa kính xe anh đã hạ xuống. Đó là vào mùa đông. Năm ngoái.”
Anh ta khá sửng sốt. Nhất là bởi buổi tối duy nhất anh ta nhớ được mình đã tới Grunerlokka hồi mùa đông năm ngoái là cái hôm thứ Bảy khi anh ta cùng đồng bọn tiễn Ellen Gjelten về chầu trời.
“Em nhớ mặt người,” cô nói, mỉm cười đắc thắng khi thấy phản ứng của anh ta. “Hồi hình thoi. Đó là một bộ phận trong não có chức năng nhận biết hình dạng của các khuôn mặt. Bộ phận đó của em phát triển bất thường. Chắc là em nên ra chợ vẽ chân dung.”
“Anh hiểu rồi,” anh ta nói. “Em còn nhớ được gì khác nữa không?”
“Anh đang nói chuyện với ai đó.”
Anh ta chống khuỷu tay lên đỡ đầu, ghé lại gần cô và dùng ngón cái vuốt ve thanh quản của cô. Cảm thấy mạch cô đập rộn; cô như một chú thỏ non hoảng hốt. Hay đó chính là mạch đập của anh ta?
“Anh nghĩ chắc em phải nhớ cả khuôn mặt của người kia nữa, phải không?” anh ta hỏi, bộ não hoạt động ráo riết. Có ai biết là tối nay cô ta tới đây không? Cô ta có nhớ mà không bép xép về quan hệ của họ như anh ta đã dặn chứ? Anh ta có cái túi đựng rác nào bên dưới bồn rửa không?
Cô quay về phía anh ta với nụ cười bối rối: “Ý anh là sao?”
“Nhìn qua ảnh liệu em có nhận ra người kia không?”
Cô nhìn anh ta rất lâu. Rồi hôn anh ta dè dặt.
“Sao?” anh ta hỏi, đưa bàn tay còn lại từ dưới tấm chăn lông lên. “Ừm. Ừm, không. Anh ta quay lưng về phía em.”
“Nhưng em vẫn nhớ bộ quần áo anh ta mặc chứ? Ý anh là nếu em được yêu cầu nhận dạng hắn?”
Cô lắc đầu. “Hồi hình thoi chỉ nhận ra khuôn mặt thôi. Phần còn lại của não em hoàn toàn bình thường.”
“Nhưng em vẫn nhớ được màu chiếc xe anh ngồi?”
Cô bật cười và rúc vào anh ta. “Thế tức là em thích cái mà em nhìn thấy, đúng không?”
Anh ta len lén rút tay ra khỏi cổ cô.
Hai tối sau, anh ta đã cho cô nếm trải toàn bộ màn diễn. Nhưng cô không thích cái thứ mà cô bị buộc phải xem. Hay nghe. Hay cảm thấy.
Những câu mở đầu của bài When Doves Cry gào tướng lên trong loa. Cô bèn vặn nhỏ tiếng xuống.
“Anh muốn gì?” cô hỏi, ngồi xuống cái ghế bành. “Như anh đã nói. Để xin lỗi em.”
“Anh vừa nói rồi. Từ giờ coi như xong nhé?” Cô cố tình ngáp rõ to. “Tôi đã chuẩn bị đi ngủ rồi, Tom.”
Anh ta cảm thấy cơn giận đang trào lên. Không phải màn sương màu đỏ làm biến dạng và che mờ mọi thứ, mà là hơi nóng trắng rực lên soi sáng và tiếp thêm sinh lực. “Được, vậy thì nói chuyện công việc nhé. Harry Hole đang ở đâu?”
Beate bật cười. Prince đang gào rú bằng chất giọng nam cao.
Tom nhắm mắt lại, cảm thấy càng lúc càng mạnh mẽ hơn bởi cơn giận đang cháy tràn trong huyết quản như làn nước sông băng làm dịu cơn khát. “Harry đã gọi cho em vào buổi tối anh ta biến mất. Anh ta cũng chuyển tiếp email, cho em. Em là đầu mối liên lạc của anh ta, người duy nhất anh ta có thể tin lúc này. Anh ta đang ở đâu?”
“Tôi mệt lắm rồi, Tom.” Cô đứng dậy. “Nếu anh muốn hỏi thêm bất cứ chuyện gì mà lúc này tôi không thể trả lời ngay được thì tôi đề nghị để đến mai đi.”
Tom Waaler không nhúc nhích. “Hôm nay anh vừa nói chuyện với một nhân viên bên trại giam. Harry vừa tới đó tối qua, ngay trước mũi chúng ta, trong lúc chúng ta và một nửa đơn vị mặc đồng phục đổ đi tìm anh ta. Em có biết rằng Harry liên kết với Raskol không?”
“Tôi chẳng biết anh đang nói về chuyện gì hay chuyện đó có liên quan gì tới vụ án cả.”
“Anh cũng vậy, nhưng anh đề nghị em ngồi xuống đã, Beate, và lắng nghe câu chuyện nhỏ mà anh nghĩ là sẽ khiến em đổi ý về Harry và bạn của hắn.”
“Câu trả lời là không, Tom. Về đi.”
“Ngay cả khi câu chuyện đó liên quan đến cha em ư?”
Anh ta thấy miệng cô giật giật và biết mình đã đánh trúng đích.
“Anh có những nguồn tin mà - biết nói sao nhỉ - cảnh sát bình thường không thể tiếp cận, có nghĩa là anh biết chuyện gì đã xảy ra vào lúc cha em bị bắn ở Ryen. Và anh biết ai đã bắn ông ấy.”
Cô tròn mắt, há hốc miệng.
Waaler bật cười. “Em chưa sẵn sàng đón nhận chuyện này phải không?”
“Anh nói dối.”
“Cha em đã bị bắn bằng một khẩu tiểu liên Uzi, sáu viên vào ngực. Theo báo cáo thì ông ấy đã đi vào ngân hàng để thương lượng, mặc dù lúc đó ông ấy chỉ đi một mình, không mang theo vũ khí và vì thế chẳng có gì để mà thương lượng cả. Tất cả những gì ông ấy có thể hy vọng chỉ là khiến cho lũ cướp trở nên căng thẳng và hung hãn mà thôi. Một sai lầm khủng khiếp. Không thể hiểu nổi. Nhất là khi cha em vốn được xem là một huyền thoại về nghiệp vụ cảnh sát. Thật ra, ông ấy đi cùng một đồng nghiệp, một sĩ quan trẻ đầy hứa hẹn với những triển vọng xán lạn, một ngôi sao đang lên. Nhưng anh ta lại chưa tìm có kinh nghiệm trực tiếp về một vụ cướp ngân hàng nào và đương nhiên không phải là về những tên cướp mang theo những khẩu súng ra hồn.
“Anh ta vốn rất hòa hợp với cấp trên và hôm đó anh ta phải lái xe đưa cha em về nhà sau giờ làm. Vì vậy, cha em tới Ryen trong một chiếc xe mà báo cáo đã không đề cập đến rằng không phải là xe của cha em. Vì xe của cha em lúc đó đang ở trong ga ra nhà em, cùng với em, Beate, và mẹ, khi nhận được tin, phải không?”
Anh ta thấy cổ cô gồng lên, căng cứng và chuyển sang màu xanh. “Tiên sư anh, Tom.”
“Lại đây nào, để nghe câu chuyện nhỏ về cha em,” anh ta nói, vỗ vỗ tay xuống cái nệm xô pha bên cạnh. “Vì anh sẽ kể bằng một giọng rất dịu dàng và anh thật lòng nghĩ là em nên nghe chuyện này.”
Cô lưỡng lự, bước thêm một bước rồi lại thôi.
“Thôi được”, Tom nói. “Hôm đó, vào - tháng mấy nhỉ, Beate?”
“Tháng Sáu,” cô thốt lên.
“Đúng rồi, tháng Sáu. Họ nghe thấy báo cáo trên điện đài, ngân hàng đó lại ở gần, họ đã lái xe tới đó và đỗ ở bên ngoài, mang theo súng. Tay cảnh sát trẻ và vị thanh tra dạn dày. Họ hành động theo đúng nguyên tắc, đợi chi viện hoặc đợi cho lũ cướp đi ra khỏi ngân hàng. Không hề nghĩ tới việc bước vào ngân hàng. Cho đến khi một tên cướp xuất hiện ở trước cửa, súng chĩa vào đầu một nữ nhân viên. Hắn gọi tên cha em. Hắn đã thấy họ bên ngoài và nhận ra thanh tra Lønn. Hắn hét lên rằng hắn sẽ không làm hại người phụ nữ đó, nhưng hắn cần một con tin. Nếu thanh tra Lønn chịu thế chỗ cô ta thì mọi chuyện sẽ ổn. Nhưng ông ấy phải bỏ súng xuống và đi vào ngân hàng một mình để thực hiện vụ trao đổi đó. Và cha em, ông ấy đã làm gì? Ông ấy suy nghĩ. Ông ấy phải nghĩ thật nhanh. Người phụ nữ đó đang bị sốt. Người ta có thể chết vì sốt. Ông ấy nghĩ tới vợ mình, mẹ em. Một ngày thứ Sáu, tháng Sáu, sắp tới cuối tuần. Và nắng… nắng rực rỡ, phải không Beate?”
Cô gật đầu.
“Ông ấy nghĩ trong ngân hàng chắc đang nóng lắm. Căng thẳng. Tuyệt vọng. Rồi ông ấy quyết định. Ông ấy quyết định làm gì, Beate?”
“Ông ấy đi vào trong.” Tiếng thì thào nghẹn ngào cảm xúc.
“Ông ấy đi vào trong.” Waaler hạ thấp giọng. “Thanh tra Lønn đã đi vào trong ngân hàng, còn tay cảnh sát trẻ đứng ngoài đợi. Đợi chi viện. Đợi người phụ nữ đó đi ra. Đợi ai đó đến bảo anh ta phải làm gì, hoặc đó chỉ là một giấc mơ hay một tình huống huấn luyện nào đó, và anh ta có thể về nhà vì đó là thứ Sáu, trời thì nắng rực rỡ. Nhưng, trái lại, anh ta nghe thấy…” Waaler bắt chước một tràng súng nổ bằng cách để lưỡi lên vòm miệng và rung lên. “Cha em đổ gục xuống ngay ngưỡng cửa đang mở, nằm sông soài trên mặt đất, nửa người bên trong, nửa bên ngoài. Sáu phát súng vào ngực.”
Beate ngồi phịch xuống ghế.
“Tay cảnh sát trẻ nhìn thấy vị thanh tra nằm đó và biết trong đó không phải là một đợt huấn luyện. Hay là một giấc mơ. Chúng thật sự có súng tự động và chúng có gan bắn cảnh sát không chùn tay. Anh ta sợ hãi hơn bao giờ hết. Anh ta đã đọc về những tình huống như vậy, anh ta từng đạt điểm cao về môn tâm lý học, nhưng có gì đó rạn vỡ. Anh ta bị khống chế bởi chính nỗi sợ hãi mà anh ta đã viết rất hay trong bài thi. Anh ta lên xe và lái đi. Anh ta cắm đầu lái về tới nhà, và cô vợ trẻ mới cưới ra đón anh ta tức giận vì anh ta đã về ăn tối muộn. Anh ta đứng đực ra nghe trách móc, như một cậu học sinh, và hứa sẽ không bao giờ tái phạm rồi vào ăn tối. Sau khi ăn tối xong, họ xem ti vi. Một phóng viên nói rằng có một cảnh sát đã bị bắn trong một vụ cướp ngân hàng. Cha em đã chết.”
Beate giấu mặt trong lòng bàn tay. Mọi chuyện cũ chợt ùa về. Toàn bộ ngày hôm đó. Cái nhìn thích thú đầy tò mò lên vầng mặt trời tròn xoe trên nền trời xanh trống rỗng. Cô cũng đã nghĩ đó chỉ là một giấc mơ.
“Những tên cướp ngân hàng đó có thể là ai? Ai lại biết tên cha em, ai biết toàn bộ cách bố trí trong ngân hàng, ai biết trong số hai cảnh sát đang đứng ngoài, chỉ có thanh tra Lønn là người có thể đe dọa chúng? Ai có thể lạnh lùng tính toán được rằng hắn có thể đặt cha em vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan và biết trước lựa chọn của ông ấy? Để hắn có thể bắn chết ông ấy và muốn làm gì với tay cảnh sát trẻ cũng được? Ai? Beate?”
Nước mắt chảy xuống kẽ ngón tay cô. “Ra…” cô sụt sịt.
“Anh chưa nghe thấy, Beate.”
“Raskol.”
“Đúng, là Raskol. Chỉ có hắn thôi. Tên phụ tá của hắn nổi đóa. Chúng là cướp chứ không phải là bọn giết người, hắn bảo vậy. Hắn ngu đến mức dọa sẽ ra đầu thú và khai ra Raskol. May mà hắn đã trốn được khỏi Na Uy trước khi Raskol tóm được.”
Beate nức nở. Waaler đợi.
“Em có biết cái phần nực cười nhất trong chuyện này là gì không? Đó là em để cho mình bị kẻ giết cha lừa gạt. Giống như cha em vậy.”
Beate ngẩng đầu lên. “Ý… ý anh là sao?”
Waaler nhún vai. “Em nhờ Raskol chỉ ra kẻ giết người. Hắn đang săn lùng kẻ đã dọa sẽ khai ra hắn trong một phiên tòa xử tội sát nhân. Vậy thì hắn làm gì? Đương nhiên, hắn sẽ đổ cho kẻ đó.”
“Lev Grette ư?” Cô lau nước mắt.
“Tại sao không? Như thế em có thể giúp hắn tìm ra Lev. Anh đã đọc báo cáo và biết là em đã tìm thấy Grette treo cổ. Rằng hắn đã tự sát. Anh chẳng đặt cược vào cửa đó. Anh sẽ không ngạc nhiên nếu có kẻ nào đó đã tới trước em.”
Beate hắng giọng. “Anh đã quên mất vài chi tiết. Trước hết là chúng tôi đã tìm được một lá thư tuyệt mệnh. Lev không để lại nhiều thứ có chữ biết tay của anh ta, nhưng tôi đã nói chuyện với em trai anh ta, và người đó đã tìm lại vài cuốn vở cũ trên gác xép tại nhà họ ở Disengrenda. Tôi đã đưa đến cho Jean Hue, chuyên gia về chữ viết tay ở Kripos, anh ta khẳng định đó là chữ viết của Lev. Thứ hai, Raskol đã vào tù, tự nguyện. Chuyện đó không khớp lắm với ý định giết người để tránh bị trừng phạt.”
Waaler lắc đầu. “Em là một cô gái thông minh, nhưng cũng giống như cha em, em không hiểu rõ tâm lý con người. Em không biết trí não tội phạm hoạt động như thế nào. Raskol không ở trong tù, chỉ là tạm thời chuyển trụ sở tới nhà từ Botsen thôi. Một cái án giết người có thể thay đổi toàn bộ chuyện đó. Trong khi ấy, em lại đang bảo vệ hắn. Và bạn của hắn, Harry Hole.”
Anh ta ghé lại gần và đặt một bàn tay lên cánh tay cô. “Anh xin lỗi nếu như chuyện đó khiến em đau lòng, nhưng giờ em đã biết rồi, Beate. Không phải là do cha em khinh suất. Và Harry lại đang cấu kết với kẻ đã giết cha em. Vậy em nghĩ sao? Chúng mình sẽ cùng tìm ra Harry chứ?”
Beate nhắm nghiền hai mắt, nặn nốt giọt nước mắt cuối cùng. Rồi cô mở mắt ra. Waaler đưa cho cô chiếc khăn tay và cô cầm lấy.
“Tom,” cô nói. “Tôi phải giải thích cho anh rõ chuyện này.”
“Không cần đâu.” Waaler vuốt ve bàn tay cô. “Anh hiểu mà. Lòng trung thành của em đang giằng co. Thử tưởng tượng xem cha em sẽ làm gì. Thế mới gọi là chuyên nghiệp, nhỉ.”
Beate quan sát anh ta. Rồi cô chậm rãi gật đầu. Cô hít vào. Đúng lúc đó, điện thoại đổ chuông.
“Em có định nghe điện thoại không?” Waaler nói, sau khi điện thoại đổ ba hồi.
“Là mẹ tôi,” Beate nói. “Nửa phút nữa tôi sẽ gọi lại cho bà.”
“Nửa phút ư?”
“Đó là khoảng thời gian cần thiết để tôi nói với anh rằng nếu tôi biết Harry ở đâu thì anh sẽ là người cuối cùng mà tôi cho biết.” Cô trả lại anh ta chiếc khăn tay. “Và cũng là để anh xỏ giày vào mà biến ra khỏi đây.”
Tom Waaler cảm thấy cơn giận trào lên như một cái vòi phun nước lên đến lưng, rồi cổ. Anh ta tận hưởng điều đó trong một khoảnh khắc rồi dùng một tay giật cô ngã xuống dưới mình. Cô thở dốc và chống cự, nhưng anh ta biết cô cảm thấy anh ta đã cứng lên rồi và cái miệng mím chặt của cô sẽ sớm mở ra thôi.
○○○
Sau sáu hồi chuông, Harry gác máy và rời khỏi bốt điện thoại để cô gái đứng sau anh có thể len vào. Anh quay lưng về phía phố Kjolberggata và chiều gió, châm một điếu thuốc rồi nhả khói về phía bãi đỗ xe và những căn nhà lưu động. Chuyện này thật nực cười. Giờ anh đang đứng đây, chỉ cách Phòng Giám định Pháp y, Sở Cảnh sát và căn nhà lưu động một tầm ném đá theo ba hướng khác nhau. Mặc một bộ vest của dân Di gan. Bị truy nã. Nghe mà buồn cười đến chết được.
Răng Harry đánh đàn. Anh quay nửa người lại khi một chiếc xe cảnh sát lướt qua con phố nườm nượp xe cộ nhưng không có dân cư. Harry chưa ngủ được chút nào. Không chịu nổi phải ở yên một chỗ trong lúc thời gian trôi qua. Anh xéo nát đầu mẩu thuốc dưới gót chân và đang định bước đi thì nhìn thấy cái bốt điện thoại lại trống. Anh bèn nhìn đồng hồ. Đã gần nửa đêm mà cô không có nhà thì lạ thật. Có lẽ cô đã đi ngủ và không ra nhấc điện thoại kịp? Anh lại bấm số. Cô nhấc máy ngay tức khắc. “Beate đây.”
“Tôi Harry đây. Tôi có làm cô thức giấc không?”
“Tôi… có.”
“Xin lỗi. Mai tôi gọi lại nhé?”
“Không, giờ thì rảnh rỗi.”
“Cô đang một mình chứ?”
Im lặng. “Sao anh lại hỏi vậy?”
“Nghe cô nói có vẻ… thôi, quên đi. Cô đã phát hiện ra điều gì chưa?”. Anh nghe thấy cô nuốt ực như thể đang cố gắng lấy lại hơi thở.
“Weber đã kiểm tra các dấu vân tay trên cái ly. Hầu hết là của anh. Việc phân tích chất cặn trong cái ly đó mấy hôm nữa sẽ xong.”
“Tuyệt.”
“Còn về cái máy tính trong kho của anh, hóa ra trong đó có cài một chương trình chuyên dụng cho phép đặt trước ngày và giờ gửi một cái email nào đó. Sự thay đổi cuối cùng trên những email đó được thực hiện vào cái ngày Anna Bethsen chết.”
Harry không còn cảm thấy cơn gió lạnh cắt da cắt thịt nữa.
“Có nghĩa là những email mà anh nhận được đã có sẵn và chỉ đợi đến lúc gửi đi thôi,” Beate nói. “Điều đó lý giải làm sao mà anh hàng xóm người Pakistan của anh lại thấy nó trong kho chứa đồ của anh từ cách đây khá lâu.”
“Ý cô là chương trình đó tự động gửi thư đi trong suốt thời gian vừa qua ư?”
“Được kết nối với mạng lưới chính thì cái máy tính và điện thoại di động sẽ tự xử lý được.”
“Trời!” Harry vỗ trán. “Nhưng điều đó chắc hẳn phải có nghĩa là cái gã lập trình trên cái máy tính đó đã đoán trước được toàn bộ tiến trình của sự việc. Toàn bộ câu chuyện quỷ quái này là một màn múa rối, và chúng ta là những con rối.”
“Có vẻ là như vậy. Harry này?”
“Tôi đây. Tôi chỉ đang cố gắng tiếp nhận chuyện đó. Thôi, tốt nhất là nên quên nó đi một lát, có quá nhiều thông tin phải xử lý cùng lúc. Thế còn tên của công ty mà tôi đã nói với cô thì sao?”
“À, công ty đó. Điều gì khiến anh nghĩ là tôi đã động chút nào tới việc đó?”
“Chẳng gì cả. Cho đến lúc cô nói câu vừa rồi.”
“Tôi có nói gì đâu.”
“Không, nhưng cách nói của cô nghe đầy hứa hẹn.”
“Ồ, vậy sao?”
“Cô đã tìm thấy thứ gì phải không?”
“Tôi đã tìm thấy một thứ.”
“Nói đi!”
“Tôi đã gọi cho những kế toán mà cửa hàng khóa đó thuê và yêu cầu một cô gửi cho tôi số bảo hiểm xã hội của các nhân viên làm việc tại đó. Có bốn nhân viên toàn thời gian và hai bán thời gian. Tôi chạy các số bảo hiểm đó qua Danh sách Tội phạm và An sinh Xã hội. Năm trong số đó chưa từng có tiền án tiền sự. Nhưng một…”
“Sao?”
“Tôi đã phải dùng giấy chứng nhận để lấy được mọi thông tin. Phần lớn là ma túy. Đã từng bị cáo buộc là bán rong heroin và morphine, nhưng chỉ bị kết án vì tội tàng trữ một lượng nhỏ cần sa. Từng ngồi tù vì tội đột nhập và hai vụ cướp có vũ khí.”
“Dùng bạo lực à?”
“Hắn dùng một khẩu súng trong một vụ. Không bắn, nhưng đã nạp đạn.”
“Tuyệt. Hắn là kẻ chúng ta tìm. Cô đúng là thiên thần. Tên hắn là gì?”
“Alf Gunnerud. Ba mươi tuổi, độc thân. Ở số 9, phố Thoa Olsens. Có vẻ như sống một mình.”
“Nhắc lại tên và địa chỉ đi.”
Beate nhắc lại.
“Ừm. Không thể tin nổi là với một lý lịch như vậy mà Gunnerud lại tìm được việc làm một cửa hàng khóa.”
“Trong danh sách thì Birger Gunnerud là chủ.”
“Ra vậy. Tôi hiểu. Cô chắc là mọi chuyện vẫn ổn chứ?”
Im lặng.
“Beate?”
“Mọi chuyện vẫn ổn cả, Harry. Anh định làm gì bây giờ?”
“Tôi đang nghĩ đến chuyện viếng thăm nhà hắn. Xem liệu tôi có thể tìm được thứ gì thú vị không. Nếu tin được thì tôi sẽ gọi cho cô từ căn hộ của hắn để cô có thể cho một chiếc xe tới và tịch thu bằng chứng theo đúng quy định.”
“Khi nào anh đi?”
“Tại sao?”
Lại im lặng.
“Để chắc là tôi có nhà khi anh gọi điện.”
“Mười một giờ ngày mai. Hy vọng là lúc đó hắn đang ở chỗ làm.”
Khi Harry gác máy, anh đứng nhìn trân trân lên bầu trời đêm đầy mây uốn cong bên trên thành phố như một cái mái vòm màu vàng. Anh đã nghe thấy tiếng nhạc ở hậu cảnh. Nhỏ thôi, nhưng cũng đủ. Bài Purple Rain của Prince.
Anh nhét một đồng xu vào rãnh và bấm số 1881.
“Tôi muốn biết số điện thoại của người có tên là Alf Gunnerud…”
Chiếc taxi lướt đi như một con cá đen lặng lẽ trong màn đêm, qua những cột đèn giao thông, dưới ánh sáng của đèn đường và tấm biển báo hiệu trung tâm thành phố.
“Chúng ta không thể cứ tiếp tục kiểu gặp gỡ như thế này,” Øystein nói. Anh ta nhìn vào gương và nhìn Harry mặc bộ áo liền quần màu đen mà anh ta đã mua hộ cho anh từ nhà.
“Có mang xà beng đi không đấy?” Harry hỏi.
“Trong cốp ấy. Nhỡ tên đó có nhà thì sao?”
“Người có nhà thường sẽ nghe điện thoại.”
“Thế nhỡ hắn về lúc cậu đang ở trong nhà hắn?”
“Thế thì làm như tôi đã dặn: hai tiếng còi ngắn.”
“Được rồi, được rồi, nhưng tôi không biết gã đó trông thế nào.”
“Khoảng ba mươi, tôi đã nói rồi còn gì. Thấy ai giống thế đi vào nhà số 9 thì bấm còi lên.”
Øystein đánh xe vào cạnh một tấm biển CẤM ĐỖ tại một khúc phố xoắn ô nhiễm đông nghịt xe cộ được nhắc tới trên trang 256 một cuốn sách đầy bụi có tựa đề Ủy viên hội đồng Thành Phố IV trong một thư viện công cộng ở gần đó là “con phố cực kỳ u ám, khó coi có tên là Thoa Olsens”. Nhưng tối nay thì nó lại cực kỳ thích hợp với Harry. Tiếng ồn ào, xe cộ phóng qua và bóng tối sẽ ngụy trang cho anh và chiếc taxi đang đợi.
Harry nhét thanh xà beng vào ống tay áo khoác da và rảo bước sang đường. Anh nhẹ người khi thấy có ít nhất hai mươi cái chuông bên ngoài nhà số 9. Điều đó sẽ cho anh khá nhiều lựa chọn nếu trò bịp của anh không hiệu quả ngay lần đầu. Tên Alf Gunnerud đứng thứ hai phía bên phải. Anh ngước nhìn phía bên phải của tòa nhà. Những ô cửa sổ trên tầng bốn tối om. Harry bèn bấm chuông tầng trệt. Một giọng nữ đang ngái ngủ cất lên.
“Xin chào, tôi đang cố gắng liên lạc với Alf,” Harry nói. “Nhưng ở đó người ta bật nhạc to đến mức không nghe thấy tiếng chuông. Tức là Alf Gunnerud ấy. Anh thợ khóa ở tầng bốn. Cô làm ơn mở cửa giùm tôi được không?”
“Đã quá nửa đêm rồi.”
“Tôi xin lỗi. Tôi sẽ lên nhắc Alf vặn nhạc nhỏ lại.” Harry chờ đợi. Rồi tiếng ro ro vang lên.
Anh bước ba bậc một. Lên tầng bốn, anh đứng lại và lắng nghe, nhưng chỉ thấy tim mình đang đập thình thịch. Phải chọn giữa hai cánh cửa. Một miếng giấy bôi màu xám đề ANDERSEN viết bằng bút dạ dán trên một cánh cửa. Cánh cửa còn lại trống trơn.
Đây là phần quan trọng nhất trong kế hoạch. Nếu là khóa đơn thì có thể bẩy cong đến lúc nó mở ra mà không đánh thức cả tòa nhà, nhưng nếu Alf dùng cả một loạt khóa mua từ Lasesmeden AS thì Harry gặp rắc rối rồi. Anh nhìn cánh cửa từ trên xuống dưới. Không thấy nhãn dán của một dịch vụ an ninh hay tổng đài trung tâm nào. Không có khóa an toàn chống khoan. Không có xi lanh đôi chống trộm với chốt kép. Chỉ có một cái khóa xi lanh đơn nhãn hiệu Yale cũ kỹ. Dễ như ăn kẹo.
Harry giơ ống tay áo khoác lên và tức lấy thanh xà beng khi nó thò ra. Anh lưỡng lự, rồi nhét đầu nhọn vào khe cửa phía dưới cái khớp. Gần như quá dễ dàng. Nhưng không có thời gian để nghĩ, và cũng không có lựa chọn. Anh không nạy bật cửa ra mà chỉ ép cánh cửa về phía bản lề để anh có thể lách cái thẻ ngân hàng của Øystein vào trong cái chốt làm cái then trượt ra khỏi cái hộp trên khung cửa. Anh dùng lực bẩy cánh cửa hé ra thêm một chút nữa, và dùng gót chân đạp lên mép cửa bên dưới. Cánh cửa kêu cót két trên bản lề trong lúc đẩy nhẹ thanh xà beng và nhét cái thẻ qua. Anh lẻn vào trong rồi đóng cánh cửa sau lưng lại. Toàn bộ quá trình đó diễn ra trong vòng tám giây.
Tiếng tủ lạnh kêu o o và tiếng cười trong một bộ phim sitcom nào đó từ ti vi nhà hàng xóm vọng sang. Harry cố gắng thở thật sâu và đều trong lúc lắng nghe mọi động tĩnh trong bóng tối như mực. Anh nghe thấy tiếng xe cộ chạy ngoài đường và cảm thấy một luồng gió lạnh buốt, cho thấy cửa sổ trong căn hộ này đã cũ. Nhưng quan trọng nhất: không có những tiếng động cho thấy có người trong nhà.
Anh tìm thấy công tắc đèn. Tiền sảnh dứt khoát là cần phải được cải tạo, phòng khách thì cần trát vữa lại. Bếp lẽ ra phải được loại bỏ. Đồ đạc bên trong của căn hộ lý giải vì sao biện pháp an ninh lại sơ sài. Hay, nói chính xác ra là chẳng có đồ đạc gì mấy. Alf Gunnerud chẳng có gì, ngay cả một cái đài stereo mà lẽ ra Harry đã phải bảo anh ta vặn nhỏ tiếng đi. Bằng chứng duy nhất cho thấy có người ở là hai cái ghế gấp, một cái bàn uống nước màu xanh lục, quần áo bừa bãi khắp nơi và một cái giường có ruột chăn lông nhưng không có vỏ.
Harry đeo đôi găng tay rửa bát mà Øystein đã mang theo và bê một chiếc ghế vào trong sảnh. Anh để nó trước hàng tủ bát đĩa treo thường cao đến tận cái trần nhà ba mét, gạt hết những ý nghĩ nảy ra từ trước khỏi đầu và thận trọng đặt một bàn chân lên tay vịn ghế. Đúng lúc đó thì điện thoại đổ chuông. Harry bước chệch một bước sang bên, cái ghế gấp sập lại và anh ngã phịch xuống sàn nhà.
○○○
Tom Waaler có linh cảm xấu. Tình huống này thiếu mất cái cấu trúc rõ ràng mà lúc nào anh ta cũng cố gắng đạt tới. Vì sự nghiệp và triển vọng tương lai của anh ta không nằm trong tay anh ta mà là do những kẻ anh ta liên minh chi phối, nên nhân tố con người là một rủi ro tiềm ẩn mà anh ta cần phải tính đến. Cảm giác bất an đó xuất phát từ thực tế là anh ta không biết liệu mình có thể tin tưởng Beate Lønn, Rune Ivarsson hay - và điều này mới hệ trọng - cái kẻ vốn là nguồn thu nhập quan trọng nhất của anh ta: Xỏ lá.
Khi Tom biết tin Hội đồng Thành phố bắt đầu gây áp lực với Giám đốc Sở Cảnh sát, yêu cầu phải bắt bằng được Kẻ Hành quyết sau vụ cướp ngân hàng trên phố Gronlandsleiret, anh ta đã chỉ thị cho Xỏ lá lánh đi. Hai người đã đồng ý về một địa điểm mà Xỏ lá biết từ hồi trước. Pattaya là nơi chứa chấp nhiều tội phạm bị truy nã từ các nước phương Tây nhất ở phía Đông bán cầu và chỉ cách phía Nam Bangkok hai tiếng lái xe. Đóng vai một khách du lịch da trắng, Xỏ lá sẽ hòa lẫn vào đám đông. Xỏ lá gọi Pattaya là “Sodom[7] của châu Á”, vì vậy Waaler không thể hiểu tại sao hắn lại lù lù dẫn xác về Oslo, kêu rằng hắn không chịu nổi nó thêm một phút nào nữa.
Waaler dừng đèn đỏ trên đường Uelands và xi nhan rẽ trái. Cảm giác bất an. Xỏ lá đã tiến hành vụ cướp ngân hàng gần đây nhất mà không thèm hỏi qua anh ta trước, và đó là sự vi phạm nguyên tắc nghiêm trọng. Nhất định phải xử lý chuyện đó.
Anh ta vừa cố gọi cho Xỏ lá, nhưng hắn không nghe máy. Việc đó có thể hiểu theo bất cứ nghĩa nào. Ví dụ như, có thể là hắn đang ở căn nhà gỗ ở Tryvann, lên kế hoạch chi tiết cho vụ đánh cắp một chiếc xe tải chở tiền mà cả hai từng nói tới. Hoặc là đang kiểm tra các dụng cụ - quần áo, vũ khí, điện đài cảnh sát, các bản vẽ. Nhưng cũng có thể là hắn lại tái nghiện và ngồi ở trong góc nhà gật gù, ống tiêm cắm trên cẳng tay.
Waaler lái xe chầm chậm trên con phố nhỏ tối tăm, bẩn thỉu nơi Xỏ lá sống. Một chiếc taxi đang đợi khách đỗ bên kia đường. Waaler ngước lên nhìn cửa sổ của căn hộ. Quái lạ, đèn vẫn sáng. Nếu Xỏ lá lại chích choác thì mọi chuyện sẽ hết sức hỗn loạn. Để vào được căn hộ của hắn không phức tạp lắm. Khóa cửa nhà hắn khá thường. Anh ta nhìn đồng hồ. Vụ ghé thăm Beate khiến anh ta khích động, và anh ta biết mình chưa thể ngủ được. Anh ta phải đi lòng vòng một lúc đã, rồi gọi vào cuộc điện thoại để xem chuyện gì xảy ra.
Waaler vặn to bài hát của Prince, tăng tốc và lái lên phố Ullevalsveien.
○○○
Harry ngồi trên cái ghế gấp, đầu gục vào hai lòng bàn tay, hông đau nhói nhưng không tìm ra một chút bằng chứng nào cho thấy Alf Gunnerud là thủ phạm. Chỉ mất mười phút để xem xét hết chút đồ đạc ít ỏi trong căn hộ, ít đến mức anh cứ thấy nghi nghi rằng hắn sống ở nơi nào khác. Harry đã tìm thấy một cái bàn chải đánh răng trong nhà tắm, một tuýp kem đánh răng đã gần hết và một mẩu xà phòng không còn nhận ra hình gì được nữa dính bết vào cái đĩa đựng. Thêm một cái khăn tắm có lẽ đã từng trắng. Chỉ có thế. Đó là cơ hội của anh.
Harry những muốn phá lên cười. Đập đầu vào trường. Đập bể đầu của một chai Jim Beam và uống whisky cùng những mảnh thủy tinh vỡ. Bởi vì thủ phạm phải là - phải là - Gunnerud. Theo thống kê, trong số tất cả những bằng chứng buộc tội, có một phần sẽ có giá trị hơn hết, đó là những cáo buộc và kết án trong quá khứ. Vụ này đã chỉ đích danh Gunnerud. Hắn từng có tiền án về ma túy và sử dụng súng, hắn lại làm việc cho một cửa hàng khóa và do đó có thể đặt làm bất cứ chìa khóa hệ thống nào hắn cần, ví dụ như chìa khóa căn hộ của Anna. Hay chìa khóa căn hộ của Harry.
Anh đi tới bên cửa sổ, tự hỏi làm sao mình lại có thể chạy vòng vòng theo đúng y cái kịch bản của một thằng điên nào đó. Nhưng giờ đây không có thêm sự chỉ dẫn hay lời thoại nào nữa. Trăng ló qua khe hở giữa những đám mây, trong giống như một viên thuốc bổ sung flo nhai dở, nhưng ngay cả điều đó cũng không thể giúp anh nhớ ra.
Anh bèn nhắm mắt lại. Tập trung. Thứ gì anh thấy trong căn hộ này có thể chỉ cho anh lời thoại tiếp theo? Cái gì anh đã bỏ sót? Anh hình dung lại căn phòng một cách tỉ mỉ, từng phần một. Sau ba phút thì anh bỏ cuộc. Tất cả đã kết thúc. Chẳng có gì ở đây cả.
Anh kiểm tra lại mọi thứ để đảm bảo chúng vẫn y nguyên như lúc anh mới tới và tắt đèn phòng khách. Đi vào toa lét, đứng trước bồn cầu và cởi cúc quần. Chờ đợi. Chúa ơi, giờ thì thậm chí anh còn không làm nổi việc này. Thế rồi nó cũng tuôn ra và anh thở dài một tiếng đầy mệt mỏi. Anh ấn cần gạt, nước xối và đúng lúc đó, anh chợt điếng người. Không phải anh vừa nghe thấy tiếng còi ô tô trên nền tiếng nước xối đấy chứ? Anh đi ra sảnh và đóng cửa nhà tắm lại để nghe rõ hơn. Đúng rồi. Một tiếng bịp ngắn gọn, dứt khoát trên phố. Gunnerud sắp về!
Harry đã ra tới ngưỡng cửa thì chợt nghĩ ra. Đương nhiên là chỉ tới lúc này anh mới nghĩ, khi đã quá muộn. Nước xả bồn cầu. Bố già. Khẩu súng. Đó là chỗ ưa thích nhất của tao.
“Mẹ kiếp, mẹ kiếp, mẹ kiếp!”
Harry lại chạy vào nhà tắm, tắm lấy cái núm trên nắp két nước mà vặn cuống cuồng. Cái đinh ốc màu đỏ, gỉ sét từ từ hiện ra. “Nhanh nữa lên này,” anh thì thào. Nhịp tim anh tăng vọt trong lúc anh xoáy cái núm và cái cần chết tiệt cứ xoay ken két nhưng không chịu rời ra. Anh nghe thấy tiếng sập cửa ở cầu thang. Rồi nó long ra và anh nhấc cái nắp két nước lên. Tiếng sứ va và nhau âm vang khắp cái không gian nhập nhoạng trong lúc nước vẫn tiếp tục dâng lên. Harry thò tay vào trong và ngón tay anh sượt qua lớp men trơn tuột của cái két nước. Cái chết tiệt gì thế này? Chẳng có gì cả ư? Anh lật cái nắp két nước lên, và thấy nó. Dán vào mặt trong. Anh hít một hơi sâu. Mọi vết khía, mọi chỗ lồi lõm, mọi gờ rìa hình răng cưa bên dưới cái miếng băng dính sáng loáng đó là một người bạn cũ. Nó vừa khít với cửa ngôi nhà, tầng hầm và căn hộ của anh. Tấm ảnh bên cạnh nó nhìn cũng quen không kém. Tấm ảnh biến mất trong gương. Cô em gái mỉm cười còn Harry thì cố ra vẻ ngầu. Da rám nắng và cái vẻ ngu ngơ đầy hạnh phúc. Tuy nhiên, Harry không quen thứ bột trắng trong cái túi ni lông được dán vào đó bằng ba miếng băng dính điện màu đen, nhưng anh đã sẵn sàng cá kha khá tiền rằng đó là diacetyl morphine, hay còn gọi là heroin. Rất nhiều heroin. Ít nhất cũng phải bóc lịch sáu năm. Harry không chạm vào bất cứ thứ gì, chỉ đậy cái nắp rồi vặn lại trong lúc lắng nghe tiếng bước chân. Như Beate đã chỉ ra, có lấy được bằng chứng cũng vô ích khi người ta biết rằng anh đã lẻn vào căn hộ này mà không có lệnh khám nhà. Cái núm đã được xoáy lại như cũ và anh chạy ra cửa. Không có lựa chọn nào hết, đành phải mở cửa và bước ra cầu thang thôi. Tiếng chân lê bước lên cầu thang. Anh khẽ khàng đóng cửa lại, ngó qua lan can và nhìn thấy một cái đầu tóc đen, dày, bờm xờm. Trong vòng năm giây nữa, hắn sẽ trông thấy Harry. Bước ba bước dài lên tầng năm là đủ để Harry đi khuất khỏi tầm nhìn của hắn.
Hắn dừng khựng lại khi phát hiện ra Harry đang ngồi trước mặt mình. “Chào anh, Alf,” Harry nói, nhìn đồng hồ. “Tôi đang chờ anh.”
Gã đàn ông nhìn anh chằm chằm với cặp mắt to. Một khuôn mặt xanh xao, lấm tấm tàn nhang, đóng khung trong bộ tóc dài chấm vai, nhờn mỡ, với phần tóc mai xung quanh tai cắt theo kiểu đầu của ca sĩ Liam Gallagher. Hắn không khiến Harry nghĩ đến một tên giết người chai sạn, mà là một thằng choai choai sợ bị ăn đòn thêm.
“Anh muốn gì?” hắn hỏi to, giọng the thé. “Tôi muốn anh đi với tôi tới Sở Cảnh sát.”
Hắn phản ứng một cách tự phát. Hắn xoay ngoắt lại, túm lấy lan can mà nhảy xuống đầu cầu thang bên dưới. “Này!” Harry kêu to, nhưng gã đã lỉnh mất khỏi tầm nhìn của anh. Tiếng bước chân thình thịch dưới bậc thang thứ năm hay thứ sáu gì đó vọng lên trong lồng cầu thang.
“Gunnerud!”
Như để trả lời, Harry thấy cánh cửa dưới nhà đóng sầm lại.
Anh thò tay vào túi áo khoác mới thấy mình chẳng mang theo điếu thuốc nào. Giờ thì kỵ binh quay đầu phản công.
○○○
Tom Waaler giảm tiếng nhạc, lôi cái điện thoại di động đang kêu ra khỏi túi, nhấn cái nút màu xanh và áp lên tai. Anh ta nghe thấy tiếng thở hổn hển, gấp gáp và lo lắng, có cả tiếng xe cộ ở đầu bên kia.
“A lô?” Giọng nói đó cất lên. “Anh có đó không?” Là Xỏ lá. Giọng hắn có vẻ đang rất sợ hãi.
“Gì thế, Xỏ lá?”
“Ôi, Chúa ơi, anh đây rồi. Mọi chuyện rối bét hết cả lên. Anh phải giúp tôi với. Mau lên.”
“Tao chẳng phải làm gì hết. Trả lời câu hỏi đi.”
“Họ đã phát hiện ra chúng ta. Có một tên cớm đứng trên cầu thang đợi tôi về.”
Waaler dừng lại chỗ vạch kẻ sang đường phía trước phố Ringveien. Một ông già bước từng bước rất ngắn, trông rõ kỳ quặc, sang đường. Nhìn ông ta bước thì chắc đến mùa quýt mới sang tới bên kia.
“Hắn muốn gì?” Waaler hỏi.
“Anh nghĩ sao? Muốn bắt tôi, tôi đoán vậy.”
“Thế thì tại sao mày vẫn chưa bị bắt?”
“Tôi chạy bán sống bán chết. Dông thẳng. Nhưng chúng đang lùng bắt tôi.
Ba xe cả sát đã đi qua. Anh có nghe không đấy? Chúng sẽ tóm tôi, trừ phi…”
“Đừng có hét vào điện thoại. Những cảnh sát khác đâu?”
“Tôi không thấy có cảnh sát nào khác. Tôi nhảy xuống luôn.”
“Và mày chạy thoát một cách dễ dàng hả? Mày có chắc cái gã đó là cảnh sát không?”
“Có, chính là hắn mà, phải không?”
“Ai?”
“Harry Hole, tôi đoán vậy. Hắn lại vừa ghé qua cửa hàng.”
“Mày chẳng nói gì với tao cả.”
“Đó là cửa hàng khóa. Cảnh sát viếng thăm suốt mà!”
Đèn chuyển sang xanh. Waaler bấm còi giục ô tô phía trước. “Thôi được, chuyện đó nói sau. Giờ mày đang ở đâu?”
“Tôi đang ở bốt điện thoại trước ờ… Tòa án.” Hắn cười giọng bồn chồn. “Và tôi không thích đứng đây lắm.”
“Có gì không nên có trong căn hộ của mày không đấy?”
“Sạch sẽ. Mọi dụng cụ tôi để căn nhà gỗ cả.”
“Thế còn mày? Mày có sạch không?”
“Anh biết quá rõ là tôi cai rồi mà. Anh có tới không? Mẹ kiếp, tôi đang run lẩy bẩy đây này.”
“Bình tĩnh đi, Xỏ lá.” Waaler ước tính xem anh ta sẽ mất bao nhiêu thời gian. Để tới Tryvann. Sở Cảnh sát. Trung tâm thành phố. “Coi nó như một vụ cướp ngân hàng ấy. Khi nào tới tao sẽ cho mày một viên.”
“Tôi đã bảo anh là tôi cai rồi mà.” Rồi, hắn ngập ngừng. “Tôi không biết là anh lại mang thuốc theo người đấy, Hoàng Tử.”
“Lúc nào tao chẳng mang.”
Im lặng.
“Anh có thuốc gì?”
“Vòng tay của mẹ. Rohypnol. Mày có mang khẩu Jelicho tao đưa cho không?”
“Lúc nào chẳng mang.”
“Tốt. Giờ thì nghe cho rõ đây. Chỗ hẹn của chúng ta sẽ là bến cảng ở phía Đông cảng công te nơ. Tao đang ở cách đó khá xa nên mày sẽ phải cho tao bốn mươi phút.”
“Anh đang nói gì vậy? Bố khỉ, anh phải tới đây ngay!”
Waaler lắng nghe tiếng thở phì phò phả vào lớp vỏ điện thoại mà không trả lời.
“Chúng mà tóm được tôi thì tôi lôi anh theo luôn. Hy vọng là anh hiểu điều đó, Hoàng Tử. Nếu làm vậy mà được tha thì tôi sẽ phun hết. Việc đếch gì tôi phải hứng tội cho anh nếu anh…”
“Nghe có vẻ như mày đang sợ vãi cả ra quần đấy, Xỏ lá. Mà lúc này thì không cần phải sợ. Có cái gì đảm bảo cho tao rằng mày chưa bị bắt và đây không phải là cái bẫy giăng ra để tóm tao? Giờ thì hiểu chưa hả? Hãy tới đó một mình và đứng dưới một ngọn đèn đường để tao thấy rõ mày khi tao tới đó.”
Xỏ lá rên lên. “Mẹ kiếp! Mẹ kiếp! Mẹ kiếp!”
“Sao?”
“Không sao. Được rồi. Nhớ mang theo thuốc đấy. Mẹ kiếp!”
“Cảng công te nơ, bốn mươi phút nữa. Đứng dưới đèn.”
“Đừng có tới muộn đấy.”
“Gượng đã, còn nữa. Tao sẽ đỗ xe dưới đường, cách xa chỗ mày đứng. Khi tao nói thì hãy giơ khẩu súng lên trời để tao thấy rõ.”
“Để làm gì? Anh bị hoang tưởng hay sao thế?”
“Cứ cho là hoàn cảnh lúc này hơi nhập nhằng một chút và tao sẽ không mạo hiểm đâu. Cứ làm như tao bảo.”
Waaler nhấn cái nút màu đỏ và nhìn đồng hồ đeo tay. Vặn cái núm điều khiển âm thanh về phía bên phải. Ghi ta. Những âm thanh đẹp đẽ và tinh khiết. Cơn giận đẹp đẽ và tinh khiết.
○○○
Bjarne Møller bước vào căn hộ và nhìn nhanh khắp căn phòng với vẻ chê trách.
“Một cái xó ấm cúng nhỉ?” Weber nói. “Nghe nói hắn là người quen?”
“Alf Gunnerud. Ít ra thì căn hộ này đứng tên hắn. Có cả lô vân tay ở đây. Để xem có phải là của hắn không. Kính.” Ông ta chỉ một chàng trai trẻ đang quét một cây cọ mỏng lên cửa sổ. “Những dấu vân tay rõ nhất luôn ở trên kính.”
“Vì ông đang lấy dấu vân tay, tôi đoán rằng ông đã phát hiện ra những thứ khác nữa ở đây phải không?”
Weber chỉ vào một cái túi ni lông đặt trên một tấm thảm trải sàn cùng với nhiều đồ vật khác. Møller ngồi thụp xuống và thọc một ngón tay qua đi kẽ hở trên túi. “Hừm. Nếm như vị heroin. Phải gần nửa ký. Thế cái này là gì?”
“Một tấm ảnh chụp hai đứa trẻ. Chúng tôi vẫn chưa biết là ai. Và một chiếc chìa khóa của hãng Trioving chắc chắn không phải của cái cửa này.”
“Nếu đó là một chiếc chìa khóa hệ thống, Trioving có thể sớm báo cho chúng ta biết chủ sở hữu của nó. Thằng bé trong ảnh có gì trông quen lắm.”
“Tôi cũng nghĩ thế.”
“Hồi hình thoi,” một giọng phụ nữ cất lên sau lưng họ.
“Cô Lønn,” Møller kêu lên ngạc nhiên. “Đơn vị Chống Cướp làm gì ở đây?”
“Chính tôi đã nhận được mật báo ở đây có heroin. Tôi đã được đề nghị gọi cho ông.”
“Vậy là cô cũng có người cung cấp tin trong giới buôn ma túy à?”
“Cả giới cướp ngân hàng nữa, ông biết đấy, đó là một gia đình lớn hạnh phúc mà.”
“Ai là người cung cấp tin?”
“Không biết. Anh ta gọi về nhà tôi sau khi tôi đã đi ngủ. Không để lại tên hay nói làm sao anh ta biết tôi làm trong ngành cảnh sát. Nhưng thông tin thì cụ thể và chi tiết đến mức tôi phải hành động và đánh thức ngay một cố vấn luật pháp của Sở Cảnh sát.”
“Ừm,” Møller nói. “Ma túy. Tiền án. Nguy cơ để mất vật chứng có giá trị. Tôi có thể hình dung là cô được bật đèn xanh ngay lập tức.”
“Vâng.”
“Tôi không thấy có xác chết, vậy tại sao lại gọi cho tôi?”
“Người cung cấp tin đã ám chỉ tới một việc khác nữa.”
“Ồ, là gì vậy?”
“Alf Gunnerud được cho là có quen biết Anna Bethsen rất rõ. Hắn là người tình và bán ma túy cho cô ta. Cho đến khi cô ta bỏ hắn đi với người khác lúc hắn đang ngồi tù. Ông nghĩ sao về chuyện đó, Møller?”
Møller nhìn Beate. “Tôi thấy vui,” ông đáp, không để lộ phản ứng gì. “Vui hơn cô có thể tưởng tượng nhiều.”
Ông vẫn chăm chú nhìn cô, rồi, cuối cùng, phải cụp mắt xuống.
“Weber,” ông nói. “Tôi muốn anh dựng hàng rào cách ly căn hộ này và gọi tất cả các nhân viên dưới quyền anh tới đây. Chúng ta có việc phải làm.”